“Ngày xưa, đất phương Bắc chia làm nhiều quốc gia. Trong đó, ở phía Nam có hai nước là Ngô và Việt, chếch lên là Sở. Nước Ngô muốn đánh Sở, mời được một vị quân sư thiên tài mà tên tuổi còn đến ngày nay là Tôn Tử. Nhờ có binh pháp Tôn Tử, nước Ngô trở thành bá chủ của phương Nam một thời, khiến cả những đất nước phía Bắc cũng phải kiêng dè. Không may, Tôn Tử rời khỏi nước Ngô, nhà vua vì chủ quan nên sa bẫy của nước Việt, thua trận, bị thương mà vong mệnh. Tuy vậy, nước Ngô với quân đội và trận pháp Tôn Tử để lại vẫn mạnh mẽ, bắt nước Việt phải khuất phục ngay sau đó. Để trả thù, vua Ngô bắt vua Việt về làm chăn ngựa. Trải qua trăm cay ngàn đắng, vua Việt mới có thể trở về nước cũ, âm thầm xây dựng kế hoạch trả thù.
“Một viên quan của nước Việt liền tiến cử cho nhà vua vị kiếm sĩ vang danh đã lâu: Một cô gái sống trong rừng núi Nam Lâm. Cô gái ấy đánh thắng thần rừng, dùng cành trúc đánh hạ đao thương của ba quân, là kỳ tài kiếm thuật không bao giờ còn xuất hiện trên cõi thế. Quân đội nước Ngô mạnh mẽ thiện chiến, kỷ luật, có trận pháp vô song – Nước Việt liền dùng một cô gái như thế để huấn luyện quân đội, dùng tài năng của mỗi cá nhân để phá đi sức mạnh của tổng trận.
“Đó là thời xưa, rất xưa rồi. Tôn Tử là nhà binh pháp đầu tiên trong lịch sử. Và đối đầu, cùng chiến thắng ông, là xử nữ ở Nam Lâm.
“Điều đó không ai nhắc tới, vì họ không bao giờ trực tiếp đối đầu với nhau, chỉ có quân đội của họ, những gì mà họ để lại. Tôn Tử còn có sách vở truyền đến đời sau, còn Nam Lâm xử nữ nọ đã rời khỏi quân đội nước Việt từ rất sớm. Không ai biết cô ấy đã truyền dạy những gì cho quân lính Việt, cũng chẳng còn lại một dấu tích nào. Nhiều người bảo, đó hoàn toàn là câu chuyện hoang đường do vua quan nước Việt tạo ra, hay người đời sau thêm vào.
“Một cô gái sống trong rừng núi, đánh thắng thần linh, lấy cành trúc đánh lui ba quân tướng sĩ, rồi lại hoàn toàn biến mất. Câu chuyện như thế chẳng phải quá hoang đường rồi sao?
“Rồi sau này, có người nói với tôi, đó là vì cô ấy không tồn tại được. Tâm linh cô ấy vốn thuần khiết như thú hoang, như núi rừng, vô ưu vô lo. Rời khỏi rừng, tiếp xúc với con người, cô ấy bị hủy hoại. Không phải cô ấy đã bỏ đi, mà là không tồn tại nữa.”
Hắn ném cọng cỏ trên tay xuống suối, không đừng được mà thở dài. Vayu vẫn cầm con cá mà hắn đã chia cho anh ta, vẻ mặt nửa trầm tư nửa bối rối khi không hiểu câu chuyện hắn vừa kể có ý nghĩa gì. Ăn hết phần cá của bữa trưa, hắn nằm xuống thảm cỏ, ánh mắt mơ màng hướng đến cây mai bên dòng nước. Đưa mắt nhìn lại Vayu, hắn mỉm cười.
“Lão Đại, à, Ngô Lãng hay A Ban gì đó, sức khỏe ổn chứ?” Ngừng một thoáng, hắn nói thêm. “Y có còn bị thương nữa không?”
“Vết thương cơ bản đã lành rồi.” Vayu gật gật đầu. Trò chuyện một lúc, anh ta có vẻ coi hắn là người cùng thuyền nên cởi mở với hắn hơn. “Dạo này tướng quân tĩnh tâm tu luyện, không có biểu hiện gì đáng ngại.”
Ồ, hắn chỉ cười, lại quay đầu nhìn ra xa. Nếu quả thật như Dao Luật nói, y có thời gian muốn tiếp cận với Như Yên, hay thực sự đã làm điều đó, chứng tỏ y đã khống chế, vượt qua được trở ngại khó khăn nhất của Vô Âm đao. Hắn không rõ tình trạng gì sẽ xảy ra sau đó, nhưng nếu y có thể tiếp tục sống trơ trơ như một tảng đá biết đi thì đó là biểu hiện trái ngược hẳn với nghĩa ‘bình thường’.
Chiều tối hôm ấy, Oc-nha That quả có trở về, nhưng chỉ được báo miệng cho hắn bởi một người trong đội Hộ Thần. Ông ta nói chuyện với Ngô Lãng trước, và quyết định không đến gặp hắn. Vayu vẫn được cắt ở lại canh giữ hắn. Bọn họ không bảo hắn rời đi, cũng chẳng ra tay thúc ép, coi như thể đã bày tỏ xong thái độ của mình. Hắn vẫn bình thản bắt cá dưới suối làm bữa tối, đến đêm thì trải áo khoác ra nằm ngủ. Chờ đến khi Vayu cũng đã gà gật tựa đầu vào gốc cây bên cạnh ngủ gật, hắn liền bắn cho anh ta một mũi kim thuốc mê. Bỏ mấy cành cây cùng cỏ đất vào áo khoác giả như người nằm bên dưới, hắn dựa vào bóng tối mà lần đi. Không muốn xâm nhập vào khu đất để đánh động người, hắn men theo dòng nước, đạp chân lên bờ đá trơn nhẵn mà đi.
Dòng suối không chảy vào trung tâm khu đất, chỉ lượn sát mạn đồi. Đến dưới đồi, hắn với tay chụp lấy cành cây là đà ngả xuống, thuận đà nhảy lên rồi lại chuyền cành mà đi. Nhưng khu đồi cũng có ít cổ thụ, chỉ mọc toàn mai thân gầy cành giòn. Hắn dừng chân trên cành, nép vào bóng cây lòa xòa, dõi mắt vào bên trong.
Giữa đồi quả có vài căn nhà gỗ, có lẽ chỉ là chỗ ở của vài chục người, có lác đác vài bóng người trước cửa. Quan sát một lúc, hắn nhẹ nhàng lùi về dưới đồi, đến bên dòng nước. Cúi đầu nhìn trăng soi trên nước chảy hồi lâu, hắn quyết định tiếp tục men theo bờ đá mà đi. Đầu dòng suối có hai nhánh nước đổ vào, một chảy xuyên qua rừng, một đổ xuống từ núi. Hắn ngẩng đầu nghiêng ngóng, xác định phương hướng của mùi hoa, rồi quyết định trèo lên núi.
Rừng già sâu thẳm, không chỉ có hương hoa mai mà còn phảng phất mùi ngọt ngào của lan rừng, những loài hoa đêm càng nồng nàn hơn dưới trăng. Vị của cỏ, nước, rừng và muôn loài hoa ngày càng dày hơn theo bước chân của hắn. Mùa khô, lá rừng rụng nhiều, rơi lao xao trong đêm. Cây lá đan kín cản bước chân người, quấn lấy áo giày. Tiếng suối róc rách chảy dường như là tiếng động duy nhất trong mảnh rừng yên ắng tới mức lạ thường.
Khiến hắn đã nghĩ, dù hắn vô tình đá phải một lùm cây khiến nó rung lên bần bật, cũng chẳng khác gì thanh âm của một con dơi vừa bay qua.
Căn nhà đột nhiên xuất hiện phía trước quả tình khiến hắn hơi giật mình, đá phải một lùm cây nhỏ. Mấy con côn trùng nấp trong bụi nhảy ra tanh tách, đom đóm bay loạn cùng với đám muỗi cỏ, có con bay đập vào mặt hắn. Không để ý đến bọn chúng, hắn ngẩn người nhìn căn nhà trước mắt, lại như có vẻ không ngạc nhiên.
Không có khoảng ngăn giữa nhà và rừng, căn nhà bên bờ suối dường lấy cây làm cột chống, đá làm nền tảng. Dòng nước cong cong uốn mình lượn quanh nhà, gần như bị phủ che dưới cỏ. Cỏ mọc thành dây quấn quýt buộc lấy nhau, lan trên nền rừng, bò lên tường nhà. Mái nhà xuôi xuôi nép dưới bóng cây, tầm gửi mọc tràn. Cành, dây, lá từ rừng vươn lấy, quấn quanh căn nhà, dường lấp nó dưới thảm xanh. Hoa điểm li ti trong cỏ, nở bung trên cây, đung đưa dưới bóng trăng, thò cả vào bệ cửa.
Dù chỉ là một căn nhà gỗ rất đơn sơ, nó lại gợi nhắc cho hắn đến một hình ảnh khác. Hắn không ngạc nhiên, vì đã mơ hồ nhận ra hương hoa trong khu rừng bên ngoài. Mùi hương của bóng tối, màn đêm, rừng sâu và nước thẳm, lọc qua bởi gió và thời gian, phảng phất như một giấc mơ nặng trĩu trong lồng ngực.
Hắn đã thầm nghĩ y sẽ không ở lại trong khu rừng mai nọ, vì không thích hợp. Y không thích hợp với loài hoa phương Nam rực rỡ này, cũng sẽ chẳng muốn ở lại. Cũng giống Như Yên đã đốt đi Mai Lâm viện.
Hoa mai đã nở rực mùa xuân năm ấy, giữa những lối trúc quanh quanh. Hoa nở như mây, rồi tan vào bầu trời không còn vết tích. Một loại ký ức như ánh nắng, chói chang xuyên thấu vào đáy mắt đến rơi lệ, rồi khiến người khó chịu.
Có một loại ký ức khác, sâu thẳm hơn, đau đớn hơn, lại khiến người chìm sâu.
Nằm dưới bóng xanh, đắm chìm trong hương hoa, cảm thấy mình không còn tồn tại. Một ngày nào đó, Như Yên đã nói, thì thầm nói bằng giọng như tiếng nước chảy. Lịm đi, trong hương hoa nồng lấp cả các giác quan, sẽ không cảm thấy sợ hãi cùng lo lắng.
Người trong nhà có thể lầm lẫn không nhận ra tiếng cây động, nhưng khó mà bỏ qua tiếng thở dài.
Tuy vậy, phản ứng của kẻ trong nhà không giống như hắn từng nghĩ.
Chỉ nghe tiếng gió xạc xào lay động, bên cổ hắn chợt thấy tê lâm râm như bị một con sâu lông chạm phải. Một lúc sau, cánh cửa của căn nhà kia kẽo kẹt mở, một thân ảnh thấp bé chậm chạp đi ra ngoài, vẫn nửa nép vào sau cửa mà nhìn về phía hắn.
“Tước.” Hắn nhẹ nhàng lên tiếng, đã gần như ngay lập tức nhận ra gã. Trong cửa, Tước giật mình, đẩy cánh cửa kêu càng to hơn. Gã bước hẳn ra ngoài, nhưng đứng yên tại chỗ mà nhìn hắn. Hắn đi lên trước, đưa mắt nhìn quanh. “Ngô Lãng đâu?”
“Bên ấy.” Tước thận trọng chỉ tay về phía Tây, vẫn nhìn hắn chằm chằm cảnh giác. Độc của gã dùng đã không có tác dụng, lúc này gã lại phân vân có nên ra tay phòng khi hắn hành động bất lợi? Vừa nghĩ tới đó, đôi mắt sáng lạnh của hắn đã hướng thẳng về phía gã.
“Có làm gì y không?” Hắn cau mày, hạ giọng. Đến lượt Tước thoáng ngạc nhiên. Rồi gã cứng nhắc cựa quậy, làm một cử chỉ nằm giữa gật với lắc đầu.
“Như Yên cô nương bảo tôi không được làm gì y… dù có chuyện gì xảy ra.” Gã nói còn nhỏ hơn cả hắn, cúi mặt nhìn xuống thảm cỏ. “Nghĩa phụ cũng bảo, làm hại y nghĩa là làm hại ông.”
“Thế thì tốt.” Hắn mỉm cười, nhìn lại căn nhà một lần nữa, nụ cười lại biến mất trên môi. “Y có thường xuyên ở đây không?”
“Vẫn ở đây.” Giọng Tước có vẻ oán giận ngấm ngầm. “Đêm nay trăng tròn, y mới rời khỏi.”
“Trăng tròn?” Hắn hỏi lại, ngẩng đầu nhìn lên. Chưa đến rằm, nhưng trăng quả thật đã sáng vằng vặc. Đêm mùa khô, bầu trời gần như không mây cho ánh trăng chiếu rọi rỡ ràng, khiến hắn hầu đã quên mất thời gian. “Sao lại phải đi lúc trăng tròn?”
Lần này, Tước mím môi.
Hồi lâu, gã vò tay vào mái tóc lù xù cáu bẩn, mặt mày nhăn nhó mà lùi lại một bước như sợ phản ứng của hắn với điều sắp được nói ra.
“Y sắp biến thành quỷ rồi.” Tước he hé mắt nhìn hắn, ngón tay lại chỉ về hướng Tây. Nuốt khan trong cổ, gã gục gặc đầu khi thấy hắn đứng yên, hầu như không một phản ứng. “Đến xem thử thì biết.”
“Tôi phải ở đây canh gác.” Vừa nói, gã vừa đi giật lùi về căn nhà. Quét mắt nhìn qua, hắn im lặng quay đi, bước về phía gã đã chỉ.
Dòng suối đến đây chạy vươn lên phía Bắc, ngáng ngang đường sang phía Tây. Hắn tìm được một khoảng suối có đá lô nhô đủ để làm điểm tựa mà đi, liền bước qua. Lạ lùng, bên này bờ suối lại có đường mòn. Hai bên đường, cây lá rậm rạp đã được phát gọn gàng để không vướng người qua lại. Nhưng phía trước con đường không có mùi vị của một ngôi làng – mùi vị của sự sống. Theo trận gió thổi đến, hắn chỉ thấy cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng, đến nổi cả gai ốc. Gió trong núi đã lạnh, khu vực này càng hoang liêu rờn rợn, một cảm giác không thể diễn tả bằng giác quan thông thường.
Hắn nhận ra nguyên do của cảm giác ấy khi nhìn thấy bóng lửa xanh lập lòe ẩn hiện sau cây – trước khi phát hiện hình người lô nhô như hiện lên từ đất.
Lửa ma trơi lập lòe cháy trong khoảng đất rộng được phát quang, cùng ánh trăng trong vắt chiếu rọi những bức tượng đủ hình đủ dạng bên cạnh những ‘ngôi nhà’ thấp lẫn cao nằm trên đất. Đốm lửa xanh nhảy múa như thể có sinh mệnh, phát hiện sự sống của một con người vừa tới liền là đà bay tụ lại phía hắn. Gió lay động đám cỏ và cây bụi, khiến những cái bóng mờ ngả nghiêng đan vào nhau. Dưới bóng trăng, mắt mũi trên gương mặt của các bức tượng trở thành lỗ đen sâu hút, cái cười, cau mày nhăn mặt đều méo mó đến quỷ dị. Những bức tượng người trong tư thế tính giao, nhảy múa, những tượng chim công ngẩng đầu như sắp bay lượn, trong thứ ánh sáng chập chờn này đều như phân tán thành mấy bóng ảnh rập rình cử động. Dưới mái tranh nứa, vài đốm lửa xanh vẫn đang thoát ra từ trong lòng đất, lập lòe cháy, in bóng người như thể có kẻ đang chuyển động giữa mảnh đất của cái chết này. Giữa núi và rừng, gió thầm thĩ như than như khóc.
Hắn hiểu ra ngay lập tức tại sao Tước không hề muốn tới nơi này. Khu nhà mồ của người Thượng so với nghĩa địa dưới xuôi quả có phần đáng sợ hơn gấp mấy lần. Trăng sáng chỉ khiến các hình ảnh chập chờn trở nên yêu dị hơn, tử khí đậm đặc tràn ngập đến đắng ngắt cả cổ họng. Không kể đến các loại ‘bùa chú’ mà người Thượng dùng để bảo vệ nhà mồ của họ, những đốm ma trơi bay lượn vòng quanh này đem tới những cái bóng trượt dài như thể với lấy kẻ xâm nhập khiến hắn cũng phải âm thầm ớn lạnh.
Nhưng nhờ những đốm lửa ma trơi, hắn nhanh chóng phát hiện ra kẻ còn sống khác trong vùng đất này. Những ánh lửa xanh tụ về góc bên kia của khu đất, sau một nhà mồ cao, chuyển động với một tốc độ nhanh dị thường. Nép vào bóng của những nhà mồ, hắn chế trụ hơi thở, nhẹ chân bước lại gần.
Cảnh tượng trước mặt lại khiến hắn một lần nữa ngẩn người.
Trước căn nhà mồ chỉ có một thanh đao lớn cắm xuống đất. Dưới hiên nhà, trên thanh đao, một cái chuông gió dài quay tròn, kêu ‘ting ting’ khe khẽ. Theo sự chuyển động của cái chuông gió, lửa ma trơi tụ tập về ngày càng nhiều, bay lượn cùng với vòng quay của chuông. Lửa xanh phản chiếu trên đao xanh càng chói mắt lạnh người. Tử khí trên thanh đao dường át cả ma trơi lẫn ánh trăng, lòe lòe cháy rực.
Hắn nhận ra thanh đao ấy, liền đưa mắt nhìn quanh. Không thấy y, hắn liền bước về phía thanh đao. Có lẽ vì sát khí lạnh buốt của nó đã hút lấy tầm mắt hắn, cũng có thể là vì tò mò, hắn bước tới, dừng chân trước thanh đao. Hắn đưa tay định chạm vào nó, chợt ngừng lại.
Có lẽ vì lầm lẫn với tiếng gió, trong tâm trí hắn vừa chợt vang âm âm một tiếng cười dài.
Hắn nắm lại những ngón tay chợt lạnh tê, vô thức mà lùi một bước.
Ngày trước, khi đem thanh đao này bôn tẩu khắp nơi, hắn chưa từng có cảm giác sợ nó. Thứ truyền thuyết quanh nó chỉ đơn thuần là truyền thuyết. Mà dù quả thật nó có linh lực, ma lực, thì cũng chỉ là một trong vô số thứ yêu ma qủy quái của vùng đất phương Nam này. Những con ma, linh hồn, quỷ dữ, và cả thần linh, người nơi đây sử dụng chúng, phong ấn và cất trữ chúng trong các linh vật, những ‘thân xác’ mà họ tạo ra. Có cả những kẻ sử dụng bùa ngãi, âm binh để chơi trò bài bạc gian lận, và hắn cũng chưa từng ngần ngại ném chúng ra khỏi cửa. Nhưng đó chỉ là những linh hồn vô hình, kẻ còn sống mới thực sự đáng sợ. Hắn không sợ hãi kẻ chết cũng như người sống, huống hồ là một thanh đao làm từ sắt y hệt như thanh kiếm mà hắn đem theo bên người?
Có thể vì cảnh tượng của khu nhà mồ này, có thể vì ánh trăng, cũng có thể chỉ vì cảm giác nôn nao sẵn có, lúc này hắn lại thấy các mạch máu của mình tê buốt đi vì sợ. Nhưng hắn không có cảm giác muốn quay đầu bỏ chạy mà cứ thế sững sờ nhìn thanh đao không thể rời mắt.
Không biết hắn đã ngẩn người bên thanh đao bao lâu, toàn bộ sự chú ý của hắn đã bị nó hút lấy đến mức không nhận ra người đã bước đến phía sau. Khi y cất tiếng, chỉ cách hắn chừng ba bước chân, hắn đã giật mình đẩy tay, hất thanh đao ngã ra trên đất.
“Đừng chạm vào nó.” Phía sau hắn, y nhẹ nhàng nói. Câu tiếp theo của y lại khiến hắn ngạc nhiên. “Nó hấp thụ sát khí đủ rồi.”
“Thứ này sát nghiệp quá nặng, ta mới phải đưa nó đến đây để hấp thu tử khí, hạ bớt ý muốn giết chóc.” Y đi vòng qua hắn, không nhặt thanh đao lên mà đến ngồi dưới cái chuông gió, phẩy tay áo đuổi đám ma trơi đang bay vòng. Ánh lửa xanh thẫm trong mắt y nhìn xuống hắn. “Nó hút lấy sát khí của ngươi thì ta uổng công.”
“Ta…” Hắn ngẩng phắt đầu, nhưng lại không biết nói gì. Y nhìn hắn, đôi mắt tĩnh lạnh, gương mặt bất động như đá, dường như vẫn không đổi khác so với lần cuối gặp hắn. Không có cả sự giận dữ, điên cuồng hay khổ sở mà hắn đã mường tượng, sự tĩnh tại này của y có cảm giác gần như là an nhiên.
Như thể, trong vùng đất của cái chết này, y cũng không phải là kẻ còn sống. Những đốm lửa xanh bay tản mát trên đầu y, quanh cái chuông gió, nhưng không tập trung về phía y. Trong luồng khí lạnh bốc lên từ trong đất, phả xuống từ bầu trời, hắn không cảm nhận được chút mùi vị hay cảm giác nào của sự sống.
Trước cửa căn nhà mồ, y trông như thể một hồn ma vừa đẩy nắp quan đi ra. Thậm chí cũng chẳng có sự đáng sợ của một hồn ma, màu áo trắng của y dưới ánh trăng tạo nên cảm giác thanh lạnh của mặt băng. Hốt nhiên, hắn nhớ tới màu hoa lê của một ngày xuân xa tắp, hoa đã rơi, chết đi trong khoảnh khắc nở bừng và rơi rụng, trong vũ điệu của gió và cái chết của mùa xuân.
Gương mặt y, nghiêng nghiêng bên trang sách, cũng mang sắc trắng nhợt nhạt mong manh như thế, ánh mắt cũng run rẩy hoang mang như thế, đã khiến hắn bật thốt ra lời ‘Ta đi cùng với ngươi’.
Bây giờ, y nhìn hắn, chỉ có tay áo phất phơ trong gió. Những sợi tóc bị gió cuốn che nửa khuôn mặt vẫn chẳng để lại được cái bóng trong đáy mắt y.
“Ngươi cũng tìm đến được đây.” Dường như y mỉm cười, cũng dường như đang cân nhắc. “Có gì muốn nói không?”
Nói xong thì xéo đi – hắn nhận ra ngữ khí này của y, dợm mở miệng. Nhưng y với ngay cả lời nói của hắn cũng dường không muốn nghe.
“Chuyện của Như Yên, ta cũng không muốn biết.” Ánh mắt bình đạm của y như nhìn xuyên qua hắn. Ngay khi nhìn thấy hắn, y đã đoán ra được câu trả lời. “Nàng ta đã chết hay còn sống bây giờ cũng chẳng liên quan tới ta.
“Với ta, Như Yên đã chết lâu rồi.” Bóng của nụ cười thoảng qua khuôn mặt y, lại càng khiến mắt y lạnh như nước. “Nếu Như Yên xuất hiện trước mặt ta bây giờ, ta sẽ giết nàng.”
Y nói hoàn toàn thản nhiên, khiến hắn hoàn toàn tin tưởng đó là sự thật.
“Nàng ấy cũng nói thế.” Hắn lặng lẽ đáp lại. Ánh mắt y bất động, chẳng hề có sự ngạc nhiên dù là nhỏ nhất. “Nhưng Như Yên không giống ngươi.”
“Nàng ấy dám oán hận, ngươi thì không. Nàng ấy đuổi theo ngươi, còn ngươi thì không dám cả đứng lại. Bây giờ cũng vậy, Như Yên làm mọi cách, sắp đặt đủ việc để khiến ngươi đau đớn, khốn khổ - ngay cả phải trả giá bằng bản thân mình. Còn ngươi thì rũ vai một cái, đem tất cả xóa sạch, thế là xong. Không đối phó được, ngươi liền trốn về quá khứ, coi như hiện tại không hiện diện, thế là xong.” Hắn cười khẽ trong cổ. Căn nhà ngoài rừng kia, khu nhà mồ hiện tại, chẳng phải để tưởng nhớ hay thương tiếc, chỉ là một cách lẩn trốn, không hơn. “Ta trước nay là loại người hời hợt vô tâm, không hiểu chuyện, không hiểu thế nào là thống hận khắc cốt ghi xương của các người, lại càng không hiểu thế nào là yêu hận giằng xé tiến lùi không được. Ta chỉ biết giữ các ngươi bên mình, giữ các ngươi còn sống, mặc kệ các ngươi chỉ muốn giết nhau. Ta chỉ biết yêu thì giữ lấy, không giữ được thì thôi. Ngươi thấy ngứa mắt khó chịu với ta thì cứ lấy một đao mà bổ xuống, đánh ta phải bỏ chạy khỏi Như Yên, thế là được. Như Yên không tha thứ cho ngươi thì cứ đợi đến khi ngươi hết kiên nhẫn rồi thì tự bỏ, việc quái gì phải khổ sở?”
Y bật cười.
Tiếng cười ngắn khô khốc không có chút vui sướng, nửa như mỉa mai chế nhạo, nửa như khách khí khinh thường.
“Khổ sở?” Ánh sáng xanh trong mắt y lưu chuyển khi y nghiêng người về trước. “Ngươi biết gì về ta để nói như thế?
“Để ta trả lời cho ngươi rõ tại sao trước đây cho đến bây giờ ta không làm như ngươi nói. Vì ta không phải là ngươi.
“Kẻ dối trá nhiều nhất, chạy trốn nhanh nhất, luôn tự cho mình là đúng nhất, mà cũng ngu ngốc nhất, lại chẳng phải là ngươi hay sao hả?”