Solitude

Cảnh như thị, nhân như thị

Văn tế
Trường An June 11th, 2009

Vô đề kỳ 1
Tam tải thân khinh bách chiến trung,
Thành cô lương tuyệt khốn anh hùng.
Đột vi bất nhẫn nhân vi tịch,
Báo quốc duy tri ngã phỉ cung.
Bát giác hoả đồng tâm cộng xích,
Thiên thu danh dữ nhật trang hồng.
Tha niên nghĩ phỏng vân đài hoạ,
Tướng tướng ưng suy đệ nhất công.

Trăm trận ba năm ở giữa vòng,
Thành cô, lương hết, khốn anh hùng.
Phá vây chẳng nỡ đem người thí,
Báo quốc riêng bền giữ dạ trung.
Bát giác lòng son cùng lửa đỏ,
Thiên thu danh rạng sánh trời hồng.
Đài mây những nghĩ sau nầy hoạ,
Văn võ nên tôn đệ nhất công.


Vô đề kỳ 2
Bình sinh sở học dĩ thu công
Bồi tửu tùng dung tiết khái hùng.
Nhứt tử Qui Nhơn thù đế quyển,
Thiên thu Nam Việt chấn văn phong.
Yên phân tích dịch hàn Tây tặc.
Nghĩa khí chiêu hồi tịnh Võ công.
Tùng thử tri khanh đa hữu hậu,
Miên miên tế tự quốc gia đồng.

Bình sinh sở học đã nên công,
Chén rượu ung dung, tiết tháo hùng.
Một chết Qui Nhơn đền nghĩa Chúa,
Nghìn Thu Nam Việt chấn văn phong.
Hơi tà lui sợ, run Tây tặc,
Khí nghĩa đời soi, sánh Võ Công.
Mới biết từ đây ông có hậu,
Phụng thờ mãi mãi với non sông.

Trịnh Hoài Đức

Hai bài này trong nguyên bản không có tựa, chỉ có đoạn văn của tác giả, dịch như sau: Tháng tư năm Kỷ Vị quân vua chiêu hàng thành Quy Nhơn, sai Chưởng Hậu quân Bình Tây tham thừa tướng quân Quận công Võ Tánh, Lễ bộ chánh hầu Ngô Tùng Châu trấn giữ tháng mười hai. Nguỵ tướng Nguyễn Diệu (Trần Quang Diệu) đem đại binh vây hãm tháng tư năm Canh Thân. Quân vua cứu viện, chưa giải vây được, mùa hạ năm Tân Dậu ngự giá thừa hư tiến chiếm Phú Xuân, lại ra lệnh sai Khâm sai chưởng tả quân Bình Tây tướng quân Quận công Lê Văn Duyệt tiến đóng Quãng Ngãi, đánh sau lưng giặc. Tôi phụng mệnh theo quân cấp phát lương hướng. Bãy giờ thành Quy Nhơn bị vây lâu, trong ngoài cách trở. Hai ông Võ và Ngô không nỡ phá vòng vây thoát thân, sợ tướng sĩ chết nhiều, mà trong thành những tướng sĩ đầu hàng cũng lắm phen mưu việc lạ, nhiều người ban đêm dòng dây xuống dưới thành để trốn, lại thêm trong thành lương hết; ngày hai mươi bảy tháng năm, ông Võ lên lầu bát giác tự thiêu trước, ông Ngô uống thuốc độc tử tiết, để lệnh cấm huỷ quân dụng, toàn thành nguỵ cầu sự sống cho ba quân. Tin buồn đến Quảng Nghĩa, mọi người đều thương xót. Tôi nhân khóc hai ông, làm thơ ghi tiết của hai bậc danh thần mà thôi, không phải dùng thơ để "kêu".

Nguyên chú: Ngô Tùng Châu không có con nối. Khi dẹp yên giặc, Võ Tánh được gia tăng Trung hưng đệ nhất công thần Thái uý Quốc công, Ngô Tùng Châu được gia tăng Thái tử thái sư Quốc công, được tế vào mùa xuân và mùa thu, mỗi ông lại được ban tự điền, dân phu thủ mộ theo đẳng cấp khác nhau, ân trạch rất nhiều.

Văn tế phò mã chưởng hậu quân Võ Tánh và lễ bộ thượng thư Ngô Tùng Châu

Than rằng:
Đạo thần tử hết lòng thờ Chúa, gian nan từng giãi dạ trung thành;
Đấng anh hùng vì nước quên mình, điên bái chẳng lay lòng tiết nghĩa.

Ngọc dầu tan, vẻ trắng nào phai;
Trúc dẫu cháy tiết ngay vẫn để.

Nhớ hai người xưa:
Thao lược ấy tài;
Kinh luân là chí.

Phù vạc Hán thuở ngôi trời chếch lệch, chém gai đuổi lũ hung tàn;
Với xe Đường khi thế nước chông chênh, cầm bút ra tay kinh tế.

Mối nghĩa sánh duyên gác tía, bước gian truân từng vững dạ khuông phù;
Màn kinh giúp sức cung xanh, công mông dưỡng đã đành lòng uỷ ký.

Hậu quân thuở trao quyền tứ trụ, chữ ân uy lớn nhỏ đều phu;
Lễ bộ phen làm việc chính khanh, bề trung ái sớm khuya chẳng trễ.

Ngoài cỏi vuốt nanh ra sức, chí tiêm cừu từng trải xuống ba quân;
Trong thành then khoá chia lo, lòng ưu quốc đã thấu lên chín bệ.

Miền biên khổn hai năm chia sức giặc, vững lòng tôi bao quản thế là nguy;
Cõi Phú Xuân một trận thét uy trời, nặng việc nước phải lấy mình làm nhẹ.

Sửa mũ áo lạy về bắc khuyết, ngọn quang minh hun mát tấm trung can;
Chỉ non sông giã với cô thành, chén tân khổ nhắp ngon mùi chính khí.

Há rằng ngại một phen thỉ thạch, giải trùng vi mà tìm tới quân vương;
Bởi vì thương muôn mạng tì hưu, thà nhất tử để cho toàn tướng sĩ.

Tiếng hiệu lệnh mơ màng trước gió, ân tín xưa người bộ khúc thương tâm;
Bóng tinh trung thấp thoáng dưới đèn, phong nghi cũ kẻ liêu bằng sái lệ.

Cơ đẵng định kíp chầy đành hẹn buổi, xót tướng doanh sao vắng mặt thân huân;
Phận truy tuỳ gang tấc cũng đền công, tiếc nhung mạc bỗng thiệt tay trung trí.

Nay gặp tiết thu;
Bầy tuần quý tế.

Hai chữ cương thường nghĩa nặng, rõ cổn hoa cũng thoả chốn u minh;
Nghìn thu hà nhạc khí thiêng, sắp mao việt để nền bình trị.

Hỡi ôi! Thượng hưởng!

Đặng Đức Siêu


Văn tế nghĩa sĩ trận vong

Than ôi!
Trời Đông phố vận ra sóc cảnh, trải bao phen gian hiểm mới có ngày nay;
Nước Lô Hà chảy xuống Lương Giang, nghĩ mấy kẻ điêu linh từ thuở nọ.

Cho hay sinh là ký mà tử là quy;
Mới biết mạng ấy yểu mà danh ấy thọ.

Xót thay!
Tình dưới viên mao;
Phận trong giới trụ.

Ba nghìn họp con em đất Bái, cung tên ngang dọc chí nam nhi;
Hai trăm vây bờ cõi non Kỳ, cơm áo nặng dày ơn cựu chủ.

Dấn thân cho nước, son sắt một lòng;
Nối nghĩa cùng thầy, tuyết sương mấy độ.

Kẻ thời theo cơ đích chạy sang miền khách địa, hăm hở mài nanh giũa vuốt chỉ non tây thề chẳng đội trời chung;
Kẻ thời đón việt mao trở lại, lại chốn sa cơ, dập dìu vén cánh dương vây, trong cõi Bắc quyết thu về đất cũ.

Nằm gai nếm mật chung nỗi ân ưu;
Mở suối bắc cầu riêng phần lao khổ.

Trước từng trải Xiêm La, Cao Miên về Gia Định mới dần ra Khánh - Thuận; đã mấy buổi sơn phong hải lễ, trời cao quang soi rõ trí kiên trinh;
Rồi lại từ Đồ Bàn, Nam - Ngãi lấy Phú Xuân mà thẳng tới Thăng Long; biết bao phen vũ pháo vân khê, đất Lũng - Thục lăn vào nơi hiểm cố.

Phận truy tuỳ gẫm lại cũng cơ duyên;
Trường tranh đấu biết đâu là mệnh số?

Kẻ thời chen chân ngựa quyết giựt cờ trong trận, xót lẽ gan vàng mà mạng bạc, nắm lông hồng theo đạn lạc tên bay;
Kẻ thời bắt mui thuyền toan cướp giáo giữa đàng, thương thay phép trọng để thân khinh, phong da ngựa mặc bèo trôi sóng vỗ.

Hồn tráng sỹ biết bao miền minh mạc, mịt mù gió lốc, thổi dấu tha hương;
Mặt chinh phu không vẽ nét gian nan, lấp loé lửa trời soi chừng cố độ.

Ôi!
Cùng lòng trung nghĩa khác số đoãn tên;
Nửa cuộc công danh phân chia kim cổ.

Đoái là tiếc xương đồng da sắt, thanh bảo kiếm đã trăm rèn mới có, nợ áo cơm phải trả đến hình hài;
Những là khen dạ đá gan vàng, bóng bạch câu xem nửa phút như không, ơn dày đội cũng cam trong phế phủ.

Phận dù không gác khói đài mây;
Danh đã ngàn cây nội cỏ.

Thiết vì thuở theo cờ trước gió, thân chẳng quản màn sương đêm giá, những chờ xem cao thấp bức câu thường;
Tiếc cho khi lỡ bước giữa dòng, kiếp đã về cõi suối làng mây, nào kịp thấy ít nhiều ơn vũ lộ.

Vàng thượng đức hồi loan tháng trước, đoàn ứng nghĩa dẫu Quảng, Thuận, Nghệ, Thanh cũng vậy, giội ân quang gieo khắp xuống đèo Ngang;
Mà những người thượng trận ngày xưa, lớp tấu công từ ngọ, mùi, thân, dậu đến giờ, treo tính tự để nằm trong lá số.

Ngọn còi rúc nguyệt, nơi tẻ nơi vui;
Dịp trống phồn hoa, chốn tươi chốn ủ.

Đã biết rằng anh hùng thì chẳng quản, trăm trận một trường oanh liệt; cái sinh không, cái tử cũng là không;
Nhưng tiếc cho tạo hoá khéo vô tình, ngàn năm một hội tao phùng; phận thuỷ có, phận chung sao chẳng có?

Bản chức nay:
Vâng việc biên phòng;
Chánh miền viễn thú.

Dưới trướng nức mùi chung đỉnh, sực nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh;
Trong nhà rõ vẽ áo xiêm, chạnh nghĩ buổi tấm cừu vung trước gió.

Bâng khuâng kẻ khuất với người còn;
Tưởng tượng thầy đâu thì tớ đó.

Nền phủ định tới đây còn xốc nổi, vụ lòng một lễ, chén thoi vàng;
Chữ tương đồng ngẫm lại vốn đinh ninh, khắp mặt ba quân, cờ đào nón đỏ.

Có cảm thông thì đến đó khuyên mời;
Dù linh thính hãy nghe lời dặn dỗ.

Buổi chinh chiến hoặc còn oan hay chẳng, cũng chớ nề kẻ trước người sau, hàng trên lên dưới, khen thưởng rồi sẽ tấu biểu dương cho;
Hội thăng bình đừng nghĩ rằng không, dù ai còn cha già mẹ yếu vợ goá con côi, an tập hết, cũng ban tồn tuất đủ.

Hồn phách đâu đều ngày tháng Thuấn, Nghiêu;
Hài cốt đó cũng nước non Thang, Vũ.

Cơ huyền diệu hoặc thăng trầm chưa rõ, thiêng thời về cố quận, để hương thơm lửa sáng, kiếp tái sinh lại nhận cửa tiền quân;
Niềm tôn quân dù sinh tử chớ nề, linh thì hộ cho Hoàng triều bể lặng sông trong, duy vạn kỷ chửa dời ngôi bảo tộ.

Nguyễn Văn Thành

Bài văn tế này tác giả soạn và đứng chủ tế lễ truy điệu các tướng sĩ bỏ mình trong cuộc chiến giữa Nguyễn Ánh với Tây Sơn vào tháng chạp năm 1802, tại Thuận Hoá. Đây được coi là một áng văn chương tuyệt bút mà Nguyễn Văn Thành đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam. Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh cho rằng: "lời đáng ghi vào vàng đá truyền đến muôn đời, khi giống giã như nhịp trống trong quân, khi tơi bời như ngọn cờ dưới nguyệt, khi mịt mù như cơn gió lốc thổi dấu kẻ tha hương, khi lập lòe như đám lửa trời soi chừng chốn cổ độ, khi hùng tráng như tiếng gươm tuốt giữa trận, khi lâm li như vượn khóc trên ngàn".



Leave a Reply

(required)

(required)

:) :blush: :D :( :(( ;)) :banh: ;) ::) =)) :)) b-) :meo1: :meo2: :meo3: :meo4: :meo5: :meo6: :meo7: :meo8: :meo9: :meo10: :meo11: more »

Bộ gõ tiếng Việt đã được bật. Bạn có thể gõ tiếng Việt không cần phần mềm trong máy.
RSS feed for comments on this post.


Copyright © Trường An. All rights reserved.