Solitude

Cảnh như thị, nhân như thị

Chép vụn 8
Tuesday, March 4, 2014 Author: Trường An

1835-1836

MM thần tượng Lê Thánh Tông, nên ngày càng giống LTT, nhất là khoản... chém gió. (Mà chắc phàm ai thành công quá cao rồi thì cũng trở nên khinh suất đi.) (Ít ra MM còn đôi khi biết tự nhắc, dù mỗi lần bác nói kiểu đó thì cảm thấy bác có hội chứng "tâm thần phân liệt" hơi cao.) Cảm giác ngày càng độc đoán hơn, nhưng cũng có thể vì sức khỏe yếu đi.

Nguyên nhân Gia Định ưa LVD hơn MM có thể vì... GĐ giàu. Nên không hiểu nổi chính sách đo đếm từng li từng tí, đặc biệt là cấm xuất khẩu gạo, hay cấm "bắt chẹt" dân Cao Miên để khai thác thổ sản bên nớ... (Theo dư luận bên Cam thì chính LVD cũng đã có chính sách vô cùng tàn nhẫn khi đào kênh Vĩnh Tế - cái kênh này là "huyền thoại" với người Cam luôn, sau này moi ra là LVD cùng đàn em có nguyên sở khai thác bên nớ). Nói chung vì GĐ rất giàu, nên chỉ cần buông lỏng cho dân tự do làm giàu là được, mà càng giàu càng... lười, nên dân trốn lính sạch, chỉ khi nào có chiến tranh thì dân khỏi gọi cũng chạy tới. Nên dù có 1,2 ông quan tham nhũng, thì số đông vẫn vui vẻ thoải mái. Mà phải nói trong thời gian trị vì, MM hầu như tập trung hết sức cho miền Bắc, chả làm gì cho miền Nam, mà hễ cử ông quan nào đến là kẻ ấy có vấn đề. Như chuyện buôn gạo, MM mà trợ giá cho người ta bán ở VN thì chắc không phải chở đi buôn lậu, trong khi thuế ở Nam luôn cao hơn Bắc, Bắc được miễn giảm liên tục chứ Nam chả có dịp nào đòi giảm, có nghĩa đóng thuế nhiều mà chả được hưởng cái gì. => Dù không ưa LVK thì dân GĐ cũng không ưa MM.

Đến khi lấy lại được GĐ, lại bắt đầu ngăn sông cấm chợ vì sợ dân buôn lậu, rối loạn trật tự trị an... theo kiểu "không quản được thì cấm", trọng nông ức thương. Có lẽ MM được nuôi dạy bởi các quan người Bắc, lúc ở GĐ thì còn bé nên không có kinh nghiệm thực tiễn nào với nền kinh tế kiểu GĐ. (Dân Nam không thích làm quan nên đi dạy vua tương lai toàn mấy ông đồ nho miền Bắc, càng về sau càng nặng lý thuyết. MM từng bảo 1 ông người Trung là Thái học viện gì toàn người Bắc, thôi ông vào cho nó cân. Mấy cụ đồ này thì biết quái gì làm kinh tế mí lị cơ khí, MM may mà học được từ GL lúc sớm, nhưng về thương nghiệp thì cũng chả giỏi. Cơ bản là GL đã tạo lập hết rồi, chỉ cần buông cho các bến cảng hoạt động, dân yên nghiệp làm ăn là được.)

Sông đào lớn nhất ở Hưng Yên là sông Cửu An, chiều dài hiện giờ là 23,5km, huy động 6.000 người đào.

“Tục nước Chân Lạp có lệ cắt tóc để chịu tang. Nay quan Phiên phần nhiều đã nhận quan chức của triều đình, quân và dân cũng đều đã thành đội ngũ, không như tục cũ nữa." => Tục cắt tóc chịu tang của người Việt xưa. Như vậy thì những phong tục "nguyên bản" của người Việt cổ vốn rất giống với dân cư ĐN Á.


Vua ngự nhà Duyệt thị, bảo Phan Huy Thực ở bộ Lễ rằng : “Thi Đình rất khó lấy được người đỗ đệ nhất giáp (Đệ nhất giáp: tức là trạng nguyên, bảng nhãn và thám hoa.). Nếu không lấy thì là thiếu nhân tài, mà lấy phiếm, e không làm thoả được nguyện vọng của sĩ phu. Nghe nói: đời cựu Lê, đầu bài thi Đình rất nhiều, có người làm văn không làm đủ bài thì nhúng ướt quyển thi đi, là tại sao? Huy Thực thưa rằng: “Phép thi của đời cựu Lê, cốt lấy nhớ nhiều, nếu làm không đủ bài mà để lại e làm nhơ cho tiến sĩ cho nên nhúng ướt đi”.

=> Vậy chả có cái luật nào "không lấy trạng nguyên", chẳng qua là không có ai đủ trình độ trạng nguyên mà lấy. '__' Cả đời Nguyễn chỉ có mỗi 1 bảng nhãn thời Tự Đức, đừng nói tới trạng nguyên.

---

Sau khi hạ thành, báo cáo có 2400 biền binh "đã thu nhặt được hài cốt".

---

Đặt thêm xe “Thuỷ hoả ký tế” ở xứ Yên Yên nguồn Ô Lâu (thuộc địa phận xã Lại Bằng, huyện Hương Trà) để luyện thuốc súng. Lại sai các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định đặt thêm (Quảng Nam trước có 3 nơi, nay đặt thêm 2 nơi; Quảng Ngãi trước có 2 nơi nay đặt thêm 1 nơi; Bình Định trước có 2 nơi, nay đặt thêm 2 nơi).

Nhưng chỉ việc gì hay thì vơ vào mình, việc gì dở đùn cho người, chẳng hoá làm cho thức giả cười ư?

Thổ dân Bình Thuận khởi biến. Trước đây, khi Thuận Thành đã đổi đặt làm phủ huyện, sau đó Nguyễn Văn Thừa và Nguyễn Văn Nguyên bị bắt vì việc thông đồng với giặc bị phát giác. Thuộc hạ của chúng là Cai đội Nguyễn Văn Giảng, phân tri Mai Văn Văn sợ vạ lây, liền liên kết với bọn cai, phó tổng Trúc Văn Lân, Long Văn Thiêm và Lâm Văn Bình âm mưu làm phản. Chúng đúc ấn nguỵ, đặt quan chức nguỵ (nguỵ tuân chức cũng như người Kinh gọi là mưu chủ; nguỵ tả hữu phan dung cũng như Kinh gọi là tả, hữu tướng quân; nguỵ cai đội cũng như Kinh gọi là chưởng cơ; nguỵ lâu lang cũng như Kinh gọi là tiền phong, nguỵ thứ quan, nguỵ kha nhi, cũng như Kinh gọi là đội trưởng, nguỵ kha nô cương cũng như Kinh gọi là thứ đội trưởng), dụ dỗ dân Thuộc Man hợp với thổ dân làm giặc, đông đến vài nghìn người lấn xuống các địa hạt Giang Man, Phù Trường (thuộc huyện Tuy Định), Xuân Vi, Lịch Mô (đều là tên thôn thuộc huyện Hoà Đa), cướp bóc giết chóc dân Kinh.

"Nay chuẩn cho các ấn quan ở bộ, viện và Nội các lựa lấy con em các thuộc viên, quan Kinh doãn chọn lấy học trò và nhân dân trong hạt, từ 16 tuổi trở xuống, có chút tư chất thông sáng, và hơi thông văn nghĩa kinh sử, do bộ làm danh sách tâu lên, nhà nước sẽ hậu cấp cho lương ăn để học tập ngôn ngữ văn tự các nước ngoài. Khi học tập xong, mà tài năng kiến thức có điều khả thủ, sẽ liệu cho bổ dùng”. Nhân đó vua bảo Nội các rằng: “Văn tự của Tây dương chỉ có 24 chữ cái. Hiểu được 24 chữ ấy thì những chữ khác đều do đấy mà ra, học cũng chẳng khó”.

Đổi nhà công quán Thừa Thiên làm quán Tứ dịch. Sai bộ Lễ truyền lệnh tập hợp ty Hành nhân ở Kinh và các thông ngôn theo các bộ đều đến cư trú ở quán sở  (Tứ dịch) để giảng dạy ngôn ngữ văn tự Phiên Dương (Phiên Dương: tiếng bấy giờ dùng để chỉ chung các nước Tây dương và phiên thuộc.) cho các con em thuộc viên cùng các sĩ tử và nhân dân do các nha đã tuyển lựa và liệu định khoá trình.

Bọn Lê Bá Tú ở Nội các tâu xin: “Em, cháu, con cái của các đại gia, cự tộc không được kết hôn với con trai, con gái của các vương, công”. Vua cho là phải. Dụ rằng: “Con cái các vương, công không lo không được giàu sang; nếu lại kết hôn với đại gia, cự tộc thì sau này đua nhau, gián hoặc có hạng con em không tốt, nương tựa cửa quyền, cậy thế, phạm phép, thành ra không phải cái ý triều đình thiện đãi các thân phiên. Vậy từ nay nên cấm đi. Phàm con cái, cháu các quan ở Kinh từ Tam, tứ phẩm và ở ngoài các tỉnh từ Bố, án, Lãnh binh trở lên, không được kết hôn với con cái các hoàng tử thân công. Vậy ra lệnh cho Tôn nhân phủ đem điều này ghi vào thể lệ, quy tắc để theo đó thi hành lâu dài”.




Chép vụn 7
Monday, March 3, 2014 Author: Trường An

1834

Dân thời MM xem ra khá hơn dân thời Vũ Trọng Phụng. Ban đầu là quan ở Nam Định huy động được dân đi đào sông thoát nước, kết quả thu được là nước lụt thoát hết, sau Hưng Yên thấy thế làm theo, vua cho tiền mà dân (lẫn quan) tình nguyện không lấy '_' (mà mấy con sông này không ghi tên, chỉ có sông Đào Nam Định là có chút manh mối). Theo đến 1834 thì ở Bắc đã có 6 con sông đào, chắc cũng không lớn (sông Hưng Yên gần 2km, huy động 2000 người mà vẫn gọi là "tiểu công trình"). Nhưng vì vậy mới thuyết phục được đi đào một cái sông "nhớn" khác. (Đã bắt đầu có những nơi bỏ đê vì "giữ lại vô ích".)

Quan quân đánh thành GĐ bị MM mắng xa xả chắc đều nghĩ bụng "Thành do cha ngài xây chứ ai =__=|||" Tội nghiệp cái thành, vì chuyện này mà phăng teo. (Nhưng nghĩ vây 3 năm, làm đủ trò mà không hạ được, chỉ chờ đám trong thành chui ra thì chắc cũng phát khùng).

Lê Văn Khôi vốn người Cao Bằng, lại được ban họ Nguyễn Hựu (vốn phải gọi là Nguyễn Hựu Khôi, sau MM ghét nên mới bảo "nó coi như là con nuôi của LVD, vậy ta gọi nó là LVK"), sách bảo LVD thu được LVK khi đi đánh ở Thanh - Nghệ (LVD chưa bao giờ đến Cao Bằng). Lần ấy LVD đi bình định bọn thổ mục họ Quách, nghe LVD đến thì "tự ra hàng". LVK còn có một người em gái làm vợ lẽ của em trai MM.

Mà thổ mục họ Quách này đến đời MM lại "nhặt" được Lê Duy Lương, trở giáo làm phản tiếp. LVK lấy cớ phò trợ Lê Duy Lương mà lấy GĐ, liên hệ với Nông Văn Vân là anh vợ. Đầu dây mối nhợ ra làm sao mà MM truất ngạch tập tước của họ Lê luôn.

---

Lúc này mới thấy xe "thủy hỏa ký tế" tức là xe chữa cháy, vậy cái "thủy sương xa" vào 1826 chắc là xe hơi nước. Nhìn lại lịch sử thì cái xe dùng động cơ hơi nước được tạo ra đầu tiên ở... phương Đông, do một giáo sĩ làm cho nhà vua TQ chơi. Mô hình xe hơi nước vào thời MM có lẽ là thế này: Hình. Còn cái xe cứu hỏa chắc là cái này: Hình.

Sau này VN mà có sản xuất xe hơi thì MM trở thành ông tổ của ngành xe hơi VN luôn thể. =)) (ờ mà, chữ "xe hơi" là viết tắt của "xe hơi nước" chứ đâu.)

(Mà vầng, "ta ghét nhất là (bị) nói dối" - cái này cũng đã đoán được.)


Sai Hộ thành binh mã Phó sứ Trương Viết Súy đi nguồn Hữu nguyên chế xe “thủy hỏa ký tế” (cách làm: lợi dụng sức nước xô mạnh để máy xoay chuyển, không tốn công sức) và chiếu theo các bài thuốc súng mới chế theo mà luyện thuốc (bài Hồng Phương, bài Hùng Phương, bài Hộc Phương, mỗi thứ 2 vạn cân). Lại phái các viên ty thuộc các Bộ, các Viện và người ở các đội thị vệ, kim thương đến xem để suy nghiệm.

Lại nói: “Ta thấy trong cung dùng nước phải gánh, xách rất phiền, nhân chế ra cái xe nước, từ đó đỡ được biết bao nhân lực (cách thức: đục một cái lỗ từ phía ngoài tường trong cung thông vào phía trong, hình dạng khuất khúc, trong ngoài không trông thấy nhau. Trong tường để một chiếc chậu đồng lớn. ấn định giờ lấy nước, phía ngoài tường, đẩy xe nước đến rót vào miệng lỗ cho chảy vào chậu; trong cung, mọi người đều đến nơi đó lấy nước).

“Trước giờ, những chỗ đông nhà ở, mùa hè rất sợ cháy. Ta đã chế cái xe chữa cháy. Nếu dùng chữa cháy thì đỡ tốn sức mà lửa nào cũng phải tắt. Rồi sau đem xe ra cho bầy tôi xem”. (Cách thức: nước chứa vào trong một cái thùng. Trong thùng làm một cái máy đẩy nước. Lại lấy da cuộn thành một cái vòi tròn mà dài. Khi chữa cháy, 4, 5 người kéo xe, một người cầm cái sào dài buộc vòi da vào đầu sào giơ lên; 4 người theo hai bên xe vặn máy, thì nước trong thùng chạy qua vòi da tuôn lên như mưa).

Vua đến khe doành ở Hữu Trạch xem xe “Thủy hỏa ký tế”, thấy công trình nhanh chóng, rất hài lòng. Thưởng cho viên trông coi làm xe ấy là Trương Viết Súy kỷ lục 1 thứ và 3 đồng ngân tiền Phi long hạng lớn. Sai viên Kinh doãn chọn chỗ đất ở nơi đó lập miếu thờ chung hai vị thần doành khe và thuốc súng, hằng năm, đến kỳ trọng xuân luyện thuốc súng thì mổ trâu, dê, lợn để tế. Lại sai lập xưởng ở Thái Bình đài, vát 300 lính để theo phương pháp luyện thuốc súng.

---

“Từ trước, các học trò quen theo lối cử nghiệp cũ, nay đổi dùng văn thức tam trường, cốt để chấn chỉnh sửa lại thói quen của học trò để ngày càng đi vào lối học sâu rộng, đầy đủ, đẹp đẽ, thế mà quan trường phần nhiều lại hay câu nệ, thì e rằng những người học rộng, tài cao, khó lấy gì để tự tỏ mình ra được. Vậy, xin từ nay, phàm các kỳ thi hương, thi hội và nha môn các trường học ở trong Kinh và ngoài các tỉnh tất cả những phép khảo thí, dạy dỗ và học tập, khi dùng chữ làm văn, không cứ phải trưng dẫn hay lấy chữ ở sách nào, miễn là chiếu ứng và phát huy được ý nghĩa trong bài thì dẫu chẳng phải là chữ ở chỗ ra đầu bài mà là chữ sinh động nghĩ ra, thực có kiến thức, cũng là đều đáng nên để ý phê khen hoặc lấy đỗ, khiến học trò biết đường noi theo, đua ganh mài giũa, để cho lớn nhỏ đều thành tài, thu lấy thực hiệu được người giỏi”.

Sĩ tử nước ta, kiến văn hẹp hòi, nên lời văn chỉ được thế thôi. Song không những sĩ tử như thế mà cả đến những người dự hàng học quan và các quan trường chấm thi cũng ít người học rộng! Trong quyển thi có 1, 2 câu hợp lối mới, lại bị quan trường sổ toẹt, thì sĩ tử trông vào đâu để làm khuôn mẫu? Vả lại, việc trường thi chỉ chọn những người văn học khoa mục sung vào mà còn như thế, thì nay biết chọn đâu được!”.

“Xưa, Lý Bạch nhà Đường, biết dịch thư nước Phiên; nếu không học thì dịch làm sao được? Ta muốn đặt 4 nhà dịch quán ở Kinh đô, chọn những người am hiểu tiếng nói các nước Phiên, hậu cấp tiền, lương, sai dạy người trong nước, học tiếng nói và chữ viết các nước, để phòng khi phải thông dịch. Trừ những tiếng nói chim muông, còn thì nên biết cả, để trở thành một nước đại văn minh. Như thế thì việc đối ngoại không lầm lỡ, mà quốc thể tự được tôn trọng”.


Khiến bọn Cai đội Nguyễn Lương Huy và Chủ sự Lý Văn Phức coi quản các thuyền hiệu Định Dương và Thanh Dương đi công cán sang Hạ Châu đem theo Cà Lộ và Tú La (hai người này trước bị an trí ở tấu sở Đà Nẵng), người Bút-tu-kê, thả cho về nước.

Thuyền buôn của người Anh Cát Lợi đến đỗ ở tấn sở Đà Nẵng thuộc Quảng Nam, bắn 9 phát súng chào. Phó vệ úy án thủ 2 pháo đài An Hải và Điện Hải là Nguyễn Văn Lượng, Phó vệ úy trú phòng là Cao Văn Điện, vì thấy sắp đến ngày lễ Đại tự, không dám bắn súng để đáp lễ. Việc tâu lên. Vua dụ quở rằng: “Thuyền nước ngoài đến, theo lệ, có bắn súng đáp lễ. Huống chi, bắn súng cũng là việc thường, có hại quan hệ gì đến điển lễ cúng tế? Bọn ngươi sao mà chẳng thông nghĩa lý đến thế!”. Mỗi người đều bị phạt 6 tháng lương. Sắc sai bộ Binh tư hội, và truyền cho 2 pháo đài mỗi đài bắn ngay 3 phát súng để đáp lễ, rồi đến nói với chủ thuyền Anh Cát Lợi rằng: vừa đây, viên giữ tấn sở vì thấy quý quốc mới đến, nên chưa dám tự tiện bắn súng đáp lễ; nay được quan Thương bạc truyền sức, mới theo lệ làm. Sau đó sai bọn sung biện Các vụ là Nguyễn Tri Phương và Biện lý bộ Hộ là Phạm Thế Hiển xuống thuyền đổi mua võ khí và dặn: nên giữ một mực công bình chính trực, khiến sau nó không nói lại gì được mình, để giữ quốc thể. Còn thuế cảng thì đánh theo lệ thuyền Tây dương.

Lại nói: “Ta từ nhỏ rất ghét người nói dối. Biết được ai nói dối, thì không hề tha thứ bao giờ. Hôm vừa rồi, xem thấy sử chép vua Thái Tổ nhà Minh có cho dựng một tấm bia ở trong cung, khắc mấy chữ “Nói càn bậy thì chém”. Lúc mới ta cũng cho là phải, nay nhân nghĩ: Phàm người nói dối, xét về tình và lý, cũng có nặng nhẹ khác nhau, há nên nhất thiết trị tội cả? Ta ở trong cung, nghe ở bên cạnh có tiếng ho, hỏi, họ chối là không. Như vậy là họ sợ ta mà phải nói dối, thì có tội gì! Xưa, vua Thuấn hay hỏi và hay xét đoán. Thực  nên noi theo. Có điều là những bậc vua chúa, có người xét đoán sáng suốt, có người xét đoán hà khắc; hay, dở do đấy lại có khác nhau”.

Vua dụ rằng: “Năm ngoái, tên giặc Khôi làm phản, có nhiều người nhà Thanh a dua, mang lấy tội chết. Nay bọn khách đáp thuyền này đến đây, lại không có bang trưởng chịu trách nhiệm cam kết bảo đảm. Vậy truyền chỉ cho bọn thuyền hộ: lần này là lần đầu lầm lỗi, triều đình hãy tạm tha thứ, không nghiêm trách. Từ nay, phải bảo nhau: nếu là những người có vật lực đi buôn thì mới được đáp thuyền đến trao đổi mua bán. Còn cứ chở đến hàng trăm hàng nghìn những quân vô lại du côn, lỡ xảy ra việc lôi thôi thì phạm nhân tất bị xử tử, mà thuyền hộ cũng bị trị tội nặng và của cải trong thuyền đều bị sung công. Nay hạn cho trong tháng tư, phải quay buồm về, nếu cố ý để hành khách lưu lại kéo lên bờ gây sự, thì thuyền hộ tất bị chém đầu, không tha”.

“Trận đánh thành này đều đã hết lòng trù tính, hiệu lệnh rất đều, ba quân cùng cố sức xông pha dưới mũi tên ngọn giáo, ai cũng muốn giết hết giặc để tỏ lòng nghĩa phẫn. Ngặt vì thành này hào sâu, tường cao, đánh phá thực khó, mà đánh bằng hỏa yên, hỏa tiễn cũng vô hiệu, cho nên rút cục không thành công.

Dòng dõi vua Chiêm Thành là Quản cơ, hàm Vệ úy Nguyễn Văn Thừa, bị tội, phải tống giam.

Năm ngoái Đỗ Văn Hoan, người Bình Thuận buôn bán ở Gia Định, gặp khi giặc Khôi làm phản, có gửi y chở giúp người Man, tên là Tiêm Vô (gia nô của Nguyễn Văn Vĩnh, nguyên trấn thủ Thuận Thành) mang mật thư của giặc dụ tên Thừa chiêu tập bè đảng, chờ khởi sự. Thừa đã nhận lời, âm mưu làm phản. Sau được tin quan quân tiến đánh, tên Khôi liều chết, cố giữ cô thành, Thừa bèn thôi việc mưu phản. Sau, tên Hoan bị người ta tố giác việc này ; quan tỉnh là Hoàng Quốc Điều và Phan Phu liền bắt Hoan giam giữ nghiêm cẩn, rồi tham hặc việc Thừa tư thông với giặc. Vua cho đòi về Kinh để xét hỏi, nhưng Thừa nhiều lần cáo ốm, không chịu đi. Bèn cách chức, khóa giam lại và sai Ngự sử Lê Hữu Bản đến hội xét, nhưng Thừa còn giảo trá chối cãi. Sau giao cho bộ nghiêm xét, Thừa chịu thú nhận và xưng ra đồng đảng là Nguyễn Văn Nguyên (con Nguyễn Văn Vĩnh). Liền cho bắt cả để xét xử trị tội.

Các lễ tiết hằng năm: Tế Nam Giao, đàn Xã tắc vào 2 ngày ngày mậu, mùa xuân, mùa thu và lễ Nguyên đán ở liệt miếu, lệ vẫn đốt đèn lồng lớn sáng ngời, từ nay bỏ bớt đi; duy các miếu, đàn, từ, vũ về các vị trung tự, quần tự, đèn đuốc không bằng những bậc đại tự, thì vẫn theo lệ cũ. Lại, các tiết Thánh thọ, Vạn thọ, Nguyên đán, Đoan dương ở trước sân cung điện và trước Ngọ Môn, lệ có treo đèn lồng, cũng bỏ.

Tiết Vạn thọ. Hằng năm, vào ngày hôm trước, treo cờ khánh hỉ ở trên kỳ đài, đốt 1.000 ngọn đèn đĩa ở phía trước kinh thành; đến hôm chính ngày lễ, ở nhà Duyệt Thị thì có múa bát dật, hát bội; ở đài phía nam thì đốt cây bông, múa bài bông.

Bộ Hộ bàn định rồi tâu: “Minh Mệnh năm đầu [1820], có lệ định về các thuyền buôn ngoại quốc đi tới các địa hạt: thành Gia Định cũ thì đánh thuế toàn ngạch; còn từ tỉnh Bình Thuận trở ra Bắc, chiếu theo ngạch thuế đánh ở Gia Định, mà giảm dần hoặc 2 phần, hoặc 3, 4 phần không giống nhau: Đó vì Gia Định là nơi buôn bán sầm uất, còn các hạt khác thì chỗ nhiều chỗ ít khác nhau, nên chiết trung, châm chước, định ra phân số có hơn kém nhau. Nhưng, gần đây, từ Bình Thuận trở ra Bắc có đường biển thuận lợi, thuyền buôn qua lại ngày một nhiều, Nam Định và Hà Nội lại không kém gì Gia Định, nếu cứ nhất khái theo như lệ trước, chẳng hoá ra như người đánh dấu vào thuyền để tìm gươm ư? Vậy xin từ nay, hễ các thuyền buôn ngoại quốc đến buôn bán, thì ở 6 tỉnh Nam Kỳ cứ theo như lệ thành Gia Định cũ, tính thước đánh thuế toàn ngạch. Còn về Tả Kỳ (Tả Kỳ: chỉ tỉnh Bình Định, Phú Yên, Bình Thuận và Khánh Hoà.) từ Bình Thuận trở ra, đến Quảng Nam thuộc Nam Trực (Nam Trực: chỉ Quảng Nam, Quảng Ngãi.), về Bắc Trực (Bắc Trực: chỉ Quảng Trị, Quảng Bình.) từ Quảng Trị trở ra đến Ninh Bình thuộc Bắc Kỳ, đều chiểu theo ngạch thuế Nam Kỳ, giảm 1 phần 10. Đến như Nam Định, Hà Nội và các tỉnh ngoài ở Bắc Kỳ, đều đánh thuế toàn ngạch như Nam Kỳ. Duy Thừa Thiên là nơi kinh đô, sự thể không giống với các hạt khác, xin theo như lệ trước, giảm 4 phần 10 so với Nam Kỳ. Còn đối với Ma Lục Giáp (Ma Lục Giáp: tức là Malắcca, một nước nhỏ thời xưa, ở về phía tây nam bán đảo Mã Lai, cư dân là người Mã Lai.), trước đây đánh thuế như ở các xứ Quỳnh Châu, Lôi Châu và Chà Và, nhưng nay Ma Lục Giáp đã là thuộc địa của Anh Cát Lợi, thì xin đánh thuế như các nước ở Tây dương, bắt đầu thi hành từ tháng giêng năm Minh Mệnh thứ 16 [1835]”.

Vua cùng bộ Binh bàn về tình hình nước Xiêm : “Vả, phong tục của họ như: hằng năm, đến ngày lễ “Làm phúc”, họ đem vàng bạc chặt ra từng tấc từng phân, vứt ra cho các quan tranh nhau nhặt lấy thì còn ra lễ nghĩa gì? Lại còn lấy hoa quả tung ra cho mọi người tranh nhau cướp, thậm chí giẫm, đè lên nhau mà chết bẹp. Làm phúc như vậy kể cũng quái gở! Họ lại nói: họ có một thứ ngọc, hễ đeo vào người, không bị trúng đạn. Ta đã lấy ngọc ấy đeo vào cổ một con vịt rồi bắn thử thì vịt chết."

=))




BB
Sunday, March 2, 2014 Author: Trường An

Đọc về chiến tranh quá buồn ngủ nên tổng kết những công trình nhà Nguyễn xây cho Bắc Thành (kẻo quên mất).

- Cung điện - Thành quách: Gia Long cho xây lại thành Thăng Long đã bị sập gần hết thời Lê. Thời Lê Trịnh, chúa Trịnh chỉ tập trung xây phủ chúa, thành TL bị tàn phá qua chiến tranh Lê Mạc thì không được trùng tu - Cuối Lê sơ, Trần Cảo đã phóng hỏa đốt cháy hoàn toàn cung thành rồi, nên những gì còn lại chỉ là do Mạc - Trịnh xây dựng. Khi đến đón sứ ở Thăng Long, Gia Long phải tiếp tục xây thêm điện đài ở sau điện Kính Thiên, vì không còn nơi ở.

Vài năm sau, quan ở Thăng Long tiếp tục đưa đơn xin trùng tu điện Kính Thiên vì "đã mục nát hết". Sự xây dựng bên trong thành có lẽ được đẩy mạnh trong thời Lê Chất - nên đến 1835, Minh Mạng xử tội Lê Chất có thêm tội xây cất trái phép quá nhiều điện đài trong thành, cho hạ bớt.

(Nghĩ cung điện Huế kia cứ vài chục năm là lại phải trùng tu vì xuống cấp, cái điện cả trăm năm thì còn cái quái gì mà đòi dỡ? =__= Hâm mới đi đem gỗ mục về, cái gì lấy được thì Thanh với Tây Sơn tha cho đấy? Nguyễn Huệ khuân hết đồ của phủ chúa Trịnh về chứ cái cung thành có quái gì đâu mà lấy?)

Đến 1832, Minh Mạng cho đắp thành trì trong 10 phủ huyện.

- Kinh tế: Theo những báo cáo trong Thực lục, thương buôn ở Bắc Thành đi 2 lối: Đường biển từ Nam Định đến Hà Nội. Nam Định thay thế cho vai trò cửa ngõ của Phố Hiến ngày trước, trong khi thương nhân người Hoa chuyển dần về 2 địa phương này, tập trung ở Hàng Buồm HN và Nam Định (đến đầu thế kỷ XX còn ghi nhận rất nhiều làng xóm người Hoa ở Nam Định). Triều đình cũng cho lập sở thu thuế ở 2 nơi này.

Đường bộ thì có Lạng Sơn - Nhưng theo báo cáo vào thời Nguyễn, đường bộ từ Sơn Nam lên Lạng Sơn chỉ có 1 đường mòn rất nhỏ, xen lẫn với đường của dân trong núi. Sự vận chuyển giao thương đường bộ giữa Bắc Thành và Trung Quốc có lẽ chưa bao giờ phát đạt trước thời Nguyễn. Tỉnh lỵ Lạng Sơn vốn chỉ có vai trò giao lưu buôn bán với các thị trấn vùng cao và thu thuế khai thác mỏ. Sau này, Minh Mạng mới cho mở rộng đường thẳng từ Hà Nội lên Lạng Sơn. Khi vùng biển Bắc bộ bị cướp biển nhà Thanh và Tây xâm chiếm, đường lưu thông buôn bán còn lại ở Bắc bộ là con đường này - trước khi nó bị Thái Bình Thiên quốc chặn nốt.

- Nông nghiệp: Theo báo cáo, hệ thống đê ở Bắc được xây dựng vào thời Trần, được củng cố thêm vào thời Lê, nhưng vốn chỉ có tác dụng ngăn nước tự phát. Và đến thời Nguyễn, ngay sau 1802, đê điều đồng loạt... vỡ. Dù đã được Gia Long cho tu bổ lại, hệ thống này đến đời Minh Mạng vẫn là mối đe dọa. Do hệ thống đê này làm thay đổi dòng chảy của nước mà hoàn toàn không có quy luật nào, sức nước trở nên hung hiểm hơn, tình trạng ngập lụt xảy ra liên tục. Triều đình phải cho người đi thăm dò, đo đạc từng dòng chảy của nước để lập kế hoạch xây lại toàn bộ hệ thống đê. Cho đến ngày nay, toàn hộ đê điều ở Bắc bộ vẫn là hệ thống đã được triều Nguyễn điều nghiên xây dựng.

Một khuôn mặt xuất sắc trong triều Nguyễn là Nguyễn Công Trứ đã mở đầu cho công cuộc khai khẩn đất đai ở những vùng đất ven biển, từ Nam Định, Hải Dương đến Quảng Ninh.

Năm 1837, Nguyễn Công Trứ một lần nữa đề xuất đào khai một đoạn sông Đuống làm giảm sức nước. Đến thời Tự Đức, sông Đuống được đào mở rộng thêm, làm đường phân lũ cho sông Hồng. (Dự tính sông Đuống làm giảm được 20-30% sức lũ của sông Hồng chảy qua Sơn Tây.)

(Công trình xây đê này được khởi động vào 1830-1832, vốn lớn đến mức phải chia nhỏ ra để làm từng phần. Cùng với hệ thống thành trì, pháo đài được xây lúc ấy, có lẽ quân dân phải "lao dịch" không ít. Nhưng đến cuối 1832, đầu 1833, trời... bão, gây ngập úng phần trong đê. Có lẽ đây là một phần nguyên nhân thúc đẩy hàng loạt cuộc nổi loạn vào 1833.

Vì hiện tượng ngập úng này, có nhiều ý kiến trong triều Nguyễn là nên phá bỏ đê. Vì hệ thống đê được khởi động từ thời Lý Trần vốn mang tính cục bộ của các điền trang nhằm bảo vệ đất đai riêng của mình, lâu dần thành lệ - Nếu phá bỏ đê, có thể để nước tràn vào rồi tự rút như đất miền Nam (nên ở miền Nam chỉ thấy hệ thống sông đào là nhiều). Nhưng sau khi điều nghiên, thấy những vùng đất thấp rút nước rất chậm, ngập rất lâu, hệ thống đê được quyết định giữ lại. (Cũng có lẽ do các vua Nguyễn cũng ớn sự manh động của dân Bắc, các con sông đào miền Nam đều huy động từ vài ngàn đến cả vạn người làm cực quên chết, chỉ đến thời Pháp thì Pháp mới nắm đầu dân Bắc đi đào được thôi.))

- Khai thác mỏ: Ngoài những mỏ vàng bạc, diêm tiêu, đồng... đã được khai thác, năm 1840, Minh Mạng cho chỉ dụ dân ở Đông Triều đào mỏ than. Hiện nay, Minh Mạng được coi là ông tổ của ngành than VN.



Thành quách, đê điều, giao thông, thủy lợi, khai thác, kể cả đền miếu chùa chiền, Minh Mạng xây trong 10 năm còn nhiều hơn cả ngàn năm.

(Mà chiẹp, đọc sử thời Minh Mạng mới thấy các ông quan văn có chút tác dụng, có kiến thức trị thủy, canh nông, đến quan văn cũng bị lôi đi chiến đấu, tham mưu cố vấn chiến trường, vận tải chứ không phải đi cãi nhau chi hồ giả dã, xem Khổng Minh hay Khổng Tử hay khổng tước giỏi hơn hay xem chữ ai đẹp hơn. Cao Bá Quát làm gì đủ khả năng so sánh với Nguyễn Công Trứ?)

---

Nhân chuyện đê điều thì xem lại "Vỡ đê" của Vũ Trọng Phụng. Vầng, đắp đê cho mình mà dân thì trốn, quan thì tham, lại thì ác, trí thức thì chỉ giỏi cái mồm "dân chủ", cuối cùng đê vỡ cuốn cái véo đi hết. Đã hiểu. :))

"-Đời bây giờ, người ta chỉ cần chiều đời để bán báo, bán sách cho chạy chứ người ta kể gì đến liêm sỉ và lương tâm! Vả lại, cũng không nên trách họ, vì trong cái số hoạt đầu, tựu trung cũng có một đôi kẻ thành thực, tin rằng phải hoàn toàn theo mới, phải âu hóa cả trăm phần trăm thì mới là tiến bộ, văn minh. Cái thành thực của bọn ấy vẫn là đáng khen, tuy cái ngu của chúng thì chỉ đáng thương hại.

- Nhẩy đầm, đánh cá ngựa, ăn ngon, mặc đẹp, dùng những hàng mỏng để may những bộ y phục phô ra những đùi với ngực, như thế, chỉ có như thế, mà đã cho là văn minh, tiến bộ rồi?

-Đối với kẻ ngu thì những cái hình thức thế thôi là đủ rồi chứ còn gì nữa!

Minh xo vai, thở dài:

- Chết chết! Nếu vậy thì cũng buồn cho “trí thức” và cho “ngôn luận” thật.

- Tôi thì tôi chẳng buồn gì cả vì tôi cho những điều ấy là không thể tránh được. Anh muốn gì? Muốn dân tộc vô đạo, vô học, bán khai, không lý tưởng nào thờ, lại mấy nghìn năm nô lệ như dân mình, tất nhiên... tất nhiên cái tinh hoa đất nước của dân tộc ấy chỉ có thể đào tạo ra được những bậc trí thức nô lệ. Thật thế, tinh thần nô lệ là một thứ... quốc bảo cổ truyền, và sẽ mãi mãi di truyền. Xưa kia nô lệ Tàu, thì theo Tàu là văn minh. Bây giờ nô lệ Tây thì âu hóa kia mới là văn minh. Tôi tin rằng nếu người da đen ở bãi sa mạc Sahara mà có đến chiếm nước ta thì cái bọn trí thức ấy tất nhiên cũng sẽ hô hào đạp đổ tất cả những cái “cũ” để mà theo “mới”, nghĩa là... Phi hóa thì mới lại là văn minh! Trách gì cái óc nô lệ!"

---

Trong "Vỡ đê" của Vũ Trọng Phụng có một câu của dân quê cực kỳ hay: "Chúng tôi chỉ cầu vỡ đường vỡ xá để nhà nước miễn thuế, chứ có ruộng đất hoa màu nào để mất mà sợ?" - Họ chỉ biết "không phải của-mình thì không cần có trách nhiệm", không hề tính là khi đê vỡ, hoa màu mất thì giá lúa tăng, sẽ đói, mà lụt thì cũng chẳng còn gì để làm kiếm cơm. Khi địa chủ vì lụt mà bỏ làng đi mất thì nông dân chỉ có đói càng thêm đói. Nông dân vừa sống phụ thuộc vào địa chủ vừa ganh tị, tính gần chứ không tính xa. Chỉ cái gì của-mình thì họ mới coi trọng. (Thật ra cái tính cách này có trong mọi thành phần.)




NNN
Friday, February 28, 2014 Author: Trường An

Thông qua những vụ xử án của MM, cùng với "dư đảng" TS còn ghi trong Thực lục, cho thấy án "tru di" thời Nguyễn chỉ tính anh em con cháu họ nội (một số trường hợp còn không liên quan tới cháu) - mà cháu ở đây là trực hệ, không phải cháu họ xa quá 2 tầng. Đàn bà thì tha hết. So với cái án tru di Nguyễn Trãi của thời Lê thì nhẹ hơn nhiều.

Mà đọc mới thấy "sử gia" bố nháo về chuyện "tận diệt" Tây Sơn. Con cháu Bùi Đắc Tuyên - họ ngoại của vua, sống sờ sờ. Nghĩa là cái án này không xử tới họ ngoại. Sau dính tới án che giấu con Nguyễn Nhạc (có thể là cả con trai Trần Quang Diệu), lôi ra nào là "thân thuộc, con gái ngụy" tính tội - Mềnh đã bảo không xử con gái mà. '_'

Ờ mà, hóa ra Trần Quang Diệu có con riêng. :)) Chia buồn với ai thần tượng Diệu-Xuân. Chắc chắn đây là con riêng chứ bằng không chẳng thể nào xử đứa con gái, để lọt lưới đứa con trai - Ờ mà, vậy đứa con gái này bị xử vì lý do gì ta?

(*tưởng tượng*

Ở trong ngục, chồng bảo với vợ: "Chúng ta chết không sao đâu, vì ta có con nối dõi được giấu đi rồi."

Vợ: Á à, lúc tôi còn đang bận đánh nhau phù vua cứu ông, ông lại đi ăn chả bên ngoài, còn có thêm thằng con! *quay sang con gái, nước mắt ròng ròng* Thôi con ơi, thế thì mẹ con ta cùng chết.)

j/k. Có thể đứa con gái này cũng học võ, có một nhiệm vụ, chức vụ nào đó. Gái 15 tuổi thời ấy là lớn rồi.

Chính MM cũng từng nói là "ngay cả dòng dõi Tây Sơn ta cũng không tận diệt" trước khi phát hiện cái nhánh còn sống sót này lén nuôi dòng dõi Nhạc, Diệu. Mà tính khí MM thường ngày có thể rất rộng rãi, miễn là đừng ai qua mặt bác, làm trò qua mặt bác thì... hậu quả kinh khủng lắm. =_=

Mà đùa chứ, trong thời Nguyễn thì địa phương trung thành ngoan ngoãn nhất là... Bình Định. :)) Chỗ nào cũng xảy ra chuyện ít nhất 1 lần, BĐ yên phăng phắc luôn. Hễ có giặc (như lúc Xiêm xâm phạm) thì quan BĐ giơ tay xin đi ngay lập tức, lực lượng quân BĐ vô cùng hăng hái nữa cơ.

---

Túm lại thì MM rất có biểu hiện của 1 SoT điển hình. Dễ nóng đùng đùng nhưng cũng dễ nguôi, những cách đối xử của MM so sánh trước sau nhiều khi... như 2 người khác luôn. Giận thì đem hết anh em của tướng giặc ra chém, lúc nguôi thì túm được đứa khác lại lắc đầu "tội của cha anh nó, liên quan gì đến nó". Nhất là nhiều khi MM chỉ có cái miệng độc địa xỉa xói người ta thôi, chứ án lại giơ cao đánh khẽ (như với LVD).

Lợi hại nhất là từ đầu đến giờ, chưa thấy ai cãi lại, nói lại được bác. =.= Việc gì bác cũng có thể lôi từ kinh sách 18 đời cho đến thiên văn địa lý, kinh tế chính sự thời sự ra biện hộ được hết.

---

Nghe nhắc đến cái truyện gì đó đã được giải thưởng lúc trước, về tính "sát lịch sử". Hị hị, ngay dòng đầu tiên thấy chữ "sông An Cựu" là biết "có nghiên cứu" cỡ nào. Sông An Cựu do GL đào đấy, nhìn bản đồ thấy nó thẳng băng như sợi chỉ hông.

Mấy cái này cũng tương tự như hồ Gươm chỉ có từ thời Trịnh, cho nên sẽ không có rùa (hay ba ba). Mà cái sự tích nguyên gốc "Vua đi chơi, cầm kiếm chỉ con rùa, kiếm văng ra nên rùa cùng kiếm lượn mất" e rằng là vua Lê Trung Hưng. Rồi nó theo đà biến tấu thành Lê Thái Tổ cho nó hợp với "sĩ phu Bắc Hà".




Chép vụn 6
Friday, February 28, 2014 Author: Trường An

1833

Đọc sử phần về Bắc Thành thiệt là chóng mặt. Hạn hán xong rồi giặc cướp, giặc cướp xong rồi lũ lụt, lũ lụt thì cho đắp đê - đắp đê xong rồi bão. Dã man con ngan.

Dò lại sử ký, hóa ra nạn đói cũng xảy ra vô cùng thường xuyên. Những năm ghi "đói to" là 982, 1042, 1156, 1208, 1268, 1290, 1291, 1292, 1301, 1310, 1320, 1333, 1337, 1343, 1344, 1354, 1358, 1379, 1405, 1408, 1409, 1447, 1467, 1487, 1490, 1492, 1512, 1517, 1557, 1559, 1572, 1577, 1585, 1586, 1589, 1594, 1595, 1596, 1608, 1629, 1630, 1634, 1679, 1681, 1694, 1695, 1702, 1703, 1712, 1713, 1724, 1728, 1740, 1741, 1753, 1757, 1758, 1768, 1774, 1776, 1777, 1778, 1786, 1788, 1790. Mà hễ đói là có cảnh "dân nằm chết gối lên nhau", "thây chết đầy đường". Những năm 1594 - chết 1/3, 1596 - chết quá nửa dân số, năm 1723 "số dân 10 phần không còn lại một". Hay lúc Lê Thánh Tông đi đánh Bồn Man (Trấn Ninh sau này), dân 9 vạn chết đói còn 2000.

Thời "thịnh trị" Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tông vẫn chết đói như thường. (Khâm định tổng kết lại đời Lê Thánh Tông: 11 lần hạn hán, 6 lần thủy tai, 4 lần có nạn đói "người chết đói nhiều". - Thật ra trong 37 năm trị vì thì cũng còn ít, còn được 16 năm yên bình.)(Hèn gì "Đời vua Thái Tổ, Thái Tông" có tin hạn hán, mất mùa liên tục mà vẫn là "lúa gạo đầy đồng". Chưa chết đói là được. Năm Thuận Thiên còn được đánh dấu là "được mùa" luôn. Trong cả ngàn năm, chỉ có 21 năm có ghi "được mùa to". '__')

Mà nghĩ lại thì sao không đói được? Chỉ phụ thuộc vào mỗi ruộng đất, lúa chỉ có 2 vụ, dù có khai hoang thì thiên tai một cái là đói ngay thôi. Ruộng đất Bắc bộ có to lớn, tốt gì cho cam. Các ngành nghề khác, dù có cả mỏ vàng mỏ bạc cũng chả tới phần nông dân (vàng cũng đâu có ăn được), có đóng thuế thì cũng chỉ giàu quốc khố. Ngay ở miền Trung, buôn bán phát đạt kiểu gì mà nhổ lúa trồng bông, mất mùa một phát là đói ngay, tiền không mài ra mà ăn được. Đến năm 1337 đời Trần Minh Tông mới biết trữ thóc kho để phòng khi khẩn cấp. Nhưng tất cả đồng loạt bị thì như năm 1833, phát kho ở Bắc gần hết sạch, phải đem thóc từ Nam ra.

(Nên những truyện lịch sử quân sự hay xuyên không đều vô cùng "ảo". Xây dựng quân đội, khoa học kỹ thuật kiểu gì mà thiên tai một cái cũng tiêu đời.)

(Thời Lý ghi ít nạn đói có thể vì... không còn sử, hoặc do số người còn ít. Từ cuối thời Lê sơ trở đi, nạn đói xảy ra thường xuyên, liên tục đến chóng mặt (cũng có thể do lúc đó đã cho chép sử). Có lẽ một phần cũng do dân số tăng, ruộng đất ít. Người miền Bắc thích tập trung trong làng mạc hơn là đi xa, mà hễ đói đi xiêu tán thì thường... họp nhau ăn cướp, làm loạn =__= hoặc đi xin.

Muốn giải quyết vấn nạn này thì chỉ có thể cho đắp đê, khai khẩn đất đai, trữ lương thực, trồng hoa màu ngắn vụ kèm thêm. Khổ nỗi là... dân ếu để yên cho người ta làm. "Nắng mưa là chuyện của trời", mà chuyện của trời nghĩa là... do vua, thiên tai là tại tội của ông vua.)


Vua lại hỏi: “Dân gian trồng trọt hoa màu có những thứ gì?”. Tâu: “Khoai, đậu”. Vua hỏi: “Sao không trồng lúa hồng mạch?”. Tâu: “Sợ thứ lúa ấy không hợp với khí tiết mùa đông”. Vua nói: “Đầu mùa đông chưa rét, thứ lúa hồng mạch còn có thể cấy được. Ta thường sai cấy lúa ấy ở hậu cung. Hễ cấy từ tháng 8, thì đến nay đã chín; cấy từ tháng 9, tháng 10, thì nay đã xanh tốt. Thứ lúa ấy dễ làm, mà có thể giúp cho khỏi đói”.

=> Cơm gạo đỏ "đặc sản" của miền Bắc, cực kỳ phổ biến cho đến rất gần đây, ai có quen người trung niên ở quê thì biết :)) (bên cạnh món cơm độn - "một củ khoai cõng 3 hạt cơm" thời trước 75).



(Tự nhiên lại nghĩ: Trong hoàn cảnh như thế, có khi tầng lớp địa chủ lại là thành phần tích cực. '__' Để nông dân cày cấy riêng, mất mùa là mất hết, chẳng bằng tập trung về cho địa chủ phân phối lương thực. Khi đó nông dân có thể làm việc khác kèm với nông nghiệp để tích trữ tiền, khi mất mùa, địa chủ có nâng giá gạo đem bán thì vẫn có thể mua được.)

---

Trong cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi, nhận ra nghi ngờ của MM về quan binh của GĐ là có cơ sở, vì LVK đánh tới đâu là quan tướng... bỏ thành chạy hết. Toàn bộ binh lực, hỏa khí, vũ khí của GĐ tập trung ở thành Phiên An, đến mức có báo cáo "nó có 3000 thùng thuốc nổ, quân bên ngoài có... 30 thùng".

Thời kỳ đầu cuộc chiến, MM cho khôi phục tế tự cho vua Chiêm Thành, ra sức lấy lòng Bình Thuận.

MM điều hành cuộc chiến này, ờ, phải nói là có óc logic cực cao, soi lỗi - phản biện - luận tội - chỉ trích điểm yếu trong mấy tờ sớ tâu cực giỏi. Thế mới nói người dùng binh đánh trận tốt mới chỉ 1 phần thôi, tham mưu - chỉ huy mới quan trọng.

Nhưng MM vẫn bị điểm yếu to lớn - Dễ tin người, hoặc chủ quan, hoặc quá dựa vào dữ liệu mình-biết. Đã bắt được Mạc Công Du phái người đi cầu viện Xiêm rồi mà không nghĩ sẽ có người khác đi thay. Đã biết mấy năm này Xiêm khiêu khích ở Vạn Tượng rồi mà không nghĩ nó sẽ đánh vào Gia Định. Thậm chí được tin báo tàu thuyền Xiêm lảng vảng ở Hà Tiên rồi mà vẫn nghĩ "nó đi tuần phòng". Đến lúc nó phát quân đi vẫn nghĩ "chưa chắc đã thế".

Có lẽ lý do to nhất là MM - cũng như VN - quá tự tin. Như lúc MM và LVD nói với nhau "Xiêm mà đánh sang đây thì ta đánh sang Bangkok nhà nó luôn", cho rằng Xiêm chỉ quấy rối ngoài biên thôi chứ không-dám đánh. Nhưng thực tế thì quân Xiêm lại nắm rõ địa thế, địa hình Chân Lạp hơn VN, cũng rõ tình thế Gia Định lẫn VN là "nếu để mất thì khỏi đòi", sự kết nối các phần lãnh thổ trong VN rất kém.

Có thể thấy MM nóng nảy dần - Thật ra MM chưa bao giờ tỏ ra kiên nhẫn. '_' Nhưng năm này quá nhiều việc nổ ra cùng lúc bão lụt - vỡ đê - hạn hán miền Trung - Lê Văn Lương - Lê Văn Khôi - Nông Văn Vân. Nạn đói xảy ra cùng lúc với chiến tranh.

---

Thành GĐ được xây quá vững, nên toàn bộ quan binh lẫn ông vua "lắm mưu nhiều chước" như MM cũng thúc thủ vô sách trước nó. '___'

---

Điểm kỳ lạ ở đây là lại thấy xuất hiện mấy cái tên cũ trong vụ án của Nguyễn Văn Thành. Người tố cáo cha con Nguyễn Văn Thành tên Nguyễn Trương Hiệu bây giờ lại là môn khách của Bạch Xuân Nguyên. Bạch Xuân Nguyên không biết có thù oán gì với Lê Văn Duyệt mà đòi "phải đào mộ quật xương Duyệt lên mới chịu". Lê Văn Khôi đi bắt Bạch Xuân Nguyên lại bắt luôn cả Nguyễn Trương Hiệu giết cùng.

Mà con trai của Nguyễn Văn Thành là Nguyễn Hàm lại ở trong quân của Lê Văn Khôi. '_' Nguyễn Văn Thành là người GĐ nên có con ở đó cũng bình thường. Có điều LVD với NVT ghét nhau như chó với mèo.

---

Những thành phần đặc biệt trong quân nổi loạn thành Gia Định:

Bọn Khôi bèn làm hịch ngụy xui giục dụ dỗ nhân dân quanh tỉnh đại lược nói: Con cháu họ Lê đã nổi dậy ở miền Bắc, hẹn chúng làm nội ứng để phục lại cơ nghiệp nhà Lê. Vả lại, Lê Văn Duyệt đã quá cố, là ân súy của chúng, không can cứu gì mà bị tội, cho nên chúng dấy quân để phục thù cho Duyệt v.v... (hịch văn là do Đặng Vĩnh Ưng và Đinh Phiên làm, lời lẽ phần nhiều bội nghịch). Những người theo đạo Gia tô ở trong tỉnh hạt, những người Thanh kiều ngụ, những người man Quang Hóa và những binh lính Thanh thuận, An thuận, Bắc thuận đào ngũ đều theo bọn Khôi.

Giặc liền cướp giữ tỉnh lỵ, dùng Lê Đắc Lực làm ngụy Trấn phủ, Đỗ Văn Dự làm ngụy Hiệp trấn đem cơ Hùng thắng ngụy (bọn kép hát của Lê Văn Duyệt) đóng giữ. (Dự vốn là họ công tính Nguyễn Hựu. Vì cớ theo giặc, cho nên đổi theo họ mẹ. Trước kia, Dự làm Hiệp trấn Hà Tiên, can án xâm phạm của công, bị tống ngục. Khôi tha cho và dùng làm ngụy Hình bộ thiếu khanh).

Lại mật dụ lũ Lê Phúc Bảo, Lê Đại Cương, Tô Trân, Ngô Bá Tuấn, Phạm Xuân Bích và Trần Văn Quán rằng: "Giặc Khôi làm loạn, phần nhiều là lũ Hồi lương, Thanh thuận và An thuận giúp nó làm ác. Vả lại, các tù phạm Bắc Kỳ, năm trước, bị phát vãng đi các địa phương Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên, sau đó được tháo xiềng khóa, tha ra, dồn bổ làm lính, cấp cho trâu cày nông cụ để làm nghiệp. Lũ này phần nhiều là côn đồ quen làm tội ác. Vậy, phải nên đề phòng trước đi. Lũ ngươi nên bắt đến tập hợp lại, giam cầm nghiêm ngặt, xét xem kẻ nào mang lòng phản trắc thì cho chém ngay. Lại, trong các cơ thuộc tỉnh mình hễ có những kẻ Hồi lương, Bắc thuận, An thuận và Thanh thuận trước đây được dồn bổ làm lính cũng nên để ý đề phòng trước, chớ nên nhẹ dạ tin".

Thự Tuần phủ Biên Hòa là Vũ Quýnh, phái viên Phạm Duy Trinh và Lê Đức Tiệm tâu rằng: "Tuân theo sắc chỉ, bọn thần đã điều tra về đầu mối cuộc nổi loạn ở Phiên An, thì: Lê Văn Khôi là đầu sỏ, thứ đến Nguyễn Văn Bột, lũ Thái Công Triều, Lê Đắc Lực, Nguyễn Văn Chắm, Dương Văn Nhã đều là bè đảng, rồi sau đến lũ cam tâm theo giặc chịu chức của giặc, như: Nguyễn Hàm (con Nguyễn Văn Thành (chết) ngụy xưng là Tòng súy phủ kiêm Ngũ khuông vệ), Mạc Hầu Hy (con Mạc Công Du, ngụy xưng là Thủy quân kiêm lĩnh Ngũ dinh, trước can án chở lậu gạo bị giam ở ngục Phiên An), Vũ Công Tước (ngụy xưng thủy quân) cộng hơn 70 người. Còn người giữ tiết nghĩa cao, không chịu khuất bị giặc giết chết, duy có 2 người là Phó quản cơ cơ Phiên võ Bùi Văn Thuận và Đề lao Nguyễn Như Xuân mà thôi.

Người Thanh ở phố Lạc Dục, huyện Long Xuyên, tỉnh Hà Tiên là Lâm Đại Mạnh, Lâm Nhĩ, Trịnh Đại Nô tự xưng là Nhất ca, Nhị ca và Tam ca tụ họp đến vài trăm quân giết viên Tri huyện Nguyễn Văn Năng cùng với vợ con và môn thuộc của viên ấy đến 12 người. Người Thanh ở phố Lạc Tân là Trịnh Thần Thông và Trần Biện nguỵ xưng là Chánh phó thống binh, cùng với bọn trên kết làm bè đảng, rông rỡ cướp bóc.

Lại có người nhà Thanh theo giặc, tên chánh yếu phạm là Trần Thục Ân (tự xưng là Thiên địa hội, nhận nguỵ chức là Cai phủ. Trước đây, Ân tụ họp hơn vài trăm đồ đảng cướp bóc ở phố Hà Tiên, dân cư đều bỏ nghề nghiệp, lánh đi) lẩn trốn ở đất Hà Châu.

Suất đội vệ Cẩm y là Nguyễn Văn Nghị từ Nam Kỳ về. Vua hỏi tình hình quân và dân. Văn Nghị tâu nói: “Quan quân tới đâu, dân tình vui vẻ, cũng có người nhỏ nước mắt khóc, kể rằng vì bị giặc tàn phá, của cải không còn sót lại tí gì!”. Vua nói: “Hạt ấy người đông của lắm, phong tục xa hoa, vụt chốc phải đến như thế, thực đáng than xiết!”.

Văn Nghị lại tâu nói: “Nghe nói trước đây những người Thanh theo giặc, đi đến đâu rông rỡ tàn ngược, hiếp dâm vợ con người, giết cha anh người; trăm họ rất khổ sở!”.

Vua nói rằng: “Nếu đúng như lời ngươi nói, thì người Thanh kia hung ác quá lắm, sao lũ Nguyễn Văn Trọng lại nhận cho chúng đầu hàng ? Khi tâu lên không từng nói đến việc ấy ? Vả, chúng vẫn quen tính dữ tợn, nếu nhất khái rộng tha, thì chính là trút cái mình không yêu cho người mình yêu, còn lấy gì để yên ủi lòng dân ta được?

“Vậy, dụ truyền lũ Nguyễn Văn Trọng: nếu những sự việc đã nghe đó là hư hão cả thì thôi; nếu có, thì chuẩn cho lập tức đem lũ mới đầu hàng ấy chặt 4 ngón tay bên phải, chia phát đi an trí ở nơi biên viễn, còn tài sản của chúng cũng kiểm tra, niêm phong lại, để đợi xử án, chớ nên nhù nhờ nuôi kẻ gian ác để hại cho dân đen”.

“Lại, các quân Hồi lương, Bắc thuận, Thanh thuận, An thuận, và những hào mục Thanh - Nghệ mà Lê Văn Duyệt mang về, đều là đồ đảng liều chết của giặc từ sau khi thua chạy vào thành, có tên nào lẩn vào dân gian hay không, đã từng bắt được hay không?

“Lại lũ đi đạo Gia tô đi theo giặc thì trong đó tất có giáo trưởng người Tây chạy vào thành với giặc hoặc ở lẩn trong dân gian, tức thì tra xét bắt giải đến Kinh trừng trị.

“Lại, trong con hát phường trò của Lê Văn Duyệt, trước đây nhiều kẻ theo giặc, quấy rối cướp bóc dân gian, nay nếu trốn ở chỗ nào, nhất thiết bắt cả để trị tội."

(Trong thành còn có 1 đạo trưởng Gia tô tên Phú Hoài Nhân, được MM bổ vào ty Hành nhân. Có lẽ chính người này chỉ huy lực lượng Gia tô giáo trong thành.)

---

Tổng đốc Hà - Ninh là Nguyễn Kim Bảng tâu nói: "Hà Nội có chiếc thuyền buôn "Đại địch" của người lái buôn nhà Thanh, đi buôn không thấy trở về, vậy xin liệt vào hạng mất tích, cho miền thuế". Vua bảo Nội các rằng: "Trước giờ, nghe nói có nhiều lái buôn nhà Thanh hay đem các thuyền đã lĩnh bài bổ rồi chở trộm gạo về Quảng Đông, đổi làm hình dạng thuyền khác trở lại, chực mong miễn thuế. Đó là mánh lới, gian giảo của con buôn! Sao được lấy cớ là mất tích mà xin miền thuế? Thuyền ấy, cứ người bảo lãnh, bắt phải nộp thuế cảng hằng năm, đợi khi nó trở lại sẽ xét xử. Nguyễn Kim Bảng phải phạt lương 3 tháng và truyền cho các địa phương: Từ nay về sau, hễ có lái buôn nhà Thanh đóng thuyền, xin chịu thuế cảng, chỉ cho đi buôn ở trong nước ta thôi, không được trở về Trung Quốc hoặc đi Tân Gia Ba. Nếu có thuyền nào lén lút đi về, không trở lại, thì trách cứ ngay người bảo lãnh, mà thu thuế, lại sẽ trị tội nghiêm ngặt!".

Ngày Canh thìn, làm lễ Xuân hưởng. Hôm ấy, sấm dậy ở phía nam. Tòa Khâm thiên giám đem việc đó tâu lên và dẫn sách Quản Khuy nói: "Sấm mùa xuân dậy ở phương Nam, năm ấy có hạn hán nhỏ". Lại nói: "Mùa xuân, tháng giêng có sấm, thì dân đói!". Vua phê bảo rằng: "Đất phương Nam không được dày dặn lắm, cho nên dương khí không chứa được nhiều, dễ bốc lên. Mùa đông còn có sấm, nữa là mùa xuân? Vả lại, còn mấy ngày nữa đến tiết "Kinh chập", thì ngày hôm nay đã đến thời hậu rồi, còn lấy gì làm lạ nữa? Xưa có nói: "Trong trăm dặm, chỗ có sấm, chỗ không có sấm", huống hồ khí hậu phương Nam lại khác hẳn. Chỉ đọc sách cổ, mà không xét đoán theo khí hậu thì chẳng phải sách làm lầm các ngươi, mà chính các ngươi tự làm lầm mình! Duy khí mùa đông mà rét nhiều thì mùa hè chẳng khỏi nóng nhiều, hoặc đến tháng 5, tháng 6, có hạn hán chút ít, cũng là lẽ thường thôi. Đọc sách quý ở chỗ biết suy xét cho thấu nghĩa lý. Các ngươi kiến thức nông cạn, sao đủ nói điềm hay, điềm dở?".

Vua nhân bảo Nội các rằng: "Triều ta được nước, vốn không phải lấy của nhà Lê, nhưng nối theo chính thống, cũng nên chọn một chỗ đất để phong cho con cháu nhà Lê, tức là cái ý nhà Chu phong nước Kỷ, nước Tống.

"Lại nữa, từ Thuận Hóa trở vào Nam, xưa là nước Chiêm Thành, nay là của nước nhà. Được nước của người, há nên làm tuyệt sự thờ cúng của người hay sao ? Vậy cũng nên theo lệ, phong cho một chỗ, để việc cúng tế của nước Chiêm được tồn tại".

Lại dụ Tướng quân Nam Kỳ là Phạm Văn Thúy và Tham tán Trương Minh Giảng rằng: "Giặc Khôi gây việc, động mở mồm là nêu danh nghĩa lập lại nhà Lê. Nay tên đầu sỏ là cái mầm nhà Lê gây việc ở Bắc Kỳ đã bị giết cả. Đó rõ ràng là chứng triệu giặc Khôi sẽ bị nộp đầu. Công lớn có thể tính ngày xong được".

Tuần phủ Định Tường là Tô Trân, tiếp tục phái Phan Văn Thu, Chánh quản cơ cơ Định uy thuộc Định Tường, đốc suất binh thuyền đi cứu. Rồi dâng sớ tâu lên, có nói: "Súng ống, hỏa dược của thành Gia Định trước đều còn ở Phiên An chưa từng chia cấp. Lại nữa, Lê Văn Duyệt trước kia làm nhiều hỏa khí để dùng hỏa công dự bị cho việc biên phòng, nay bị lũ giặc chiếm lấy, dùng để phản công, cho nên biền binh không đủ sức địch lại".

"Vậy phong tước cho Nguyễn Văn Thừa làm Diên An bá, lại trao cho chức Vệ úy, hàm Tòng tam phẩm, liền được chiếu theo chức đó chi lương và vẫn làm việc công ở tỉnh Bình Thuận. Từ nay về sau, chuẩn cho con cháu được thế tập để giữ việc thờ cúng của Chiêm Thành. Nếu người nào có tài năng phẩm cách đáng dùng thì Nhà nước cũng lại liệu cất nhắc, chứ không có ý phân biệt vì cho là người ở nơi biên viễn".

Nhân lúc ấy, có án thông với giặc phát ra, nên việc ấy phải thôi.

Thổ Tri châu châu Bảo Lạc, tỉnh Tuyên Quang là Nông Văn Vân làm phản.

"Và tỉnh Phiên An từ sau khi chia đặt tỉnh chia hạt, Tổng đốc Nguyễn Văn Quế mỗi tháng ngồi công đường 2 lần, hoặc 10 ngày 1 lần, việc trong tỉnh đều do Bạch Xuân Nguyên quyền tạm chuyên làm. Việc gì cũng hà khắc, và xét nét từng ly từng tí. Từ Lãnh binh đến Suất đội, hơi có việc gì không như ý, thì mắng nhục ngay. Những ván gỗ do cơ binh ở thành đi lấy về, đều thu giữ cả. (Trước đây phát giác vụ án về ván gỗ của lũ nghịch Khôi, phàm ván gỗ do cơ binh ở thành lấy về, sức sai, thu giữ tất cả). Nhà cửa quân và dân ở trong thành đều bắt rỡ bỏ hết đi, người ta đều oán cả. Đến như nết xấu về những vụ tham ô cũng có nhiều. Và vụ án về ván gỗ, thuyền bè mà ngụy Khôi, ngụy Bột đã can phạm, đã có chỉ sai nghiêm xét, mà Nguyễn Chương Đạt không từng xiềng xích giam cấm, lại thường đêm đến thả cho về nhà. Trại quân trong thành mỗi trại có 5, 6 hoặc 10 người canh giữ, quân chính trễ tràng biếng nhác, cho nên lũ kia mới nhân lúc sơ hở nổi lên biến loạn".

Ngày Giáp thân, vua ngự điện Văn Minh, bảo thị thần rằng: "Bắc Kỳ có nạn lụt, nhân dân bị khổ trong vòng tối tăm đắm đuối, ta là cha mẹ dân, nỡ nào cứ hưởng yên vui cho đành? Vậy, bắt đầu từ ngày nay, những món ăn ngự thiện do viện Thượng thiện dâng tiến thì giảm đi một nửa. Nhất thiết ca nhạc đều bãi bỏ. Các vật châu ngọc quý báu ở trong cung cũng đều giảm bớt đi. Chim muông ở vườn thượng uyển, đều thả ra hết. Lại sắc cho nội cung: Phàm người có danh vị thì chiểu theo phẩm trật mà ăn mặc, không được xa xỉ quá. Các nữ tì không được tiếm dùng đồ gấm vóc, ăn uống nên có tiết độ, không được vượt quá mức".

Giặc bèn đặt Trấn thủ hưu trí cũ là Mạc Công Du làm ngụy Trấn phủ, bè đảng của giặc là Trần Hiệu Trung làm ngụy Tuyên phủ, em của Du là Mạc Công Tài, con của Mạc Hầu Diệu đều làm ngụy Thống lãnh để cho cùng với hơn 10 người Hồi lương, Bắc thuận chiếm giữ (khi nghịch Khôi mới làm phản, con Du là Mạc Hầu Hy theo giặc, Phạm Xuân Bích mật bắt Du và Mạc Công Tài lên tỉnh giam lại).

Lý lại được tin dò thám báo rằng: nghịch Khôi đã sai sứ sang Xiêm La, đi theo đường sông Vĩnh Tế, nhân bắt được người do Mạc Công Du sai phái là Nguyễn Văn Mân (Mân là Cửu phẩm thư lại cũ ở An Giang, là người thuộc hạ thân tín của Du, Du nhân nghịch Khôi trát sức chọn người am hiểu tiếng Xiêm đến Phiên An đợi lệnh bèn sai Mân đi) sai đem tờ mật thư, lấy nghĩa lý trách bảo Du, sai trước hết bắt chém lũ tội phạm Hồi lương, Biên lương và Bắc thuận và theo bắt thuyền và người ngụy sứ.

Dụ sai Mạc Công Tài, Mạc Hầu Diệu hội với Thành thủ úy Phú Quốc là Nguyễn Văn Sương, Suất đội Thanh Châu là Nguyễn Văn Thụy bắt được ngụy Chánh sứ là Nguyễn Thụy, Phó sứ là Nguyễn Văn Quý và 21 người tòng đảng luôn với các thư từ của ngụy, trong lũ ấy có 6 người Hồi lương, lập tức chém giết ngay tại chỗ. Còn người theo đạo Tây dương cùng ngụy Tuyên phủ ở tỉnh là Trần Hiệu Trung đều đưa hết về tỉnh An Giang, xích và giam lại.

Trước kia, đồn Ninh Biên thất thủ, Thành thủ uý Trương Phúc Nguyên từ trong chỗ giặc thoát về, nói quan quân ở đồn nhiều người bị giặc giết hại, chỉ còn sáu, bảy mươi người bị giặc bắt nấu bếp. Đảng giặc gồm có người Thanh, người Thổ, người Nùng, người Man không kém hàng vạn tên.

Vua dụ Binh bộ rằng: “Gần đây, do quân thuỷ quân bộ các đạo đại binh ở Nam Kỳ đánh dẹp giặc luôn bị thua tan vỡ, có nhiều kẻ tản đi trốn tránh, bị nhân dân bắt được giải nộp. Vả, lũ ấy trước đã cam tâm theo giặc cướp bóc dân lành, kịp khi đại binh tới nơi, lại không biết hối tội, đầu hàng ngay, thì chúng là lũ về bè với giặc, quyết khó xử tội nhẹ được. Vậy truyền dụ cho các Tướng quân, Tham tán: phàm lũ giặc trước sau bị nhân dân bắt giải, đều cho giết đi, chớ nên giam trong quân để phải canh giữ thêm cho nhọc."

Vậy, truyền chỉ cho Bùi Tăng Huy và Phạm Đình Trạc ở tỉnh Cao Bằng tức thì sai dân sở tại chỉ chỗ phần mộ cha ông tứ đại nhà Lê Văn Khôi, đào lên lấy thi hài đốt rồi đổ đi, để làm gương răn loạn thần, tặc tử nghìn đời. Vậy em và cháu của Lê Văn Khôi, con của Đặng Vĩnh Ưng, của Đinh Phiên và của Lưu Tín tất cả cộng 14 tên phạm, hiện giam ở các tỉnh đều trảm quyết (Trảm quyết: chém ngay, không cần xét xử). Rồi phái hai viên khoa, đạo: một viên đến tỉnh Quảng Nam, một viên đến tỉnh Nghệ An và Lạng Sơn, đều cho biền binh phái áp giải các phạm nhân đến chợ, chính mắt viên ấy cùng Tổng đốc và Tuần phủ trông coi hành hình. Con cả Đinh Phiên là Đinh Văn Trác bị truy đoạt bằng sắc, đục bỏ họ tên trên bia tiến sĩ. Cha Đặng Vĩnh Ưng là Đặng Văn Tuân phải đưa đến quân thứ Gia Định, sai chiêu dụ Ưng ra hàng. Nếu Ưng không chịu ra hàng thì chém đầu Tuân đi (Cha Khôi là Bế Văn Kiện vì phản loạn đã bị người chém giết, quăng xác đi ; duy mộ ông nội của Khôi, là Bế Văn Sĩ, cứ theo dân chỉ, đào đổ đi).

Vua bảo thị thần là Nguyễn Khoa Minh rằng: “Năm hình đặt ra, là để cho dân biết đường tránh, không dám phạm, giết một người mà nghìn muôn người sợ. Đấy là ý đặt ra hình phạt để mong không ai phạm vào hình phạt nữa. Gần đây, phàm lấy trộm của công, tất bị trị tội nặng, thế mà lũ ấy không sợ hãi gì, vẫn còn lấy trộm, thật rất đáng ghét!

“Ôi! chính sách mãnh liệt quá thì tàn dân, đã đành không phải là đạo trung chính, nhưng rộng rãi quá thì dân không biết sợ! Thực khó thay, đối xử với tiểu nhân!”.

Vua dụ Nội các rằng: “Trước đây quan quân trong đạo binh của Tham tán Nguyễn Xuân, đánh giết người Thanh, ta trước kia cho rằng Tướng quân và Tham tán không biết hiểu dụ họa phúc trước, khiến cho biền binh hiếu sự làm bừa để đến nỗi tàn hại nhiều mạng người, lòng ta không yên. Gần đây hiểu rõ sự trạng thì ra lũ người Thanh ấy đều là hạng dữ tợn, đáng ghét. Khi quan quân vừa đến, chúng liền họp bọn, cả thuỷ lẫn bộ, luôn mấy ngày cố chết chống cự ra mặt, thì quan quân có phải đánh giết một phen thật dữ, chắc cũng là thế bất đắc dĩ. Vậy cuối cùng quan quân ta bắt chém được hết sạch để tuyệt mầm ác, thì cũng không phải là không nên. Vậy thưởng cho Nguyễn Xuân gia quân công kỷ lục 2 thứ, những người cùng đi trận ấy, Quản vệ, Quản cơ đều được [quân công kỷ lục] một thứ, biền binh thưởng tiền 1.000 quan”.

“Ôi! Đạo làm tướng cốt lấy trí, dũng làm đầu, chứ có cần chăm lo đến nhân hậu nhu mì đâu ? Nếu kéo dài cho giặc được chậm chết, thì trăm họ không yên ở, quân lính bị nhọc nhằn, thế là bất nhân mà lại không khôn nữa!"

Bố chính Đoàn Khiêm Quang và án sát Doãn Uẩn ở tỉnh Vĩnh Long tâu nói: “Sau khi lấy lại tỉnh thành, dân trong hạt và người nhà Thanh có nhiều người tình nguyện tự xuất của nhà, để giúp lương ăn cho quân, cộng được tiền hơn 2.280 quan, gạo 490 phương, thóc 100 hộc”.

Vua nhân đó cùng với các thị thần bàn về tính chất các vị thuốc, nói: “Phàm các vị thuốc, dùng đúng thì hay, như nhân sâm, cam thảo, dùng lầm thì cũng hại người; bạch giới, bạch chỉ, khéo dùng thì cũng có công hiệu. Vậy biết trong khoảng trời đất không có vật gì bỏ đi, chỉ cốt ở người ta khéo dùng thế nào đó thôi!”.

Bình khấu Tướng quân Trần Văn Năng và Tham tán Lê Đăng Doanh tâu nói: “Dân ở hạt Gia Định và An Giang tình nguyện bỏ của nhà để giúp vào quân lương tiền năm nghìn quan, gạo một nghìn sáu trăm phương”. Vua sai truyền chỉ khen thưởng; số tiền gạo đã quyên ra ấy giao cho Tuần phủ Gia Định Hà Duy Phiên, chứa vào kho, khi nào trong quân cần dùng, sẽ đem số tiền và gạo ấy để chi cấp. Đến lúc trong nước được yên, sẽ chiểu theo số, trả lại. Lại sai bộ Hộ ghi tên, đợi sau này sẽ chước lượng khen thưởng.

Vua dụ bộ Binh rằng: “Bọn người Thanh ngụ ở Phiên An trước đều là nghèo túng không có chỗ nương tựa, sang nước ta là đất yên vui để làm ăn sinh sống đã lâu, lại không yên lành, đi theo bọn giặc, bọn quân chống lại quan quân, đến nỗi chụm đầu chịu giết, đó đều chúng tự làm ra. Còn như người Thanh ở các tỉnh, từ trước chưa hề dính líu đều được vô can, chắc rằng có thể giữ được không xảy ra việc gì; nhưng e rằng trong đó còn có một vài người còn sợ và ngờ, phải nên săn sóc bảo ban cặn kẽ."

Người đạo Gia Tô ở Nghệ An là Trần Danh Nguyên tụ họp đồ đảng để mưu tính làm việc phi pháp. Cai đội thuộc tỉnh ấy là Phạm Đình Trâm thông đồng với Nguyên, bị người ta tố cáo ra. Tổng đốc Tạ Quang Cự bí mật phái biền binh đi lùng bắt, bắt được Nguyên và Trâm cùng 14 tên đồng bọn, luôn với giấy tờ, ấn tín nguỵ.

Đình thần tâu lên vụ án Lê Văn Duyệt giấu riêng các giấy trắng đóng dấu lưu không. Họ nói: “Xét ra: Duyệt khi bị bệnh, sai điển thủ thư ký là bọn Phan Bá Nhã đem các tờ mật chiếu, mật dụ, chỉ truyền và giáo từ, đốt đi hết cả, việc ấy tỏ ra lại càng càn rỡ. Thế mà con hắn là Lê Văn Yến có lòng che giấu, tội ấy đều không trốn được”.

“Có tên Ngô Đức Nhuận là lính ở đội Gia tín, kho Gia Tín trước, giòng dây trốn ra khỏi thành có đệ trình một tờ giấy do chữ viết của Suất đội Phan Văn Trọng, trong nói: [trong thành] hiện nay ở kho chỉ còn hơn 60 vạn 4 nghìn 4 trăm 80 quan tiền, thứ bạc đĩnh 10 lạng còn hơn 1 nghìn 4 trăm 20 đĩnh, thứ bạc đĩnh 1 lạng còn hơn 2 trăm 60 đĩnh. Thóc còn 9 vạn 4 nghìn hộc, muối 8 nghìn 4 trăm phương, thuốc súng 5 vạn 2 nghìn 2 trăm cân, ống phun lửa 600 chiếc. Đảng nguỵ hiện còn hơn 2 nghìn 6 trăm 30 tên, voi 17 thớt."

“Người Xiêm vào xâm lược, tưởng chúng có ngón gì trội để đánh nước người ta, nên ta cũng lo, nhưng nay quan quân mới đến An Giang, giao phong một trận, giặc liền thua chạy, thì chúng chẳng qua cũng chỉ là quân ô hợp có gì đáng lo đâu?”.

Tả phó đô Ngự sử Phan Bá Đạt tâu rằng: “Cái đạo trị dân phải có pháp luật để trị, mà pháp luật cần phải có người tốt rồi sau mới thi hành được. Nếu dùng không được người tốt thì lập pháp để phòng gian lại trở thành cái túi tham cho kẻ gian giảo hoạt”.

Chủ tàu nước Phú Lãng Sa là Xa Di đến buôn ở tấn Đà Nẵng tỉnh Quảng Nam đem bán vàng giả. Việc phát giác. Vua bảo bộ Hộ: “Hắn là người ngoại quốc, nếu chiếu luật làm tội, thì nước hắn tất nhiên che giấu tội ác của hắn, lại bảo là ta ức hiếp lái buôn phương xa, trở mang tiếng là không tốt. Vậy nên tha cho hắn về, nhưng hạ lệnh cho ty Thương bạc tư cho quan địa phương nước hắn tra hỏi trừng trị. ấy cũng là cái ý trừng trị bằng cách chính mình không trực tiếp trừng trị”.



Hú hú, xong 3 cuối òi. :bee: Đọc thôi mà cũng thấy mệt, làm vua thế này thì... quá khổ luôn, lại còn đi "bao sân" thiên văn thủy lợi, kỹ sư nông nghiệp, chỉ huy chiến trường... ect.

Cảm thấy đời sống văn minh nông nghiệp nó túng quẫn, tăm tối, luẩn quẩn vô cùng tận. /___\




Chép vụn 5
Wednesday, February 26, 2014 Author: Trường An

1830-1832

Những năm sau này đánh dấu sự thay đổi rất lớn của MM, đặc biệt về tôn giáo và thái độ với các quần thần.

Về tôn giáo, cần nhắc đến những biến loạn tại nước Pháp và châu Âu, đặc biệt là cuộc CM Tháng Bảy năm 1830. Lưu ý là bên cạnh MM có khá nhiều người Pháp, và MM cũng đã tỏ ra biết khá rõ về cuộc CMTS Pháp trước đó. Những chính sách bài Thiên Chúa giáo của MM xuất hiện ngay vào 1831-1832 hẳn không phải là trùng hợp tình cờ.

Cuộc CM Tháng Bảy của Pháp nảy sinh từ Lệnh cấm báng bổ Thiên Chúa giáo do nhà vua Charles X đặt ra, trong đó cấm bất cứ hình thức báng bổ thần thánh (Thiên Chúa) nào, từ nghĩa đen đến nghĩa bóng, và đặt mức độ xử phạt khác nhau - Nặng nhất là tử hình. Cùng với món nợ lớn mà nước Pháp phải chịu sau chiến tranh thời Napoleon, người dân lại tiếp tục lật đổ nhà vua. Có hơn 3000 người chết trong cuộc nổi dậy này.

Sự biến này đã kéo theo cuộc nổi dậy vào tháng 8 ở Brussels và miền Nam Hà Lan có dân cư phần lớn thuộc Thiên Chúa giáo đòi độc lập với chính phủ Tin lành, dẫn đến thành lập nước Bỉ. Ở Ý và Ba Lan cũng có những cuộc nổi dậy tương tự. Cả châu Âu bị cuốn vào cuộc xung đột tôn giáo lần nữa sau thời kỳ Kháng cách.

Thời gian này cũng là lúc những thuộc quốc đấu tranh tách rời khỏi các đế quốc lớn ở châu Âu, thành lập những quốc gia nhỏ độc lập (như hiện nay). Cuộc CM Công nghiệp kéo theo hàng loạt cuộc nổi dậy lớn nhỏ của công nhân, đặc biệt là ở Pháp - Dẫn đến kết quả là Cách mạng mùa xuân năm 1848.

Hoạt động cấm đạo bắt đầu được thực hiện:

Phủ Thừa Thiên có dân xã Dương Sơn (thuộc huyện Hương Trà) mê hoặc đạo giáo Gia tô đã lâu, xây nhà thờ, thờ thiên chúa, suy tôn người Tây dương là Phan Văn Kinh làm đạo trưởng, họp nhau giảng đạo cầu kinh. Việc phát giác. Quan phủ [Thừa Thiên] gọi cả đến công đường khuyên bảo lại đến hai, ba lần, rút cục vẫn không có một người nào chịu bỏ đạo. Vua giao xuống bộ Hình bàn xử. Bộ xin kết án tên thủ phạm là lý cựu Phạm Văn Khoa phải tội giảo giam hậu (Giao giam hậu: tội bị thắt cổ nhưng còn được giam lại, đợi vua quyết định.), tòng phạm là lý trưởng Trần Văn Tài bị tội mãn lưu (Mãn lưu: tội bị đày xa hơn 3.000 dặm và phải làm việc khổ dịch trong 10 năm (theo Từ nguyên), Vũ lâm phó đội là Trần Văn Sơn bị cách chức, cùng với 13 người lính, đều bị đóng gông 1 tháng, khi mãn hạn phải đánh 100 trượng, rồi phân phát đi làm lính ở các nơi Quảng Ngãi, Thanh Hoa. Ngoài ra đàn bà đàn ông ở dân ấy bị đánh roi, đánh trượng rồi tha. Đạo trưởng Phan Văn Kinh thì tâu xin xử tội giảo giam hậu, đợi lệnh, nhà thờ đạo thì dỡ đi. Lời nghị tội ấy dâng lên, vua cho được giảm : Trần Văn Tài phát vãng sung quân ở Trấn Ninh, Phan Văn Kinh vì là người ngoại di ở phương xa, chưa thuộc pháp độ, được gia ơn cho làm lính ở phủ Thừa Thiên, nhưng bị quản thúc nghiêm ngặt hơn không cho ra ngoài để truyền giáo. Còn các binh lính là bọn Trần Văn Sơn, những ai đi Quảng Ngãi, gọi là “Phục nghĩa binh”, những ai đi Thanh Hoa, gọi là “Phục hoa binh” để phân biệt với các hạng lính khác.

Biền binh ở các ty, Cảnh tất, Loan nghi thuộc vệ Loan giá có người theo đạo Gia tô. Vua nghe thấy, nói rằng: “Đạo Gia tô, ta cho là chỉ có lũ ngu mới bị mê hoặc, không ngờ ngay ở bên tả hữu ta cũng có kẻ tin theo, thật rất đáng lạ”. Vua bèn sai bộ Hình bắt để trị tội.

Vua đặc cách tha tội cho họ, nhân dụ bộ Hình rằng: “Đạo Gia tô nguyên từ người Tây dương đem vào truyền bá đã lâu, dân ngu phần nhiều bị mê hoặc mà không biết hối. Thử nghĩ: cái thuyết thiên đường, tóm lại chỉ đều là chuyện hoang đường, không có bằng chứng. Hơn nữa không kính thần minh, chẳng thờ tiên tổ, rất trái với chính đạo. Thậm chí lập riêng nhà giảng tụ tập nhiều người, cám dỗ dâm ô phụ nữ, lừa gạt lấy mắt người ốm. Những việc trái luân lý, hại phong hoá, điều ấy kể ra còn nhiều, thực đã phạm đến pháp luật. Đạo ấy lại quy là tà thuật hơn đạo nào hết."



Đồng thời, năm 1830 đánh dấu có 10.000 thùng thuốc phiện được bán ở TQ. Điều này dẫn tới hàng loạt chỉ dụ của MM về thuốc phiện, ngày càng nghiêm khắc hơn. Hoạt động của cướp biển cũng ngày càng ác liệt hơn. Không rõ vì lý do gì, có thể sau sự kiện của Trần Nhật Vĩnh, thái độ của MM với LVD thay đổi. Đặc biệt sau này, nhiều án tham nhũng, làm trái pháp luật của quan lại ở Gia Định phát ra, LVD tuổi già thất bại trong cuộc tiễu trừ cướp biển Chà Và. Trong cuộc tiễu trừ cướp biển, quan tướng GĐ cũng không thành công. Sự buôn lậu gạo, thuốc phiện ở GĐ cũng vượt khỏi tầm kiểm soát. Thái độ của MM với GĐ ngày càng bực bội hơn, bắt đầu châm biếm LVD từ chuyện lặt vặt trở đi.


Trấn thủ Phiên An Nguyễn Hữu Thuyên, Hiệp trấn Phạm Vũ Phác, nguyên thự Tham hiệp Nguyễn Thừa Giảng, vì xử án không đúng bị dân trong hạt kiện, vua ra lệnh đều phải giải chức, đợi xét xử.

Thự Hiệp trấn Bình Thuận là Lê Hữu Đức bị lỗi, phạt xuống đến 5 cấp, giáng bổ làm Hàn lâm viện Tu soạn.

Vua nói rằng: “Những vật nhà nước cần dùng không thể thiếu được. Những sản vật các địa phương sản xuất, không mua ở dân thì lấy đâu cho đủ dùng. Chỉ sợ hữu ty không biết giữ lòng công theo pháp luật mà thôi. Như năm trước mua đậu khấu mỗi 100 cân trả đến trên dưới 150 lạng bạc, thế mà bảo hộ Chân Lạp là Nguyễn Văn Thuỵ cùng phạm viên là Trần Nhật Vĩnh chỉ trả 50, 60 lạng, lại còn nói tự xuất của nhà để cấp thêm. Bọn ấy đã mưu gian cho đầy túi, lại đổ lỗi cho bề trên, thì dân mọn ở biên thuỳ còn trông mong gì nữa. Trẫm đã từng mạt sát mối tệ, đinh ninh răn bảo, không biết Hộ tào ngày nay là Ngô Bá Nhân đã biết soi gương ấy hay chưa!”.

Giặc biển Chà Và nổi Trẫm ở ngoài biển Phù My trấn Bình Thuận cướp bóc thuyền buôn rồi đi. Thành Gia Định cũng dâng sớ báo rằng các hạt Biên Hoà, Vĩnh Thanh, Hà Tiên đều có thuyền giặc đi lại cướp bóc của cải và thuyền của nhân dân.

Chưởng Tả quân, lĩnh Tổng trấn thành Gia Định Lê Văn Duyệt chết. Truy tặng Tá vận công thần, Đặc tiến Tráng võ tướng quân, Tả quân Đô thống phủ, Chưởng phủ sự, Thái bảo, Quận công, thuỵ Uy Nghị. Ban cho 10 cây gấm màu, 10 tấm nhiễu màu, 3.000 quan tiền, trước hãy ban một tuần tế, đến ngày an táng lại cho một tuần tế nữa. Rồi đó, sắc cho hai vệ Tả bảo nhất và Tả bảo nhị thuộc Tả quân đồn thú ở thành Gia Định rút về hàng ngũ ở Kinh, vệ Minh nghĩa rút về tỉnh Quảng Ngãi, chia bổ vào 6 cơ Tĩnh man, còn lính trước ở cơ An thuận thì cứ cho lưu lại liệu bổ vào các đội Tả sai, Tả thuận, đợi sau khi an táng Lê Văn Duyệt xong thì về Kinh. Bọn thuộc binh, viên tử, hào mục của Duyệt thì sung bổ vào chân khuyết trong cơ đội ở thành, ai muốn về quê quán thì giao sở tại ghi vào sổ để chịu sai dịch.

Lê Văn Duyệt nguyên Tổng trấn Gia Định, có giấu riêng 1 thớt voi. Bộ Binh xét rõ, đem việc tâu lên. Vua dụ Nội các rằng: “Voi trận không như trâu ngựa, tư gia sao được nuôi riêng. Lê Văn Duyệt ương bướng, tự phụ, cậy công kiêu rông, thiên lệch, nghe theo lời nói của tiểu nhân, liều lĩnh dám làm, thực có can phạm pháp luật. Các tào ở Gia Định thành đều có biết cả sự việc, nếu vì sợ quyền thế đè nén, không thể can ngăn được, thì cũng nên làm tập tấu kín dâng lên, chứ sao lại cam lòng hùa theo, một loạt bưng mồm nín lặng? Đáng lý phải nên trị tội, song vì Duyệt đã chết rồi, nên cho miễn nghị tội. Các tào cũng được gia ơn rộng tha, nhưng phải truyền chỉ nghiêm quở."



Bắt đầu thực hiện hình lệnh khắc nghiệt:

Vua bảo hộ Hình rằng: “Trước đây binh dịch ở kho cho đến quan lại trông coi thông đồng làm bậy phát ra thì nhẹ tay, đong vào thì nặng tay, lợi mình, thiệt người, cái gì cũng làm! ta vẫn biết rõ hết nên khi việc phát ra tất trị tội nặng để răn kẻ điêu ngoa. Lại nghĩ đổi lại cách thức cái hộc, cái phương đặt làm quy chế lâu dài. Chẳng ngờ một tấm khổ tâm của ta lo nghĩ vì quan quân, dân chúng đặt ra khuôn phép tốt lành để tỏ sự tin thực công bằng ấy lại bị bọn kia dám dở nhiều ngón, xảo trá xoay cách vơ vét, thật đáng căm giận xiết bao! Tên chính phạm Đinh Văn Tăng, tội chết có thừa, chuẩn cho lập tức chém đầu đem bêu và chặt một bàn tay, ướp muối phơi khô, rồi treo lên mãi mãi, để quan lại binh lính chức dịch trông thấy sờn lòng, không dám phạm nữa, cho hợp với ý lập pháp của đế vương xưa: dùng hình phạt để mong đi đến chỗ không cần hình phạt nữa. Bọn lại coi kho là Nguyễn Danh Chấn hằng ngày cùng nhau làm việc, hẳn có dự vào tham tang, bọn ấy đều là lũ dạy khỉ leo cây, đều bị tội giảo nhưng còn được giam để đợi lệnh. Suất đội Nguyễn Viết Tân có trách nhiệm kiểm soát, há lại không biết rõ tình trạng, vậy phạt 100 trượng, đồ 3 năm; 40 người lính coi kho cùng một tội ác, dựa nhau làm gian, há có thể nghe cho chối cãi. Vậy đều đem đóng gông để ở cửa kho 1 tháng, khi hết hạn đánh 100 trượng, đuổi về hàng ngũ cũ, phái lính khác đến thay. Đoàn Văn Chử bí mật do thám được sự thực thì thưởng 20 lạng bạc, ghi tên để bổ chánh đội trưởng. Bố chính Lê Nguyên Hy vì không xem xét phải giáng chức. Lại có hai kho Xích Đằng ở Sơn Nam và Hải Dương bọn lại viên và người coi kho đem cái quan hộc kiểu mới tháo ván đáy ra, đẽo trũng rồi lắp vào; lại nặng tay ấn gạo xuống, gạt ngược để lạm thu. Vua bèn đặc cách sai chủ sự bộ Hộ là Trần Ngọc Hà đến hội với quan tỉnh Hưng Yên xét xử vụ án này. Khi án xong, bọn Nguyễn Đình Hiển và Lê Văn Thanh đứng đầu đều bị chém bêu đầu và đục lấy mỗi bên một mảnh xương sọ, phơi gió cho khô, treo ở cửa kho mãi mãi, để răn người khác, còn thì xử chém, thắt cổ, sung quân và phát lưu có thứ bậc khác nhau. Thưởng cho Nguyễn Văn Nghị 20 lạng bạc. Còn quan trấn ở hai nơi ấy đều bị giáng chức. Tự đó kho ở Hưng Yên, dân đều nộp tô thuế, tuyệt không có kẻ làm khó dễ để sách nhiễu nữa.

Được tin ấy vua bảo quần thần rằng: “Ta muốn trị kẻ có tội để ngăn ngừa khỏi mắc tội, bất đắc dĩ mới dùng hình phạt tàn khốc ấy. Nay tệ ấy do đấy quả đã trừ được. Ôi! lấy một mảnh xương sọ mà cứu được ức muôn người khỏi khổ luỵ, thì dù có mang tiếng là hình phạt tàn khốc cũng không hề gì!”.

Trần Quang Tĩnh, nguyên Bắc thành Binh tào Tham tri kiêm lĩnh Đê chính, trước kia vì đê Sơn Tây vỡ, bị tội đồ và phải đền tiền hơn 1.600 quan, giao thành Gia Định giam và truy thu, mới được hơn 400 quan. Đến nay tuổi gần 70, Tĩnh không có sức bồi thường được nữa, quan thành Gia Định vì Tĩnh mà trần tình tâu lên. Vua tha cho.

Lại truyền dụ cho các nha môn trong Kinh và ngoài các tỉnh đều biết: từ nay về sau ai nấy nên một mực giữ lòng công bình trung chính, bỏ hết tình diện nể nang. Này, bè bạn dẫu là một trong ngũ luân, nhưng ý nói của thánh nhân, là chỉ về lúc người ta chưa ra làm quan! Khi chưa làm quan thì không có những sự phát giác tham hặc về việc công, chỗ bạn hữu còn có thể lấy tình nghĩa mà chơi với nhau, thương yêu nhau và giúp đỡ nhau. Một khi đã dâng lễ tương kiến để làm tôi, thì vì nước quên nhà, vì công quên tư, dẫu đến vợ con thân mình và nhà mình, khi gặp việc nghĩa phải làm, người xưa phần nhiều không nghĩ đến tình riêng, phương chi là bè bạn. Vả lại, cái hoạ bè đảng, các đời Hán, Đường, Tống và Minh, gương sờ sờ còn đó. Xét ra, lúc đầu chẳng qua giao du trò chuyện, hoặc chuốc tiếng mua ơn, cho người ta thân thiết với mình để một ngày kia giúp đỡ nhau; về sau thói quen ngày càng ăn sâu: bênh vực bè đảng, đả kích người ngoài, mọi việc che đậy, nịnh bạn, dối vua, rồi mắc tội không thể tha thứ! Đó há không phải là do ban đầu, chưa trừ bỏ cái tệ nể nang, để đến nỗi mắc phải tai hoạ không thể lường được ấy? Thử nghĩ: phải tội với trời còn không thể kêu cầu đâu được, huống hồ là bè bạn ư? Chẳng qua lòng riêu kéo bè, làm việc mờ tối, lại càng dắt nhau xuống giếng nào có ích gì?

Người Bình Định là Lê Văn Lễ làm thư nặc danh tố giác bọn Nguyễn Văn Thể che giấu nòi giống Tây Sơn là Nguyễn Văn Lương (con Nguyễn Văn Nhạc) và Nguyễn Văn Trượng (con Nguyễn Văn Đức, Đức là anh tên Lương). Quan trấn thần bắt được bọn Thể, nghiêm giam rồi mật tấu lên. Vua sai ngay Tả tham tri Hình bộ là Trương Minh Giảng lĩnh cờ bài khâm sai, đem theo thuộc viên ở bộ và trấn phủ vệ Cẩm y đến nơi để tra xét. Những tên phạm bị bắt đều nói rằng hai tên Lương và Trượng nghe tin lùng bắt đã trốn đi, nếu không ở Thạch Thành trấn Phú Yên, thì ở trong hạt Gia Định. Giảng tâu rõ duyên do. Vua bèn sai truyền chỉ cho các quan địa phương từ trấn Phú Yên trở vào Nam đến Gia Định, cho đi mọi nơi dò bắt, lại treo giải thưởng cho quân dân ai bắt được hai tên phạm ấy giải nộp quan thì thưởng cho 100 lạng bạc, thám báo được sự thực thì thưởng cho 50 lạng bạc, nếu dung ẩn và dẫn đường cho phạm đi trốn thì xử cùng tội.

... Lại sai đình thần xét lại án của dòng dõi nguỵ là Nguyễn Văn Lương, Nguyễn Văn Đức, Nguyễn Văn Đâu, đều chém ngang lưng, ném thây xuống bể, thân thuộc và con gái của nguỵ cùng con của đồng đảng nguỵ là Trần Quang Tồn (con nguỵ Thiếu phó Trần Quang Diệu), kẻ phạm tội chứa chấp nguỵ là Nguyễn Văn Thể cộng 15 tên đều trảm quyết. Những thân thuộc của nguỵ còn nhỏ tuổi và Lê Thiện Anh khinh thường thả dòng dõi nguỵ, Trần Văn Tha tri tình mà cố ý tha, cộng 14 tên phạm đều phải án chém nhưng được giam đợi lệnh. Lại phát vãng làm quân, làm nô lệ, và bị tội đồ, tội lưu tất cả hơn 40 tên phạm. Còn bao nhiêu đều tha.

“Vua tôi nghĩa như xương thịt, lúc nhàn rỗi vui cười có ý kiến gì cứ nên bày tỏ thẳng, Trẫm há lại lấy văn tự mà tranh hay với thần hạ sao? Đời trước Tuỳ Dạng Đế nhân câu “Không lương lạc yến nê” (Không lương lạc yến nê: bùn chim én rơi ở nhà vắng vẻ.) của Tiết Đạo Hành mà sinh lòng ghét, Trẫm rất khinh bỉ. Phàm vua mà mở lòng dung nạp, thì tài trí của thiên hạ đều là tài trí của mình. Vì bằng thánh như Nghiêu Thuấn, nếu không biết nghe người nói, nộp lời can ngăn, bỏ ý riêng theo người, thì dẫu có các quan như tứ nhạc(Tứ nhạc: chỉ chư hầu bốn phương.) cửu mục ( ửu mục: chỉ mục bá ở chín châu.) thì có ai ra sức trung thành với mình”.

Đắp thành đất 10 phủ ở Bắc Kỳ.

"Nhân nghĩ nhà nước đặt phép cốt lợi cho dân, mà thưởng phạt cũng là phép thường. Bọn phái viên nếu một niềm công trung, giữ theo pháp luật, không đua nhau lấy lợi nhỏ, mà sách nhiễu ngoại lệ, khiến người ta vui vẻ đi lại mà thuế nhà nước được thêm thì cũng nên khen thưởng để khuyến khích. Nếu có thể khoe khoang thanh thế, ráo riết lạm thu, lái buôn lớn thì sợ đi lại, dân buôn nhỏ thì phải nộp đến kiệt quệ đến nỗi thuế khoá vì thế mà tăng giảm, những vết xấu ấy cần phải nghiêm trị để nêu điều trung chính mà răn kẻ tham ô."

Thị lang Nội các là Phan Thanh Giản và Trương Đăng Quế dâng bài tụng đại khánh, thuật các công việc tự lúc vua lên ngôi đến nay, siêng lo chính trị làm gốc để được phúc hưởng thọ. Vua phê: “Bọn ngươi không lo cố gắng làm hết chức phận, cứ ngày thêm lầm lỗi, nay lại làm bài văn vô dụng này đối với lầm lỗi có bổ ích gì? Trẫm có thích nịnh ngoài mặt đâu? Vậy ném trả lại và truyền chỉ quở mắng”.

Bộ Hình dâng án ăn trộm. Người phạm ấy giữa ngày khánh tiết ăn trộm ở trước thể lâu. Vua ghét quá, sai cắm tên nỏ vào hai tai dắt đi dong phố cho mọi người biết. Lại đánh 100 côn hồng, xử tội trảm giam hậu.

Tiết Hạ chí, Khâm thiên giám suy nghiệm độ cao của mặt trời ở kinh sư để tiến lên. Vua dem bản vẽ chỉ bảo cho, mới biết là sai. Dụ rằng: “Bọn ngươi chức vụ là việc xem xét khí tượng mà không có kiến thức đích xác như thế, đáng lẽ giao nghị tội, nhưng còn nghĩ trước đây suy toán phép lịch biết được giây phút nguyệt thực lại tròn và trích ra được chỗ lầm của người Thanh cũng là đáng khen, nay hãy miễn cho. Sau này phải cho tinh tường hơn, không có một chút sai lầm mới được”.

Thự Tham tri Hình bộ là Nguyễn Công Trứ tâu rằng: "Từ Vĩnh Thanh trở về Nam đến Hà Tiên, đất rất màu mỡ, mà những ruộng cấy lúa được chưa khai khẩn hết. Xin đem các tù phạm an tháp ở đấy". Vua nói rằng: "Ngươi mới biết được một, chưa biết được hai. Hà Tiên là chỗ biên thuỳ, tiếp giáp nước Xiêm, nếu thả cả bọn tù phạm ra đấy, quan sở tại quản thúc có chỗ không chu đáo, một khi chúng trốn đi, ở nước ta thì chúng là người có tội, đến nước khác thì chúng lại là người có công, tệ hại sẽ không nói xiết". Rồi các địa phương liền theo nghị dồn bổ làm binh, dâng sớ tâu lên. (Quảng Ngãi thì đội Quy Ngãi; Bình Định thì 2 đội Bình Thiện; Phú Yên thì 5 cơ đội Yên Man; Bình Hoà thì 2 đội Hoà Thiện; Bình Thuận thì 2 đội thuộc binh; Phiên An thì đội An Lương; Vĩnh Thanh thì đội Vĩnh Lương; Định Tường thì đội Tường Mỹ, Hà Tiên thì đội Biên Lương; Nghệ An thì phủ Trấn Ninh 3 đội Ninh Thiện, phủ Tương Dương 3 đội An Thiện, Thanh Hoa thì 2 đội Thiên Thiện, Nam Định thì đội Hướng Thiện).

Vua dụ bộ Hộ rằng: "Nhà nước đúc tiền cho dân đủ tiêu dùng. Lại sợ dân ngu thấy lợi mà dễ phạm phép, cho nên có luật cấm đúc tiền trộm, phép nước rất nghiêm, là để dứt hẳn cái tệ điêu bạc. Nay lại nghe nói người nước Thanh đúc tiền ở nước ấy đem đến trộn lẫn để dùng khiến hàng hoá đắt mà tiền rẻ, có lẽ cũng do cớ ấy. Vậy hạ lệnh cho quan Bắc Thành nghiêm sức cho hạt duyên biên, phàm chỗ giáp giới nước Thanh, đường thuỷ, đường bộ, cửa ải, bến đò phải tìm cách dò thám, nếu có kẻ chở tiền kẽm từ nước Thanh đến thì bắt trị tội".

Bắc Thành lấy học trò trong hạt thành là bọn Hoàng Bỉnh Dy và Ngô Thập sung vào ngạch cống cử, bộ Lễ tâu rằng Bỉnh Dy là dòng dõi Hoàng Ngũ Phúc, Thập là em Ngô Hiệu, Ngũ Phúc có tội với bản triều, Hiệu thì có tên ở sổ nguỵ, Dy Thập không nên cho đứng hàng ngang với kẻ sĩ áo xanh. Vua bảo rằng: “Nhà nước đã có thể thống hà tất bo bo giữ hình tích làm gì. Vả bội nghịch vô đạo như Tây Sơn còn không nỡ giết hết cả họ, nữa là Hoàng Ngũ Phúc và Ngô Hiệu, tội chỉ ở bản thân nó, chứ con cháu thân thuộc có can gì. Không nên quá câu nệ. Hoàng Bỉnh Dy và Ngô Thập có thể đều cho Giám thần xét hạch, nếu dự trúng cách thì cũng cho học ở Quốc tử giám.

Vua dụ: “Trẫm rất thích thơ cổ hoạ cổ, cùng sách lạ của cổ nhân, mà chưa tìm được nhiều. Bọn ngươi nên để lòng tìm mua đem về dâng. Vả lại Trẫm nghe nói những nhà quan ở Yên Kinh nhiều người chép sách riêng, nhưng vì việc quan thiệp đến nhà Thanh, cho nên chỉ chứa riêng ở nhà, chưa dám đem ra khắc in. Bọn ngươi nếu thấy những sách loại ấy dẫu còn là bản thảo cũng không kể giá đắt cứ mua”.

Vua lại bảo bộ Binh rằng: “Địa thế nước ta ở ven biển, vốn lấy thuỷ quân làm món sở trường. Nhà Lê xưa không phòng thuỷ chiến, đến nỗi bại vong. Tây Sơn sau khi được nước cũng coi khinh thường không chịu thao luyện cho tinh. Thuỷ quân của Hoàng khảo ta tiến một trận giặc liền tan vỡ, dư uy lừng lẫy, cũng vì cớ đó. Nay tuy gặp buổi thanh bình, thuỷ quân càng không thể coi thường được. Nên bắt thao diễn luôn để ngày thêm tinh thục rồi cho tuần xét ngoài mặt biển để dẹp yên giặc biển, thế cũng là làm một việc mà được hai.

Tham hiệp Quảng Nam Nguyễn Đức Hội bị tội, phải cách chức. Hội cư xử trong gia đình không có khuôn phép. Người vợ bị đuổi, vào kêu ở Kinh. Đình thần bàn rằng Hội là người giữ việc nuôi dạy dân mà không cảm hoá được một người đàn bà, làm nhục cả đám quan thân (Quan thân: quan là mũ; thân là dải áo. Quan thân chỉ vào bọn làm quan.). Xin giải chức giao trấn xét hỏi. Hội cuối cùng bị cách chức, phái theo bộ Lễ sai phái gắng sức làm việc chuộc tội.

Các hoàng tử hoàng nữ thấy mùa hạ nóng nực nhiều người bị ốm, xin tự xuất thuốc men, sai thầy thuốc đặt nhà phát thuốc không lấy tiền ở những chỗ đông đúc trong kinh thành để phát thuốc cho người ốm. Vua cho làm.

Vua dụ bộ Công rằng: “Bắc Thành thống hạt 11 trấn, từ trước đến nay chỉ có một đường cái quan từ Sơn Nam trở lên bắc đến Nam Quan. Những chỗ khác trấn tiếp giáp nhau, còn nhân đường nhỏ của dân gian mà đi lại cũng vẫn chưa có đường lớn giao thông. Giả sử khi có việc cần cấp, sao khỏi trở ngại chậm trễ được? Vậy tư cho quan thành căn cứ vào các trấn lỵ, chỗ nào có thể mở đường cái to, khiến cho khi có việc công, tiện thông báo lẫn cho nhau và liên lạc tiếp ứng với nhau để chặn bắt giặc cướp. Lại ngay từ các trấn lỵ hoặc nhân đường mới này, hoặc mở đường khác, xem có thể chạy ngựa trạm đến thẳng kinh đô, thì lập tức sai sở tại xem xét tình thế, liệu chỗ đặt nhà trạm, rồi vẽ thành bản đồ, báo về bộ để tâu lên”.

Viên phân châu Khâm châu nhà Thanh, đưa thư cho tỉnh Quảng Yên nói giặc biển quấy nhiễu, có bọn thuyền buôn nhà Thanh là Trần Kim Phát, tình nguyện tự xuất công, xuất của ra biển nã bắt, đã được cấp giấy chấp chiếu cho phép không phân biệt bờ cõi, cứ việc đuổi bắt, mong rằng bên ta xét rõ không nên ngăn trở nhau. Thự Tuần phủ Lê Đạo Quảng cho là việc có quan hệ biên phòng, bèn tâu rõ lên, xin chỉ định đoạt. Vua dụ rằng: “Hải phận nước ta, dẫu giáp liền với nhà Thanh, nhưng bờ cõi đã có ranh giới rõ ràng sao lại nói là không phân biệt được? Ví phỏng bắt giặc, thì đôi bên đều phái binh thuyền, hải phận mình mà chặn bắt, thì giặc còn trốn đi đâu ? Há nên tính sẵn đến bước phải vượt bờ cõi của nhau ư?”. Vậy lập tức sức cho thổ Tri châu ở Vạn Ninh phải chiếu theo bản thư phúc đáp của bộ gửi đến mà viết tinh tả để trả lời. Từ nay về sau có việc gì trọng đại, quan hệ đến quốc thể mới được tâu lên. Còn việc tầm thường như việc này thì cứ tự đi trả lời quyết không có lý nào chiều theo lời xin của họ. Cứ việc một mặt tâu trình đầy đủ, một mặt thi hành cũng chẳng hại gì chứ  không nên loanh quanh kêu xin đợi lệnh, chỉ thêm chậm trễ ra thôi!”.

Đổi trấn Thuận Thành làm phủ Ninh Thuận. "Nay đương lúc nước nhà đã thống nhất, thanh danh văn hoá đã mở mang, tức như phủ Tương Dương ở Nghệ An; phủ Cam Lộ ở Quảng Trị đều đã đặt ra phủ, huyện, chia bổ quan chức. Đến như các phủ đất mới mở cũng đã bỏ thổ quan đặt lưu quan, mọi việc đều được sắp xếp đâu ra đó. Thế mà một hạt Thuận Thành phong tục vẫn nguyên như cũ hình như chỉ tạm ràng buộc, e chưa hợp với nghĩa đồng đều chung một phong tục. Vậy xin đặc cách sai quan Kinh một phen kinh lý để cho sự thể được giống như người Kinh”.



Thuyền buôn của Đô-ô-chi Ly người nước Pháp bị bão chìm ở phận biển Đà Nẵng. Nhà vua sai tỉnh Quảng Trị cấp cho 100 quan tiền 50 phương gạo, tìm chỗ cho ở. Nhân tiện cho đi về nước.

Phái viên thuyền Phấn bằng là bọn Vệ uý Trần Văn Lễ và Thị độc Nguyễn Tri Phương tự Tiểu Tây dương về, đem ngựa thiên mã (cao hơn 3 thước 7 tấc) Tây Vực dâng lên. Có người ở trận Bình Hoà tên là Du Gi lưu ngụ ở nước ấy gần 50 năm, đến bây giờ theo thuyền quan về, cho tên là Nam Phúc, trao chức Chánh đội trưởng, sung ty Hành nhân.

Binh thuyền của nước Phú Lãng Sa đến đậu ở cửa biển Đà Nẵng, nói là vâng mệnh vua nước họ, muốn được một viên quan ở nha Thương bạc đến nói chuyện. Vua sai sung biện Nội các Thị giảng học sĩ Nguyễn Tri Phương đến để dò hỏi, thuyền trưởng nhất định không nói. Lại sai Thị lang Trương Đăng Quế quyền chức quan Thương bạc đến. Thuyền trưởng ấy nói rằng vua nước ấy muốn cùng nước ta giao hiếu, nhưng xa cách biển khơi không đạo đạt được, nay nghe tin nước Hồng Mao mưu đồ xâm lất đất Quảng Đông (Trung Quốc), thế tất rồi cũng lan đến nước ta, nên vua nước ấy sai đến báo tin dặn ta đừng giúp Quảng Đông.

Trương Đăng Quế về tâu, vua cười nói rằng: “Nước ấy muốn mượn việc đó làm ơn với ta để mong đạt kế muốn giao hiếu đó thôi. Nước Hồng Mao mưu lấn nước Thanh, có can thiệp gì đến ta”. Lại sai Nguyễn Tri Phương đến bảo cho họ biết. Khi Tri Phương đã về thuyền ấy vẫn còn dùng dằng chưa đi, tự tiện lên núi Tam Thai (Tam Thai: núi Non nước.) để xem xét, lại nói muốn được một người hoa tiêu cùng đi ra các hạt Bắc Thành để vẽ đồ bản. Viên tấn thủ báo về, bộ Binh tâu lên. Vua nói: “Vào nước người ta tất phải hỏi các điều cấm. Vượt qua hải phận còn có điều lệ nghiêm cấm huống chi muốn vào nước người mà vẽ địa đồ mang về sao họ vô lý đến thế ! Tấn thủ không biết lấy lời lẽ nghiêm nghị mà cự tuyệt, động một tý là tâu báo, sao lại không có định kiến như thế!”. Sai Tri Phương lại đến hiểu thị thuyền ấy mới đi. Bọn Thành thủ uý án thủ hai đài thành An Hải, Điện Hải là Lê Văn Tường, Thủ ngự Đà Nẵng là Nguyễn Văn Ngữ, Hiệp thủ là Trương Vân Loan, vì không ngăn cản được việc họ lên núi, đều bị cách chức.

Đúc súng bắn liền 4 phát mẫu tử liên châu. Vua khen tinh xảo, thưởng cho các thợ áo quần và bạc lạng theo thứ bậc.

Quốc trưởng nước Nhã Di Lý (Nước này ở Tây dương, hoặc gọi Hoa Kỳ, hoặc gọi là Ma Ly Căn, hoặc gọi là Anh Cát Lợi mới đều là biệt hiệu nước ấy) sai bọn bề tôi là Nghĩa Đức Môn La Bách Đại, Uý Đức Giai Tâm Gia (tên hai người) đem quốc thư xin thông thương thuyền ở cửa vụng Lấm thuộc Phú Yên. Vua sai Viên ngoại lang Nguyễn Tri Phương, Tư vụ Lý Văn Phức đi hội với quan tỉnh, lên trên thuyền thết tiệc và hỏi ý họ đến đây làm gì. Họ nói: “Chỉ đến vì muốn giao hiếu và thông thương” nói năng rất cung kính. Đến lúc dịch thư ra có nhiều chỗ không hợp thể thức. Vua bảo không cần đệ trình thư ấy. Rồi cho quan quyền lĩnh chức Thương bạc làm tờ trả lời. Đại lược nói: “Nước ấy muốn xin thông thương, cố nhiên là ta không ngăn trở, nhưng phải tuân theo pháp luật đã định. Từ nay, nếu có đến buôn bán thì cho đỗ ở vụng Trà Sơn, tấn sở Đà Nẵng, không được lên bờ làm nhà, vượt quá kỷ luật, rồi giao thư cho họ mà bảo họ đi”.





Copyright © Trường An. All rights reserved.