Đánh tan đoàn quân Chiêm Thượng ở Dã Dương, Cai cơ Nguyễn Thắng Hổ lập tức dẫn quân trở về Phan Rang. Đoàn quân này thậm chí không hạ trại nghỉ ngơi, chỉ có đoàn thuyền từ Phố Hài đi dọc theo ven biển tiếp tế cho họ.
Nhóm quân của Nguyễn Thắng Hổ về bao vây Phan Rang hầu như cùng lúc với những người từ Dã Dương đến báo tin. Nghe tin, Quảng Phú ra lệnh rút quân vào trong núi, nhưng những trạm lũy chặn đường Nam Hà vẫn chưa được triệt phá. Quân Nguyễn Thắng Hổ liền đóng ở phía Đông Nam ven dòng sông Lũy, hợp sức cùng quân Nam Hà và người của Kế Bà Tử đã tỏa đi trước đó bao vây Phan Rang vòng trong vòng ngoài, cắt đứt chi viện cho Phố Hài.
Quân Nguyễn Thắng Hổ đã tới quá nhanh, Quảng Phú cùng Chế Vinh chỉ kịp phát lệnh rút quân vào núi, mọi sắp xếp đều trở nên hỗn loạn cập rập. E ngại Nam Hà tấn công cấp kỳ, quân Chiêm Thành bố trí lại chiến lũy phòng thủ ngay trong đêm. Từ đỉnh núi nhìn xuống, ánh lửa thấp thoáng trong khu rừng như ngàn con đom đóm đỏ.
Mây chợt ùn ùn kéo đến che phủ bầu trời, gió mạnh thổi đất bụi cùng sương bay rào rào. Bầu trời đỏ quạch màu đồng tối tăm như đổ ập xuống rừng tối đen ngòm. Rừng núi vặn mình vang động trong đêm, át đi hầu như tất cả thanh âm lọt vào trong nó.
Nửa đêm, tiếng sáo bỗng cất lên trên đỉnh núi. Theo gió bay đi, theo bụi cuốn tròn, theo thanh âm của rừng mà vang vọng. Trầm sâu như bóng tối, cuồn cuộn như bão gió, lại lạnh buốt tựa khí núi xông mây.
Chợt nhanh chợt chậm, tiếng sáo không theo một nhịp điệu nào, dần dà khiến lòng người nghe được cũng phải đâm hỗn loạn. Từng âm từng tiếng rõ ràng vang vọng, không cao chẳng thấp, nhưng sắc lạnh tựa dao đâm, xoáy sâu cồn cào như vực xoáy. Tiếng sáo thoáng nghe qua có vẻ bình hòa, chỉ một lúc đã thấy tâm tư rối loạn.
Nhưng đôi mắt hắn chỉ dõi vào bầu trời tràn mây đỏ, trong sáng tĩnh lặng, phản chiếu bóng đêm vô tận mịt mù. Trong gió, mái tóc rối tuột khỏi dây buộc bay tán loạn, sợi dây điều của sáo bay quấn quanh cổ tay hắn, hắn cũng chẳng nhận ra.
Theo gió, mùi hương thoang thoảng phả vào khứu giác hắn. Trên thân sáo lưu hương chưa nhạt, có lẽ cả hơi ấm của nàng vẫn còn quyến luyến chưa tan hết.
Nàng đã đem cây sáo trả lại hắn, thông qua bọn người Xuân Tử. Chiều tối này bọn họ vừa mới tới nơi, vẻ lo lắng pha lẫn giận dữ vẫn còn in hằn trên khuôn mặt. Tiểu thư lại tự tiện hành xử vô lý, Xuân Tử vốn điềm tĩnh nhu hòa cũng phải cất tiếng than phiền. Cô ấy lừa mỗi người chúng tôi đi một hướng, rồi đưa Ngô Lãng tẩu thoát.
Tiểu thư để lại thứ này trong hành lý, Xuân Tử nói, đưa cây sáo cho hắn, giọng thoáng vẻ áy náy. Ngừng lời một thoáng, như thể không kềm giữ được, cô thở dài. Tiểu thư đang không khỏe, đêm trước đứng còn không vững, giờ đi theo Ngô Lãng nơi rừng thiêng nước độc, bị người săn đuổi, nguy hiểm trùng trùng, chẳng biết có trụ được không?
Bọn họ sẽ không nương tay đâu. Lão Tứ lắc đầu nói tiếp. Ngay cả Bát tuyệt cũng đã vô cùng phẫn nộ. Đây là lần thứ hai tiểu thư thả người bất chấp hậu quả, bọn họ coi như mình bị lừa. E rằng tiểu thư còn gặp nguy hiểm hơn Ngô Lãng.
Nói với hắn tình hình sơ lược xong, nhóm người này nhanh chóng rời đi để lần trở lại đường cũ tìm tung tích Như Yên. Vừa lúc đó, Quảng Phú cuống quýt chạy về báo quân Nam Hà đã dàn hàng vây toàn bộ Phan Rang.
Trong ruột sáo nhét một mảnh giấy viết vội mấy chữ “Ta sẽ đưa y về, đừng lo”. Nét cuối của chữ cuối lẹm một đường ra biên giấy, như thể nàng đã vội vã giấu nó đi.
Hắn nghĩ, Ngô Lãng sẽ tìm tới nơi này, chiến địa cuối cùng của quân Chiêm Thành. Nhưng với điều kiện, y còn đủ sức.
Như Yên liệu còn có thể trụ được một chặng đường vất vả hung hiểm dường ấy?
Hắn chỉ muốn đi theo bọn người Xuân Tử mà lùng tìm bọn họ. Nhưng nếu nơi này vỡ trận trước khi Ngô Lãng tới, y sẽ lại biến mất. Hắn biết tìm bọn họ ở đâu giữa rừng? Chiến địa này là niềm hy vọng cuối cùng để hắn bám trụ.
Trận chiến này cũng là niềm hy vọng cuối cùng của quân Chiêm Thành lẫn Nam Hà.
Quân ở Thượng Dã bị phá vỡ, nhưng Oc-nha That đã nhanh chóng di tản bọn họ lên núi cao, Ngô Lãng cũng đã biến mất, quân Nam Hà chỉ thu được thắng lợi nửa vời trên danh nghĩa. Mọi hy vọng lập lại uy phong hay trấn áp vùng đất này chỉ còn thu được ở đây. Nên Nguyễn Thắng Hổ không thể chậm trễ thêm một thời khắc nào. Sự giận dữ của đoàn quân này đã được thổi bùng lên như bão lửa.
Đáp lại, quân Chiêm Thành sẽ chống cự quyết liệt. Chẳng phải chỉ vì những hoàng thân quốc thích quyết tử ở đây, mà còn vì Quảng Phú. Gã hăng hái thúc đẩy quân binh đi tới, bất chấp hậu quả. Vả lại, gã cũng chẳng quan tâm tới ‘hậu quả’ của những người này, những kẻ mà gã coi như công cụ.
Được đốt cháy bởi những lời động viên liều lĩnh và lý tưởng hào hùng vong mạng, bọn họ sẽ có thể làm tất cả. Ngoại trừ chiến thắng. Có hề gì, kẻ như Quảng Phú chỉ quan tâm đến kết quả cho gã. Đẩy quân Chiêm Thành xông lên, buộc Nam Hà phải trừ diệt cho bằng hết những kẻ không chịu khuất phục, và khiến cả hai căm thù nhau đến tận cốt tủy, thổi bùng lên ngọn lửa oán hận không tan. Người ngã xuống sẽ là máu tế cho vị thần chiến tranh mà gã đang ôm trong mộng tưởng.
Sự việc có lẽ đã phát triển ngoài tầm Ngô Lãng lường tới khi trước. Hoặc cũng có thể ngay cả sự xuất hiện của Quảng Phú đã nằm trong kế hoạch của y. Dùng máu để đốt lửa chiến tranh và đẩy tất cả trách nhiệm cho Quảng Phú, cuộc chiến này dù thắng hay thua thì cũng chẳng bao giờ kết thúc.
Tiếng sáo chợt khàn đi, im bặt. Hắn cau mày, buông cây sáo xuống bên hông. Dưới chân núi, lửa đốt trong phong hỏa đài bập bùng cháy sáng làm hiệu cho các nhóm quân di chuyển. Thấy ánh lửa tụ lại ngày càng nhiều dưới chân núi, hắn liền đi xuống nơi ấy. Quảng Phú đang gọi người tập hợp, vẻ nôn nóng khó giấu trên gương mặt.
“Định làm gì thế?” Nhìn quanh khu đất trống lố nhố người, hắn hỏi Quảng Phú. Hầu như tất cả người nơi đây đều mang theo vũ khí, nai nịt gọn gàng, vẻ nghiêm túc ngưng trọng trên mày mắt. Phía xa xa, ngựa và voi đã được đem tới, cũng đang bồn chồn di chuyển.
“Ta vòng qua sau sông Lũy, tấn công Nam Hà ngay đêm nay.” Quảng Phú nhìn lướt qua hắn, chỉ tay. “Quân Nam Hà vừa đến, lại đã trải qua một thời gian dài ở Dã Dương, hẳn chỉ giương nanh múa vuốt thị uy thế thôi chứ mệt đứt hơi đi rồi. Tấn công là cách phòng thủ tốt nhất, cứ đến thăm dò thử, được thì đánh cho chúng một trận thất điên bát đảo, không thì rút về xem xét tình hình sau.”
“Ngươi định đi ra làm bia cho đạn pháo Nam Hà?” Hắn nhíu mày, không thể tin được sự liều lĩnh của Quảng Phú. “Ven sông Lũy là căn cứ Chiêm Thành xưa, nay Nam Hà tới chiếm đóng, thành lũy vững chắc, đạn pháo đầy đủ, chỉ cần vài chục quân tỉnh táo canh pháo cũng đủ đẩy lui các người…”
“Nên ta mới chỉ dùng có chừng này người, tấn công bất ngờ. Áp sát vào rồi phóng hỏa, pháo chỉ còn nước bắn lên trời.” Quảng Phú nôn nóng phẩy tay. “Ngày trước Ngô Lãng dùng vài kế vặt mà đem bọn người Thượng phá từ Phố Hài đến Phan Rang, quân Nam Hà im thin thít trong thành lũy không dám ra cự chiến. Ngươi đừng nhìn trước ngó sau, cái gì cũng sợ thế chứ.”
Rồi y bị đánh lui trở về Thượng Dã, hắn nghĩ thầm nhưng không nói ra. Quảng Phú không giống như Ngô Lãng lúc ấy, việc thắng thua thành bại của toán quân này chẳng khiến gã bận tâm, có nói cũng vô ích. Hắn thì chẳng biết tiếng Chiêm Thành để trao đổi, bàn luận với Chế Vinh, bọn họ cũng tỏ vẻ không tin tưởng hắn, tránh né hắn hết mức có thể.
Chế Vinh đã cất tiếng gọi trên bành voi. Người tụ tập trong sân lần lượt lên voi ngựa rời khỏi. Hắn quay người đi lên núi, nhưng không đến doanh trại của Quảng Phú mà vòng ra sau lưng núi, đến một hang đá lớn. Vén dây leo rậm rịt che cửa hang, ánh lửa bập bùng đã soi ra, chiếu sáng người phụ nữ trong hang.
“Lê phu nhân.” Hắn gật đầu chào. Lê Anh cất tiếng chào đáp lễ, ngước mắt nhìn hắn đến ngồi bên đống lửa. Hắn thấy sự lo lắng hằn rõ giữa đôi mày bà. Không đợi Lê Anh hỏi, hắn nói ngay. “Quảng Phú đã cho người đến đánh úp doanh trại Nam Hà ở sông Lũy rồi.”
“Thắng hay thua, Nam Hà cũng bị chọc tức điên lên thôi.” Nhè nhẹ thở ra, hắn gật đầu. “Dù Quảng Phú có giành được lợi thế bây giờ, quân Nam Hà từ Bình Khang lẫn Bà Rịa sẽ đến ngay thôi. Người thám thính của tôi báo, quân Bình Khang đã có nhiều động thái bất thường. Có thể họ sẽ xuyên qua Thượng đạo đánh xuống, hoặc xuống thuyền từ biển đánh vào. Dã Dương đã bị phá, Nam Hà có phải san bằng nơi này thì một trận pháo cũng xong.”
“Bọn họ chẳng nghe đâu.” Lê Anh chớp mắt, nhìn xuống đám lửa, nét thất vọng pha lẫn giận dữ hằn trong mắt. “Tên Quảng Phú kia kích động bọn họ một sống hai chết, liều lĩnh mà giết hết tất cả mới thôi.”
Hắn im lặng, đưa mắt nhìn quanh. Lê Anh đến đây nhưng không tiện truyền thông báo ra ngoài, cũng chẳng còn bao nhiêu tiếng nói với các võ tướng trong quân Chiêm Thành. Họ vốn đã mang thái độ chẳng mặn chẳng nhạt với vị công nữ mang nửa dòng máu ngoại bang, sau sự thất bại của Lê Anh ở Dã Dương thì càng tỏ vẻ bất phục. Lê Anh không ở chung quân doanh với bọn Quảng Phú mà rời ra đây, cũng là để tránh mâu thuẫn ngày càng lớn hơn.
“Kỳ đâu rồi?” Một lúc sau, hắn hỏi. Lê Anh nhìn nhanh qua hắn, cân nhắc rồi mới trả lời.
“Anh ta vừa gặp thuộc hạ của Như Yên, liền thu xếp hành lý đi ngay rồi. Dù sao nơi đây canh phòng gắt gao, Kỳ không đi lại được, anh ta cũng chỉ muốn rời khỏi thôi.”
Hắn chỉ gật đầu. Nghe tin tức ấy, Kỳ lại chẳng đâm chột dạ, nghĩ rằng mình bị Như Yên lừa? Nhưng anh ta không có ở đây thì lại tiện cho hắn hơn.
“Có bao nhiêu người trong Cửu Tinh Tú và Bát Hộ Thần nghe lời phu nhân?” Dù sao, chẳng phải tất cả đều nghe theo Quảng Phú. Đối với sự liều mạng của gã, vài người còn tỉnh táo suy nghĩ vẫn đem lòng e ngại.
“Còn chừng một nửa.” Lê Anh thận trọng đáp. Hắn gật đầu.
“Phu nhân cho gọi bọn họ cùng tất cả người mà bọn họ quản lý, chúng ta đi làm việc thôi.” Hắn đứng lên, nhìn qua mành dây leo dày đến bầu trời đỏ quạch bên ngoài. “Đêm nay Quảng Phú còn phải lo việc, người ở khắp nơi chạy quanh, chẳng để ý đến đâu.”
Hắn nói, không giấu được sự nôn nóng, không đợi Lê Anh đáp đã đi ra cửa hang. Tin báo về quân Bình Khang đã tới từ nhiều ngày trước, có thể toán quân ấy đã áp sát Phan Rang.
Lê Anh cất tiếng gọi hắn lại. Bà lấy trong hốc đá của hang ra một bọc vải dài, đưa tới cho hắn. Mảnh vải bên ngoài vừa hé, ánh xanh lạnh buốt đã tỏa ra như đâm vào mắt.
“Thanh đao này có người đem tới cho ta.” Thấy vẻ mặt hắn, Lê Anh giải thích. Bà ngập ngừng một thoáng. “Ngô Lãng hiện đang mất tích, thanh đao này người Chiêm vừa kính vừa sợ, anh cầm nó có khi khiến bọn họ nghe lời.”
Hắn nhìn Lê Anh hồi lâu, rồi đưa tay nhận thanh đao. Cái lạnh của thép xuyên qua lớp vải vào lòng bàn tay hắn.
Không chỉ người Chiêm Thành mà cả Nam Hà cũng e sợ thanh đao này và kẻ từng cầm nó. Có nó trong tay, hắn thêm được một ít sức mạnh – và có thể, cả định mệnh mà Ngô Lãng từng trải qua.
Định mệnh, cũng đến lúc phải kết thúc.
Đêm sâu mù mịt trong màn mây cùng sương dày, cát bay rào rào như một cơn mưa. Doanh trại Nam Hà bên dòng sông Lũy im ắng. Từ khi Chiêm Thành thua trận mất Panduranga, triều đình phải rời khỏi Thành Lũy, Nam Hà đã xây một lũy đất dài ở bờ Đông hợp cùng thành cũ để canh phòng. Trong lũy, nhà đất nhấp nhô, cách quãng lại dựng đài cao. Gió đêm ù ù thổi, lửa trong đài leo lắt chớp tắt, mơ hồ giữa làn sương.
Âm thầm, những bóng đen chợt trồi lên từ dưới dòng sông, tiếp cận lũy, bám vào tường lũy mà trèo lên thành cao. Nhờ đêm tối vần vũ che giấu, chưa tới chục người lần mò lên những trụ pháo nhìn ra sông, hạ sát người lính canh. Thấy hòm đạn pháo cạnh đó, họ nhét đạn vào pháo, bắn ra dòng sông.
Tiếng pháo nổ đánh thức toàn bộ người trong lũy. Nhóm người kia ngay lập tức chuồi khỏi đài canh, lẩn vào những ngõ ngách sát chân tường của thành. Lính Nam Hà khua chiêng gióng trống chạy lên thành, lại không thấy một bóng người. Nhân lúc rối loạn, nhóm đột nhập trà trộn vào doanh trại, ném đuốc vào trong. Lửa đột ngột bùng lên, bắt lấy gỗ, rơm, rạ mà bốc cao ngùn ngụt trong gió thốc. Quân trong thành vừa chạy ra lại thấy bên trong phát hỏa, vội chạy trở vào. Bối rối hoảng hốt, họ không nhận ra một toán quân khác đã âm thầm tiến sát cửa lũy.
Tiếng bộc phá nổ vang trời, hất bay cửa lũy gỗ. Khói còn chưa tan hết, tiếng reo hò đã vang động. Từ ba phía rừng, voi ngựa cùng quân Chiêm xông ra, hợp cùng toán quân đã phá cửa thành, toan tấn công vào lũy.
Bên kia sông chợt nghe ba tiếng pháo hiệu nổ. Không một lời báo trước, đại pháo nổ ngay sau đó, bắn về phía bờ sông bên kia. Quân Nam Hà đã đắp đất và cát, phủ thêm ít lá cây để che giấu những khẩu pháo bên bờ Bắc. Quân trong lũy thu vào sau những tường thành cao để che đỡ pháo, trong khi quân tấn công bên ngoài hốt hoảng thối lui.
Từ thượng nguồn sông Lũy, hàng trăm bè nhỏ đắp lá chở quân tướng Nam Hà tràn xuống. Pháo vừa ngừng, voi ngựa trong thành đã được thả ra cho toán quân vừa tới truy đuổi nhóm tấn công. Biết đã gặp mai phục, quân Chiêm Thành vội vã bỏ chạy về trong núi. Quân Nam Hà không buông tha, đuổi theo sát gót, tên đạn bắn như vãi trấu theo. Thấy chỉ huy của quân Chiêm ngồi trên bành voi, tướng Nam Hà ra lệnh truy kích. Càng chạy, quân Chiêm càng phân tán ra gần hết, chỉ có nhóm quân Nam Hà đuổi theo Chế Vinh càng lúc càng gần.
Chế Vinh ngoảnh đầu lại, thấy quân Nam Hà chỉ còn cách vài chục trượng, trong khi quân lính xung quanh đã tản mát hết. Voi ngựa Nam Hà chạy lên trước, chặn đầu voi viên tướng Chiêm Thành. Gươm giáo sáng ngời, ngà voi nhọn hoắt, tên đạn sẵn sàng, cùng lúc chỉ về phía Chế Vinh.
Tướng lĩnh quản đường Thượng đạo của Chiêm Thành bị bắt gọn trong tay Nam Hà.
Đến sáng, tàn quân mới chạy về báo cho Quảng Phú. Còn đang bối rối, nhóm quân canh phía Bắc cũng gửi cấp báo về: Quân Nam Hà do đích thân Trấn thủ Bình Khang Nguyễn Hữu Kính chỉ huy đã xuất hiện ở núi Chúa.
Cả hai nhóm quân Nam Hà hợp thành gọng kềm Nam Bắc, đánh vào vùng núi Phan Rang.
Nghe tin báo, Quảng Phú thấy trong người phát lạnh. Gã đã nghĩ quân Bình Khang sẽ tới, nhưng chỉ trong trường hợp nguy cấp. Chẳng biết bằng cách nào, Nguyễn Hữu Kính đưa quân xuất hiện ở Panduranga, gần như cùng lúc với Nguyễn Thắng Hổ. Bọn họ đã lên kế hoạch trước, thần tốc đánh ngược từ Dã Dương lên Phan Rang, quyết diệt gọn quân Chiêm ‘phản loạn’.
Có thể nào… Họ đã lường trước việc Ngô Lãng mất tích, quân Chiêm không tan ngay tức khắc mà tụ về mưu toan lật ngược thế cờ, nên mới định một mẻ bắt sạch?
Với quân của Nguyễn Thắng Hổ, còn có thể tạm thời cầm cự. Nay quân của dinh Bình Khang kéo đến, hầu như không còn hy vọng thắng. Dù có là thần thánh trên trời cũng không đấu được với đại pháo và thuốc nổ.
“Gọi người…” Toan cho lệnh tất cả triệt thoái vào rừng, Quảng Phú bỗng quay đầu nhìn quanh. “Mạc công tử đâu rồi?”
“Đêm qua Mạc công tử đã gọi một số người đi đâu không rõ.” Vayu trong Hộ Thần cẩn trọng trả lời. Bọn họ vốn biết hắn không tán thành cuộc tấn công này lẫn đường hướng Quảng Phú vạch ra, lúc quan trọng thì hắn lại chẳng nói lời nào mà biến mất. Bây giờ, bọn họ đâm nghi ngờ hắn đã lường trước mà cao chạy xa bay.
Quảng Phú cau mày. Bất chợt gã đổi giọng.
“Gọi người củng cố phòng thủ, nhất quyết không để sơ suất. Nam Hà có giỏi thì đốt rừng phá núi mà đánh vào!” Quảng Phú hùng hồn nói lớn, vung tay sang bên. “Rừng của chúng ta là giang sơn của chúng ta. Đợi Oc-nha That ổn định lại Thượng Dã, đánh vào Phố Hài xem Nam Hà còn chạy quanh được đến bao giờ. Nguyễn Hữu Oai còn bị giết ngay tại trận, xem Nguyễn Hữu Kính hùng hổ được bao lâu.”
Chỉ cần chúng chui đầu vào rừng thì sẽ trở thành mồi nhắm cho chúng ta, Quảng Phú vẫn sang sảng nói. Nhớ đến Ngô Lãng một tay giết ba trọng tướng Nam Hà, thủ trong rừng suốt ba tháng trời, người quanh gã được trấn an, phấn chấn tinh thần hơn chút ít mà đi làm việc theo lệnh gã.
Sợ cái gì? Quảng Phú nói nốt theo sau Hộ Thần đã rời khỏi lán. Gã buông tay vung vẩy trên không xuống, thở phì.
Dù thắng hay thua, cái nhất quyết không thể để mất là sĩ khí.
Những lão cáo già phương Bắc quả nhiên nhìn xa trông rộng. Dù thắng hay thua, dù chết hay sống hay có bao nhiêu người chết, chỉ cần sĩ khí còn thì sẽ có cơ hội lật ngược thế cờ. Vài chục năm hay thậm chí cả ngàn năm, xác chết, máu đỏ và oán thù sẽ kết tụ dần dần, chỉ chờ đến lúc để bùng phát. Người có mạnh có yếu, thời có suy có thịnh, lớp người sau thay thế người trước, chỉ cần không mất tinh thần thì sẽ đợi được.
Thứ tinh thần được tạo bởi xác chết, máu đỏ và oán thù. Bằng vô số, vô số con người.
Nếu như tất cả kẻ nơi này phải trả giá cho điều đó, thì đã sao? Đằng nào bọn họ cũng đã chọn con đường này, cũng chẳng có thể trở lại. Nếu sống sót sau thất bại, họ cũng chỉ còn đường chạy lên núi, chạy sang lân bang, tiếp tục kiếp sống vất vưởng. Nếu vậy thì họ chết tốt hơn. Tất cả cùng chết, cho tinh thần kia sáng mãi.
Cảm giác gai gai người như một cơn hứng khởi trào dâng, niềm thích thú vô hạn khiến gã cũng phải đâm ngây ngất với ý nghĩ của mình.
Tuyệt đẹp, cái cảnh bao nhiêu con người lao vào chỗ chết thật là tuyệt đẹp. Như một áng thơ, lời hát hùng hồn vang vọng. Như một đàn thiêu thân lao vào lửa, mù lòa điên dại. Anh hùng ca được viết bằng máu đỏ và mạng người.
Chỉ có điều, những kẻ viết ra nó, tạo thành nó thì chẳng bao giờ ở trong đám đông ấy. Gã còn phải sống, vì lý tưởng của chính mình, để chinh phục những đỉnh cao hơn, cao hơn nữa. Để viết lên những khúc ca bằng máu đỏ ngợi ca chiến thắng và cái chết.
Làm vương thì không được nóng vội, kẻ kia nói. Cái kẻ xuất thân con buôn toan tính đủ đường ấy không hiểu còn có một cách khác để xây dựng ‘nền tảng’ cho mình: Oán thù và rối loạn. Chỉ cần gieo hạt mầm ấy nơi nơi, và chờ đợi mùa thu hoạch. Những lúc như thế này là thích hợp nhất, quẫn bách và hoảng loạn, người ta chẳng thể suy nghĩ nhiều, vớ ngay lấy phương pháp khả dụng duy nhất, dễ dàng bị thao túng. Và dễ dàng mù quáng oán hận.
Chỉ cần đẩy thêm một ngón tay vào đó. Đốt cháy bùng ngọn lửa.
Khúc anh hùng ca, khúc tráng ca, khúc bi ca lộng lẫy đốt cháy lòng người. Trong oán thù tột độ. Trong nỗi hận truyền đời.
Mỗi sự thất bại cần có một vẻ đẹp để nuôi dưỡng cái đã chết – không chết.
Lịch sử hít thở khí của những xác chết, được điều khiển bằng sự mù lòa – Trong những toan tính tột bậc của kẻ-không-chết.
Nếu thất bại, hãy lấy máu để luyện thành thanh đao kiếm sắc bén nhất thế gian. Có nó, gã sẽ mang theo sức mạnh vô địch.
Nếu thất bại, hãy để thế giới này trở thành lò luyện ngục.