Về thầy thuốc và bệnh tật của người Bắc Hà
Mọi người nếu thích đều có thể trở thành thầy thuốc ở Bắc Hà, và tất nhiên mọi người đều là thầy thuốc của chính mình, ở nơi mà khoa học cao quý trở thành thói thường của cộng đồng - kể cả tầng lớp cặn bã nhất - là một sự hổ thẹn đối với cộng đồng chấp nhận điều đó.
Học hỏi chủ yếu của bọn họ trong môn khoa học này chỉ bao gồm đọc duyệt qua vài cuốn sách Trung Hoa, trong đó chỉ dẫn bọn họ cách nấu pha trộn rễ cây, cây cỏ, cây thuốc với những ý niệm không rõ có chất lượng, bản chất và công dụng khác nhau, nhưng hầu hết đều rất mơ hồ - mà bọn họ không hiểu hoặc chỉ hiểu chút ít cho đến khi chính mình trải nghiệm. Họ khó mà hiểu được gì về giải phẫu và bản chất cấu tạo của cơ thể con người, ngoài gán tất cả cho máu như thể đó là nguyên do chủ yếu nhất gây nên tất cả tai nạn bệnh tật lên hệ thống thân thể, và vì thế chẳng cân nhắc đến tính chất hay sự bình hòa khi ứng dụng đơn thuốc của họ, và thế là đã đủ để thành công 3 hay 4 cuộc điều trị dù chỉ nhờ vận may (vì bọn họ khó có thể đưa ra một lý do khi làm điều gì đó) để lấy được danh tiếng là một Thầy thuốc xuất sắc. Danh tiếng này thường xuyên đẩy mạnh sự tập luyện của họ cũng như cho họ một sức mạnh vĩ đại để giết chết những sinh vật cấp dưới. Bệnh nhân của họ nói chung đều rất thiếu kiên nhẫn dưới bàn tay của những thầy thuốc này, người mà nếu không khiến cho họ dễ chịu ngay lập tức bởi phương thuốc điều trị cấp tốc, họ sẽ đi cầu cứu người khác, và thường là đi từ xấu đến xấu hơn - đến khi họ hoặc là mạnh khỏe, hoặc bị giết - vì yêu cầu kiên nhẫn ở một bên và suy tính ở bên kia.
Những thầy thuốc này nói chung đến thăm bệnh nhân, bắt mạch ở 2 điểm và trên cổ tay, cũng như người châu Âu. Nhưng phải là thầy thuốc Trung Hoa như ngài Tarverniere đã nói trước thì mới có tài năng bắt mạch, và tôi cũng có tên vài quốc gia khác xuất sắc trên mặt đó, nhưng số lớn hơn rất nhiều chỉ là những kẻ giả vờ có tài và làm vui bệnh nhân bằng những câu ước đoán khoe khoang, những ý nghĩ tự phụ và mơ hồ để gây dựng niềm tin vào tài năng của họ trong việc tìm ra nguyên nhân của căn bệnh, và để lừa bịp tiền bạc của những bệnh nhân nhẹ dạ, và thường xuyên ném sức khỏe của họ xuống đế giày.
Những người này không có dược sĩ bào chế thuốc trong bọn họ, mỗi người đều có nghệ thuật tự chính mình làm việc đó, bao gồm - như tôi đã nói - trộn lẫn cây cỏ và rễ cây, nấu trong nước.
Bệnh dịch hạch và bệnh gút khó được biết tới trong những quốc gia này. Sốt cao, sốt rét, bệnh lỵ, bệnh vàng da, đậu mùa... thống trị nơi đây nhất, mà bọn họ điều trị bằng các phương thuốc như đã nói trên. Đôi lúc chúng đưa đến thành công mong muốn - mà hầu hết gán cho sự tự chăm sóc, nhịn ăn, kiêng khem của chính bệnh nhân (về kiêng khem thì họ thân thuộc nhất, thường xuyên có thể vì nỗi sợ chết chung của bọn họ) hơn là tài năng và sự phán đoán của thầy thuốc.
Người quý tộc uống trà thảo mộc của TQ và NB, nhưng loại này không được hâm mộ lắm, họ thường dùng nhất là trà nội địa được họ gọi là trà bạng. Đây là lá của một loại cây nhất định và trà hoa - nụ và hoa của loài cây nhất định khác, sau khi phơi khô và nướng, họ nấu và uống thứ nước dung dịch nóng, nước cuối có vị ngon khá thích. Ngoài hai loại này, họ còn vài loại nước uống khác nấu từ đậu, rễ cây...
Tôi không cần mô tả ở đây về tính chất và phẩm chất của trà TQ và NB khi mà họ đã được biết tới phổ biến ở Anh và những hầu hết phần khác của châu Âu, tôi chỉ ghi chú ở đây ngài Taverniere đã sai lầm thô thiển như thế nào khi cho rằng trà Nhật tốt hơn trà TQ khi sự lựa chọn về chúng chênh lệch nhau hơn 30%.
Mở tĩnh mạch, hay còn gọi là trích máu, hiếm khi được thực hiện giữa những người này. Và khi họ làm thì không theo kiểu như chúng ta làm ở tay với một lưỡi trích, mà ở trán, bằng xương của một loài cá cột với cái đũa nhỏ, có hình dáng như lưỡi trích máu ngựa ở Anh, là dụng cụ để áp lên mạch máu trên trán, sau đó họ búng một ngón tay lên và máu bật ra. Phương pháp điều trị quan trọng nhất của họ là lửa, tới mức hầu như khó chịu đựng nổi, nó được dùng khi họ thấy căn nguyên của bệnh, dù cho lúc đó chính xác là ngày hay đêm. Vấn đề ở đây là họ lấy lá của một cái cây, rồi phơi khô nó, sau đó giã nó trong cối cho đến khi nó trở thành giống như cây gai bị giã của chúng ta. Sau đó họ áp lên mọi chỗ cần đốt (họ làm ở nhiều chỗ trong một lúc), trát lên 1 đồng xu, đập lên mỗi miếng bằng mực TQ ở dưới để nó có thể dính lên da, sau đó họ đốt nó bằng một mảnh giấy. Rất nhiều ghi chép cho rằng đây là phương pháp điều trị của riêng quốc gia này, tôi không thể khẳng định. Tuy nhiên, tôi chắc chắn rằng nó đem cho người bệnh sự hành hạ to lớn, và việc trích máu mà chúng ta sử dụng so với nó chỉ là vết bọ chét cắn.
Nhưng được sử dụng chung và thường lệ giữa bọn họ là giác hơi, vì nó rẻ và dễ hơn. Cách sử dụng của bọn họ cũng giống chúng ta ở châu Âu, mặc dù họ dùng quả bầu thay vì ly tách.
Họ không biết gì về giải phẫu, như tôi đã nói trước, về mổ xẻ thì biết chút ít, vô cùng hâm mộ người châu Âu chúng ta về nghệ thuật này. Với xương gãy, họ áp lên một loại cây cỏ nhất định mà họ nói sẽ chữa lành trong vòng 24 ngày, gắn chúng lại mạnh khỏe như cũ. Họ còn có phương thức khác, lấy xương khô của con gà mái, giã thành bột, làm thành cao dán, dán lên những chỗ bị ảnh hưởng, họ nói rằng đây là phương thuốc của riêng quốc gia.
Những đứa trẻ của họ là mục tiêu của những căn bệnh tắc ruột nguy hiểm, tước đi của chúng đặc quyền tự nhiên, bao gồm cả đại tiểu tiện, khiến bụng chúng trương phình lên và tính mạng của chúng nguy hiểm ngay sau đó. Phương thức điều trị của bọn họ ở đây là, nướng gián và hành, giã chúng chung với nhau, áp lên rốn của đứa trẻ, mà thường đem lại thành công.
Những người này đoan chắc rằng những con cua sẽ biến thành đá vì sức mạnh của mặt trời, và dùng chúng như một phương thuốc, trừ bệnh cảm sốt và kiết lị. Hơn nữa, họ lấy bên bờ biển một loại sò, giã thành bột, uống khi đau bụng.