Bây giờ tôi chuyển sang tỉnh Bình Định và sự trỗi dậy của một trung tâm khu vực mới tại đó trong thế kỷ 18. Bình Định, cụ thể là khu vực gần kề thành phố Qui Nhơn thời hiện đại, từ lâu đã là một địa điểm quan trọng cho các vua Chămpa. Nơi này bị các đội quân Việt cướp bóc trong nhiều thế kỷ nhưng chưa bao giờ bị chinh phục lâu dài cho đến cuối thế kỷ 15. Đó là tiền đồn cực Nam của biên giới của người Việt từ đó cho đến 1611, khi Nguyễn Hoàng chinh phục khu vực này về phía Nam, bao gồm cả đèo Cả, mà sau đó được biết đến với tên tỉnh Phú Yên. Đến cuối thế kỷ 17, Bình Định trở thành khu vực hoạt động cho các binh đoàn tiến về Nam và đi sâu vào đồng bằng Mêkông. Đến những năm 1690, Bình Định đã trở thành trung tâm của một mạng lưới giao thông và liên lạc kết nối trung tâm Thuận Quảng của Đàng Trong với đồng bằng sông Mêkông. Nó cũng trở thành trung tâm tuyển mộ binh lính và lao động để duy trì hoạt động quân sự ở sâu trong phía Nam.
Một tính chất quan trọng khác của Bình Định là vị trí của nó như một bến cuối của tuyến đường được đi lại nhiều dọc cao nguyên đến thung lũng Mêkông, băng qua An Khê, Plây Ku,và đến sông Mêkông ở Stung Treng ở nơi mà hiện nay là phía Bắc Campuchia, nơi nó nối kết với mạng lưới giao thương tỏa ra từ Ayudhaya/ Bangkok. Thương mại di chuyển dọc tuyến đường này, nối Bình Định với những mối quan tâm buôn bán của người Xiêm. Các dân tộc vùng cao và người Việt tham gia vào hoạt động thương mại này, nhưng các cộng đồng người Hoa ở Ayudhaya/ Bangkok và Qui Nhơn cung cấp vốn và những mối quan hệ để kích hoạt giao thương. Qui Nhơn trở thành trung tâm thương mại quan trọng tại đầu mối của một cảng biển lý tưởng, con đường phía tây qua núi, con đường phía Bắc đến Thuận Quảng, và con đường phía Nam đến đồng bằng sông Mêkông.
Trong thế kỷ 18, những nhà cai trị ở Thuận Quảng ngày càng quan tâm đến Bình Định, xem nó như một điểm nối uy quyền của họ với vùng biên giới phía xa. Một nghiên cứu gần đây đã phân tích buổi khởi nghiệp của phong trào Tây Sơn (Tây Sơn nằm ở lưu vực sông giữa Qui Nhơn và An Khê) những năm 1770, xem đó là một sự phản ứng vùng trước những yêu sách của các nhà cai trị Thuận Quảng áp đặt lên vùng này. Ngoài ra, địa điểm Qui Nhơn đem lại những khả năng rõ rệt như một trung tâm quyền lực. Nguyễn Nhạc, người anh cả dẫn đầu cuộc nổi dậy, đã theo đuổi việc trở thành “hoàng đế” tại Qui Nhơn. Trong thập niên 1780, tranh chấp giữa Nhạc và em trai Huệ đã dẫn tới đụng độ để giành quyền kiểm soát Qui Nhơn. Và vào cuối thế kỷ ấy, sự kiểm soát Qui Nhơn trở thành ám ảnh tranh giành của quân Tây Sơn và đối phương của họ, liên tục thay chủ, vây hãm, bao vây lần nữa trong nhiều năm; cả cho đến khi tương quan cuộc chiến đã khiến nơi này không còn quan trọng về quân sự, thì Qui Nhơn vẫn là đối tượng tranh giành, có lẽ ở một mức độ nào đấy, được thèm muốn như một trung tâm thương mại có cảng và kết nối đường bộ với Bangkok.
Đến ngày nay, Bình Định vẫn duy trì tiếng tăm là tỉnh thiện chiến nhất, sản sinh những chiến binh võ nghệ cao cường. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, người từ Bình Định nắm lấy sân khấu trung tâm trong chính trường và chiến trường của người Việt. Phong trào Tây Sơn, bắt đầu là một hỗn hợp người dân tộc vùng cao, nông dân đồng bằng và lái buôn Trung Hoa, đã bùng nổ tại Bình Định, đưa quân chinh Nam phạt Bắc và thúc đẩy 30 năm chiến tranh giữa các khu vực có người nói tiếng Việt sinh sống. Mặc dù Bình Định không có tài nguyên để trở thành một trung tâm đủ sức khống chế các vùng khác trong bất kì thời gian dài nào, nhưng nó cũng bộc lộ một cái nhìn khu vực về vấn đề làm người Việt. Nó sản sinh là một nhân vật, Nguyễn Huệ, người dẫn quân từ lãnh thổ này sang lãnh thổ khác và đã cố tìm cách thống nhất mọi khu vực của người Việt dưới uy quyền của ông. Việc ông thất bại thường được quy cho là vì cái chết bất ngờ của ông. Nhưng có lẽ người ta đã không dành đủ sự chú ý cho câu hỏi làm thế nào viễn kiến khu vực của Bình Định đã có thể định hình tham vọng của cả ông và những người kế vị yếu kém, và khiến họ dễ bị đe dọa bởi một đối thủ có một viễn kiến khu vực khác. Chừng nào một sức mạnh quân sự tự nguyện và chuỗi dài thắng trận còn là bí quyết giúp có quyền lực chính trị, người của Bình Định có thể chiếm ưu thế. Nhưng khi đối diện với một đối thủ đã thua trận liên tục nhưng luôn đứng dậy, một đối thủ có tầm nhìn chiến dịch lâu dài chứ không chỉ một trận đánh, một đối thủ xem thành công không phải nhờ giao tranh mà là kết quả của tổ chức, rèn luyện, huy động tài nguyên, chuẩn bị, hoạch định và chờ đợi, chờ đợi, chờ đợi, thiên tài Tây Sơn, đứng trước một đối thủ như thế, bỗng chỉ trở thành một sự gan dạ cấp tỉnh. Và đối thủ này xuất hiện từ đâu? Từ Nam Bộ.
Nam Bộ là vùng đồng bằng sông Mêkông, vùng biên cuối cùng của người Việt. Một dân số Khmer lâu đời đã kết giao vào cuối thế kỷ 17 với hàng ngàn người Minh hương đến bằng đường biển; đến cuối thế kỷ đã có một dòng đều đặn những người Việt đến từ miền Bắc. Giữa Nam Bộ và đèo Cả ở đường biên phía Nam Phú Yên, vùng đất ven biển trồng lúa ở ngay phía Nam Bình Định, là 350 cây số lãnh thổ bán khô cằn, thậm chí bỏ hoang (các tỉnh mà nay gọi là Khánh Hòa, Ninh Thuận, và Bình Thuận, hay các thành phố Nha Trang, Phan Rang và Phan Thiết). Ở đây phạm vi dành cho nông nghiệp tương đối nhỏ; số ít những người đến đây sống đã chuyển qua đánh cá. Đây là nơi tập trung những cư dân người Chàm còn sót lại. Trong biểu đồ di dân của người Việt, nơi đây đơn thuần là một con đường lớn giữa Bình Định và Nam Bộ. Đồng bằng màu mỡ phù sa của Nam Bộ là nơi vẫy gọi.
Đến giữa thế kỷ 18, một trăm năm sau khi những đội quân người Việt đầu tiên bắt đầu xuất hiện ở đồng bằng sông Mêkông, sáu tỉnh Nam Bộ được thành lập từ các vùng đất Khmer với sự tham gia nhiệt tình của các nhóm di dân người Hoa rất có tổ chức. Khi Bình Định nổ ra chiến tranh những năm 1770, Nam Bộ trở thành nơi trú ẩn của phe họ Nguyễn từng trị vì Đàng Trong trong hai thế kỷ trước đó. Thành viên của tông tộc này, người sống sót để trở thành lãnh đạo của phe nhà Nguyễn, Nguyễn Ánh, cuối cùng đã xây dựng nền tảng quyền lực tại Sài Gòn ở Nam Bộ và từ đấy đã đi chinh phục toàn bộ các vùng ở miền Bắc nơi người Việt sinh sống, lập nên một vương quốc vào đầu thế kỷ 19 mà trước đó chưa bao giờ tồn tại. Nhìn hời hợt, đây có vẻ là trường hợp vùng biên chống lại trung tâm. Nhưng một quan niệm như thế đặt giả thiết là có tồn tại một “vùng trung tâm” (heartland). Dù đã từng có hay không một “trung tâm” Việt Nam trong thế kỷ 18, thì chắc chắn lúc này nó không tồn tại. Thay vì xem Nam Bộ thế kỷ 18 là một vùng biên mà đã khiến xô đẩy trung tâm, tôi lại muốn xem Nam Bộ chỉ là một khu vực nữa trong quá trình định nghĩa một phiên bản làm người Việt, khu vực này bắt đầu cạnh tranh ưu thế với toàn bộ những phiên bản khu vực khác của việc làm người Việt.
Tôi sẽ thảo luận phiên bản làm người Việt của Nam Bộ bằng cách nhắc tới ba nhận xét sau: địa hình, sự đa dạng về người, và kinh nghiệm con người. Đầu tiên, Nam Bộ, khác với tất cả các khu vực khác, không có một biên giới địa lý rõ ràng; nó không được định nghĩa bằng địa hình. Biên giới phía tây của Nam Bộ chạy qua đồng bằng sông Mêkông từ cao nguyên trung phần ở đông bắc ra biển ở tây bắc. Đó là kết quả của chiến tranh và thương lượng chứ không phải của bất kì yếu tố địa hình địa vật nào. Nơi duy nhất mà đường biên giới thời cận đại tuân thủ mốc cắm trên đất là tại kênh Vĩnh Tế, xây hồi đầu thế kỷ 19, giữa sông Mêkông và biển, nhưng đây là một trường hợp của công trình con người áp dụng vào địa hình để tạo nên một biên giới. Điều mà tôi muốn nhận xét là khía cạnh địa lý của Nam Bộ là tính rộng mở, dễ tổn thương, tính có thể. Tương đối có ít cảm thức về tính cố định, ràng buộc, định hướng. Điểm đặc trưng chính là dòng nước chảy liên tục qua khu vực này từ lưu vực Campuchia ra biển và sự gặp gỡ các dòng thủy triều. Những tính chất này, cùng với đất phì nhiêu và đầy ắp sản phẩm từ sông và biển, khuyến khích một sự mong chờ thay đổi, vận động và lựa chọn thay vì mọi cảm giác hạn chế và gắn bó vốn là tính chất điển hình hơn ở địa hình giới hạn của các khu vực khác tại Việt Nam.
Sự đa dạng trong định cư của con người tại Nam Bộ bổ sung thêm một khía cạnh nữa cho tính mở của địa hình. Người Khmer, Trung Hoa và Việt đều có mặt ở đó với đủ số lượng để đòi hỏi một sự thừa nhận lẫn nhau. Nam Bộ là một nơi gặp gỡ về văn hóa và ngôn ngữ. Những quan hệ chức năng, trung thành cá nhân, và hy vọng vào tương lai có ý nghĩa quan trọng hơn dòng họ hay những quyến rũ của quá khứ. So với bất kì khu vực nào khác, ở đây có nhiều hơn những kinh nghiệm, quen thuộc và tôn trọng sự giao tiếp với những dân tộc không phải người Việt và những nơi chốn. Nam Bộ kết nối với thế giới của người Việt bằng một con đường hẹp ven biển 350 cây số đi qua những vùng đất tương đối cằn cỗi, ít dân cư. Mặt khác, Nam Bộ tọa lạc ở một trung tâm tiềm năng về giao dịch quốc tế đang trỗi dậy. Nam Bộ là một khu vực của người Việt có nhiều triển vọng nhất cho việc sát nhập những cái nhìn mới vào một phiên bản làm người Việt.
Một điều rất quan trọng cho mục đích của tôi là người ta không nên xem quan điểm Nam Bộ này là một điều “ít chất Việt Nam hơn”, dù chất ấy có nghĩa là gì. Không có phiên bản vùng nào của việc làm người Việt mà tôi đang thảo luận lại có chất Việt Nam “chân thật” hơn cái khác. Ý niệm về tính trung tâm văn hóa là một sự xây dựng ý thức hệ cưỡng bức với một mục đích chính trị rõ rệt. Chỉ khi chúng ta có thể chấp nhận Nam Bộ là một địa điểm chính trị và văn hóa chân thật y như các địa điểm khác, thì chúng ta mới bắt đầu nhìn thấy những gì đã xảy ra vào đầu thế kỷ 19 là một sự kiện lịch sử thật sự chứ không phải, như người ta thường khẳng định trong mấy thập niên gần đây, là một sự sửa đổi sai quấy của một tiến trình lịch sử được tưởng tượng.
Nguyễn Ánh là người đầu tiên tổ chức Nam Bộ thành một khu vực đủ sức tranh dự thành công trong chiến cuộc và chính trị giữa các vùng tại Việt Nam. Sự nghiệp của ông là câu chuyện về những thất bại và lưu vong triền miên, nhưng cũng là chuyện về sự kiên trì và học từ thất bại; nó bộc lộ một kinh nghiệm con người về tiềm năng thành một khu vực tại Việt Nam của Nam Bộ. Các phẩm chất lãnh đạo của Nguyễn Ánh bắt đầu tìm thấy chỗ phát triển trong thập niên 1780 vào lúc, sau khi phụng sự như một chư hầu của Vua Xiêm, ông củng cố mình ở Sài Gòn và lấy Nam Bộ làm một quyền lực quân sự mới. 20 năm sau, ông là chủ của tất cả các khu vực Việt Nam. Nguyễn Ánh thắng thế nhờ sự vượt trội thủy quân và khả năng vận chuyển toàn bộ quân đội bằng đường biển. Ông làm được điều này bằng cách tập hợp lực lượng quốc tế gồm những chiến binh và kỹ thuật viên giỏi. Tùy tùng của ông gồm người Chàm, Trung Hoa, Xiêm, Lào, Miến Điện, Mã Lai và Pháp. Bất kì ai có khả năng đóng tàu, lái thuyền, pháo binh, sản xuất và xây thành đều được hoan nghênh ở Sài Gòn.
Một khía cạnh khác trong chiến thắng của Nguyễn Ánh là sức sống và năng lực của mối liên hệ thương mại giữa cộng đồng người Hoa ở Sài Gòn và Bangkok, một yếu tố mà Bình Định không thể tranh đua. Người sáng lập Bangkok, Rama I, đã chinh chiến ở Campuchia, và binh đoàn năm 1784 của ông đi xuống Mêkông đánh quân Bình Định ở Nam Bộ chắc chắn không chỉ là một cử chỉ thân thiện huynh đệ với Nguyễn Ánh, người ông có liên minh trong chiến dịch đó; các quyền lợi buôn bán cũng ngự trị. Một vài năm sau, khi Nguyễn Ánh chuyển khỏi Bangkok để thiết lập căn cứ ở Sài Gòn, thì những quyền lợi thương mại chắc chắn không tách rời. Nhân chứng người Bồ Đào Nha đã chứng thực sự có mặt của nhiều thương nhân người Hoa tại Sài Gòn trong những thập niên cuối của thế kỷ 18.
Ngoài việc đặt một chốt chặn của người Việt đối với mạng lưới thương mại Trung Quốc đặt trung tâm ở Bangkok, bước chuyển vào Sài Gòn của Nguyễn Ánh còn mang lại một kiểu chiến tranh mới giữa những người nói tiếng Việt, kiểu chiến tranh mà Nguyễn Ánh đã học khi chinh chiến cùng Rama I chống quân Miến Điện. Kiểu chiến tranh của người Việt đã thường có xu hướng nghĩ đến yếu tố lãnh thổ, dù là để đánh chiếm hay phòng thủ. Nó ngược với kiểu kiểm soát nhân lực, vốn thể hiện rõ rệt hơn trong người Xiêm. Thay vì chỉ chiếm lãnh thổ để phòng thủ, Nguyễn Ánh đã thu hút và lãnh đạo một đoàn tùy tùng gồm những cá nhân tham vọng, tranh đua, tất cả muốn thể hiện sự ưu tú để tiến thân; trong các “chiến dịch theo mùa” của ông hồi đầu thập niên 1790, ông đã tập hợp người có hiệu quả hơn là việc lấy đất, và người ta tự hỏi rằng liệu đó có phải là ưu tiên cấp thời của ông khi ấy hay không. Chuyện chinh phục quần thần vốn chẳng phải mới lạ gì với người Việt, nhưng khả năng của Nguyễn Ánh trong việc mở cửa cho những người không phải người Việt, và cho những người đang trở thành người Việt Nam Bộ, là một điều chưa từng có. Những dấu hiệu thể hiện điểm đặc biệt này đã được trình bày qua thơ như thế nào có thể tìm thấy trong những sáng tác được cho là của nhà thơ đầu tiên của Nam Bộ, Mạc Thiên Tích (1706-1780).
Mạc Thiên Tích là con trai của Mạc Cửu, một người Hoa vào cuối thế kỷ 17 thiết lập một trung tâm buôn bán và đặt ưu thế địa phương ở Hà Tiên; trong thế kỷ 18, Mạc Cửu bày tỏ sự trung thành với các chúa Nguyễn ở Đàng Trong và khi ông qua đời năm 1735, Mạc Thiên Tích kế nghiệp cha. Trong thập niên 1770, Mạc Thiên Tích đến Bangkok trong đoàn tùy tùng của Nguyễn Ánh, nơi xảy ra các mưu toan dẫn đến cái chết của ông năm 1780.
Các bài thơ của Mạc Thiên Tích thể hiển cách thức một vị quý tộc Nam Bộ có học quan sát khu vực của ông vào lúc nó sắp trở thành tổng hành dinh của một cuộc chinh phục chưa từng có đối với toàn bộ các vùng của Việt Nam. Có một cảm thức trông chờ, thay đổi, đa dạng và khả biến, về tự do và không phân biệt. Trong một bài thơ có chủ đề sáo mòn về bình minh, nhà thơ bộc lộ một cảm giác sắc bén về đổi thay và vận động với một sự khẳng định mạnh mẽ về tính ưu việt của Phật giáo; cảnh đồng quê thức dậy trở thành ẩn dụ cho việc đạt đến một cảnh giới nhận thức:
TIÊU TỰ THẦN CHUNG
Tàn tinh liêu lạc hướng thiên phao
Mậu dạ kình âm viễn tự xao
Tịnh cảnh nhân duyên tình thế giới
Cô thinh thanh việt xuất giang giao
Hốt kinh hạc lệ nhiễu phong thụ
Hựu súc ô đề ỷ nguyệt sao
Đốn giác thiên gia y chẩm hậu
Kê truyền hiểu tín diệc liêu liêu.
Dịch nghĩa:
Bóng sao tàn thưa thớt lặn dần trên nền trời
Đêm đã đến canh năm, tiếng kình thỉnh từ chùa xa
Tiếng chuông trong hoàn cảnh yên tịnh, khiến cho người nhân đó mà tỉnh ngộ chuyện đời
Tiếng chuông cô đơn nổi lên đồng vọng khắp sông nước, khắp đồng nội
Tiếng chuông làm kinh động tiến chim hạc vương trên cành cây gió thoảng
Tiếng chuông lại chạm đến tiếng chim quạ cất trên ngọn cây trăng lồng
Nghĩ rằng mọi người đều thức giấc sau đêm nghiêng gối
Tiếng gà truyền tin sáng cũng đã văng vẳng đó đây.
Ở đây, dấu hiệu báo sáng sớm điển hình, tiếng gà, lại đến sau cùng, sau khi nhà thơ đã để ý một loạt các dấu hiệu tỉnh giấc bao gồm vòng xoay suốt ngày đêm của thế giới con người và tự nhiên; nhà thơ tọa vị phía trước dấu hiệu thông thường về sáng sớm, trước âm thanh của tiếng chim nuôi mà thông thường vẫn mở đầu cho hoạt động xã hội trong các công thức văn chương. Phần đầu của bài thơ là về cảnh và âm thanh, ngôi sao lặn và chuông chùa, báo hiệu cho người xem và người nghe về thay đổi sắp đến, sự chuyển tiếp từ đêm sang ngày, từ ngủ sang hành động; khoảnh khắc đi trước và tiến vào thời khắc đổi thay này là nơi nhà thơ đặt ao ước diễn cảm của ông, thay vì khi bình minh đã xong – giây phút bình minh đã xong được thêm vào như một ý nghĩ muộn vào cuối bài thơ với dấu hiệu ấn định của tiếng gà gáy. Có thể đọc trong bài thơ này hương vị của khoảnh khắc trước rạng đông của Nam Bộ, sự thức tỉnh của nó trước lúc nhận ra mình trở thành một nơi riêng biệt tại Việt Nam. Sự nhắc đến chữ “tin” trong bài thơ có thể đã có một âm vang xâm nhập và báo điềm ở một thời điểm và một nơi của những đoàn quân và lãnh chúa đang có tham vọng như Nam Bộ thế kỷ 18; những người tỏ ra tự tin và oai vệ mà sắp sửa xuất hiện.
Bài thơ thứ hai đề cập một cảnh văn chương sáo mòn khác, xem ánh trăng phản ánh trong nước, theo một cách có gì đó hơi lật đổ:
ĐÔNG HỒ ẤN NGUYỆT
Vân tể yên tiêu cộng diểu mang
Nhất loan phong cảnh tiếp hồng hoang
Tình không lãng tịnh truyền song ảnh
Bích hải quang hàn tiển vạn phương
Trạm khoát ứng hàm thiên đãng dạng
Lãm linh bất quí hải thương lương
Ngư long mộng giác xung nan phá
Y cựu băng tâm thượng hạ quang.
Dịch nghĩa
Mây tạnh, mây tan trong cõi mênh mông bát ngát
Một vùng phong cảnh tiếp liền với cõi rộng lớn
Phía trên, sáng sủa trong trẻo, phía dưới sóng nước yên tĩnh lặng lẽ, truyền nhau đôi bóng
Mặt biển biếc, ánh sáng lạnh, khắp bốn phương sạch sẽ
Sâu rộng ngâm chứa cả trời rộng lớn
Lạnh lẽo không thẹn với biển mênh mông
Con ngư con long tỉnh mộng, trở mình vùng vẫy cũng không làm phá vỡ được
Một tấm lòng băng vẫn rực rỡ chói chang y như cũ.
Những suy tưởng quy ước về việc trăng phản chiếu trên nước và quan tâm hình ảnh nào là thật, hình nào là ảo giác đều không có trong bài thơ này. Mọi cảm giác ưu việt hay thứ bậc tôn ti đều không có, khi “đôi bóng” treo lơ lửng trong sự bao la không phân biệt của trời và nước; trong câu thứ ba, sự hòa nhập của trời và nước trong một viễn cảnh về sự thống nhất của chúng bao hàm sự tự do vùng vẫy không cần nhìn lại. Con ngư con long, những ẩn dụ thay cho nhà cai trị và tùy tùng, tràn đầy giấc mơ và phối hợp, nhưng quá trình thức tỉnh và hành động thì không hoàn tất; những nỗ lực “phá vỡ” để tiến đến hiểu biết và hoàn thành của họ bị ngăn chặn. Bị ngăn chặn bởi cái gì? Cái ý tôi dịch sang tiếng Anh là “loyalty” (trung thành) thì nguyên gốc có nghĩa là “băng tâm”, một thành ngữ quy ước chỉ “sự trinh bạch” của phụ nữ và “tính cao thượng” của đàn ông; nó có nghĩa là tính chất đáng tin cậy, bền lòng, trung trinh, trung thực với mình. Phẩm chất này được xem là đã luôn “y như cũ”, không phải phụ thuộc vào những giấc mơ của “con ngư con long”, với những cuộc tranh đua của chúng vốn chỉ mang tính phù du. Hiệu ứng của bài thơ này là một nhận thức về thiên nhiên và vũ trụ như một sự thống nhất vượt qua những tu từ phân biệt của nhà thơ hay mưu toan của nhà cai trị, đó cũng là một nhận thức về quy tắc hành xử con người không cần đến “văn chương” hay “chính quyền”. Hiệu ứng này còn rõ rệt hơn trong bốn dòng thơ cuối cùng của bài thứ ba nhan đề Thạch Động Thôn Vân, một bài suy tưởng về đỉnh đá núi:
Phong sương cửu lịch văn chương dị
Ô thố tàn di khí sắc đa
Tối thị tinh hoa cao tuyệt xứ
Tùy phong hô hấp tự ta nga
Dịch nghĩa
Trải qua nhiều phong sương, càng thêm nét sáng đẹp lạ lùng
Bóng ác bóng thỏ (mặt trời mặt trăng) thường di chuyển, khí sắc thêm nhiều
Chắc hẳn đây là nơi tinh hoa cao tuyệt rồi
Tự do theo gió, thở hút ở trên chót vót thượng từng.
Không giống như thiên nhiên mang tính chất như vườn, chịu ở dưới nỗ lực của con người như trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm và nhiều nhà thơ xứ Bắc, không giống sự ca tụng niềm vui con người giữa thiên nhiên hoang sơ trong thơ Đào Duy Từ ở Đàng Trong, Mạc Thiên Tích xem thiên nhiên như một tác nhân động vừa khơi hứng vừa hạn chế nỗ lực con người. Dòng thứ nhất ở trên cho thấy các thói quen văn chương chắc chắn thay đổi khi chuyển vào Nam Bộ; không cần phải xin lỗi cho tính không chính thống. Dòng thứ hai ngụ ý những kế hoạch thống nhất của người có tham vọng làm vua thường xuyên bị ngăn trở và buộc phải thay đổi ở Nam Bộ; không cần phải xin lỗi cho sự đa dạng. Trong hai dòng cuối, có thể đọc như một ẩn dụ cho Nam Bộ, một nơi có những khí sắc riêng, một nơi mà những lựa chọn chỉ dành cho những ai “tự do theo gió”, dấu hiệu của việc đi theo khát vọng cá nhân, và xem những khả năng “trên chót vót thượng từng”. Tôi đã dừng lại ở thơ của Mạc Thiên Tích bởi vì Nguyễn Ánh có thể đã là người Việt Nam đầu tiên “theo gió” ở Nam Bộ và nhìn về phía Bắc từ “chót vót” của Nam Bộ.
Cú đánh kết liễu của Nguyễn Ánh năm 1801 là thông qua việc chuyển toàn bộ quân bằng đường biển, bỏ qua Bình Định (nơi quân của ông bị Tây Sơn vây hãm), và chiếm Thuận Quảng; nhờ thế, trong một nước cờ khéo léo, ông đã làm vây hãm quân Tây Sơn ở Bình Định và mở rộng đường ra Bắc. Trong chiến dịch ra Bắc, ông lại được hỗ trợ nhờ sự có mặt của quân đồng minh Lào qua đường núi từ phía tây đi vào Thanh Nghệ và nhờ việc là Đông Kinh đã không đứng lên chống lại ông. Nhưng người ta phải nhớ rằng những sự kiện này xảy ra sau nhiều năm chuẩn bị, thất vọng, hoạch định kỹ lưỡng, chờ đợi kiên nhẫn, và một viễn kiến về sức mạnh đường biển và hoạt động điều phối rộng khắp mà không đối thủ nào sánh bằng. Viễn cảnh chiến thắng của Nguyễn Ánh được tạo dựng ở Nam Bộ. Khi ông quyết định cai trị từ Huế, gần mộ tổ tiên ở Thuận Quảng, ông đã khiến những người kế vị mất đi tầm nhìn mà đã từng giúp ông chiến thắng và khiến cho Nam Bộ dễ bị các sức mạnh khác tấn công. Chỉ 40 năm sau khi ông qua đời năm 1820, Nam Bộ đã trở thành tổng hành dinh của người Pháp ở châu Á.