Solitude

Cảnh như thị, nhân như thị

Hồi 72: Giới hạn
Trường An in "Nhật mộ biên thảo III" April 3rd, 2013

Cuối mùa xuân, những cành mai bung nốt búp nụ cuối cùng với những chùm quả đã kết xanh non. Gần hết mùa, cánh hoa đã phủ dày nền rừng, trôi xuống dòng suối nhuộm vàng những kẽ đá. Hương thơm tràn ngập theo gió đổ xuống triền đất, lan xa hàng dặm. Theo hương hoa và dòng chảy vương màu mai vàng của thác, hắn đi ngược lên vùng đất cao bên hồ. Từ trên nhìn xuống, lòng hồ tràn nắng sáng như mặt gương. Nắng tháng ba chói chang hắt trên hồ một làn ánh sáng mỏng như sương, nhìn lại càng nhức mắt.

Hắn đưa mắt nhìn quanh vùng đất một lần nữa, xác định lại phương hướng rồi nhún vai, tiếp tục bước đi.

Dù Dao Luật đã cho hắn biết địa điểm đoàn quân này đang đóng giữ, nàng cũng chẳng thể biết nơi chốn mà y ẩn náu. Theo Tư Tư, y đã bị thương nặng, hiển nhiên không thể ở một nơi quá dễ tìm ra, thậm chí cũng chẳng ở gần với toán quân lính. Hắn hiểu rõ tính cách thận trọng cảnh giác của y. Và khi đột nhiên cúi đầu, nhìn thấy cánh hoa vàng bị cuốn trôi xuống hạ lưu dòng suối, hắn bất giác lại đi ngược dòng, tìm đến khu rừng mai thấp thoáng trên cao.

Thác có những đoạn dốc đứng, tuy không cao lắm nhưng nước xiết đổ xuống, cuốn qua những rặng đá rầm rào. Rừng thoai thoải hướng lên bình nguyên, không có đường đi, hắn chăm chú tìm kiếm dấu vết cỏ bị giẫm đạp hay cành cây rơi gãy mà lần theo. May mắn, đang trong mùa khô, dấu vết con người để lại vẫn còn tương đối rõ. Càng đi, hắn càng đoan chắc đã có những người thường qua lại đoạn rừng này.

Hết đoạn dốc, khoảng đất bằng phẳng trải dài vài dặm, đã thấy lác đác vài gốc mai. Trên triền núi bên kia, rừng mai vàng chói chang trong nắng. Hắn dừng chân, nhíu mày. Khoảng đất này có rải rác vài cụm rừng thấp cao xen lẫn với cỏ, hoa dại mọc tràn. Nhưng nhìn đi nhìn lại, hắn càng cảm thấy có một trật tự nào đó với những cụm cây rừng này. Chúng không mọc theo hướng sinh trưởng tự nhiên của cụm cây, như thể đã có kẻ phát quang khoảng trống, để cỏ mọc che lấp dấu vết.

Trên khoảng đất bằng, hắn không có gì che chắn. Người ở đó hẳn cũng đã nhận ra sự xuất hiện của hắn, nếu không ngủ gật - Ngẩng đầu nhìn lên vách núi đằng xa, hắn nghĩ thầm. Đứng ở rìa khu đất thêm một lúc như chờ đợi, hắn rút kiếm cầm tay, dấn bước vào khoảng trống giữa những cụm cây nọ.

Vừa bước qua khoảng rừng đầu tiên, hắn đã nghe tiếng kèn văng vẳng, không xa không gần, từ bốn phía vọng tới.

Tiếng kèn có âm điệu đặc trưng của saranai, gồm nhiều chiếc thổi cùng một lúc. Chỉ trong chớp mắt, hắn chợt thấy thái dương nhói lên, vội vàng vận khí trấn định. Tiếng kèn không to, nhưng đâm thấu vào tai, vào tâm trí đến đau nhức. Cơn chuếnh choáng ập đến, khiến hắn phải quỳ xuống, chống kiếm mà thở dốc. Từ trong rừng, hai luồng ánh sáng chói mắt chợt chiếu thẳng vào mặt, hắn phải nhắm mắt lại.

Sau mi mắt nhắm, dư ảnh của luồng sáng vừa hắt đến bùng vỡ thành bảy sắc cầu vồng rực rỡ.

Trong tai, tiếng kèn vang âm âm. Không dịu dàng du dương, âm điệu của xứ sở này thê thiết dằng dặc, cũng chẳng mạnh mẽ hùng tráng mà mang một nhịp âm rùng rình như sóng biển, gió và những rặng cát. Trong khí nóng của ánh nắng mùa khô, hắn thấy miệng mình đắng ngắt, tâm trí đã mơ mòng hỗn loạn không khống chế nổi.

Như một phản ứng bản năng, cơ thể hắn phản kháng. Luồng nhiệt khí dâng trào chạy suốt đốt sống lưng lên đỉnh đầu, đem đến cho hắn chút thanh tỉnh. Cắn răng, hắn cố vận khí phong bế các giác quan. Tai hắn ù đi, cơn váng vất lui dần. Những mảng màu chớp tắt trong đáy mắt hắn dịu lại, tan loãng, hòa vào nhau thành ánh nắng lấp lóa.

Khi hắn nghĩ đã đẩy lui được sự ảnh hưởng của tiếng sáo, tay hắn chợt run lẩy bẩy. Do quá cố vận sức, khí huyết của hắn nghịch chuyển, bùng phát trở thành cơn ớn lạnh quen thuộc trong lồng ngực. Đau đớn khiến hắn gần như gục xuống mặt cỏ mà thở. Không thể vận khí thêm, hắn đành buông xuôi. Tiếng kèn lại vọng vào tâm trí, ánh sáng trong mắt trở thành một luồng hào quang rừng rực. Hắn buông kiếm, ngã xuống trong cỏ.

Sự đau đớn hoành hành trong tim hắn lại dần dần lặng xuống, khi thân thể hắn hầu như mất hết sức lực. Bằng cố gắng cuối cùng, hắn mở mắt. Bầu trời trong xanh đến choáng ngợp trên đầu, nắng đổ xuống như một làn nước trắng xóa. Trong màu trắng ấy, hắn không thể nhận biết bất cứ điều gì.

Ánh sáng là tận cùng của bóng tối.

Tận cùng cực quang là bóng tối.

Đi qua Rahu là mất mát. Đi đến Ketu là hư vô.

Cầu vồng bảy sắc nối hai bờ hư không. Thanh âm lao xao của muôn vạn linh hồn rơi vào tái sinh và hủy hoại. Nỗi đau đớn sợ hãi đến gần như mê cuồng, tuyệt vọng đến điên loạn. Theo ánh sáng mà thấm đẫm vào cốt tủy. Sinh ra cùng với linh hồn.

Trời xanh như mặt biển ngày ấy. Xanh đến không bến bờ. Xanh như định mệnh qua ngàn đời ngàn kiếp. Ngàn đời ngàn kiếp, vận mệnh của lưu vong. Lưu vong giữa những bờ đất bên kia biển, bên kia bầu trời.

Tiếng khóc nằm lại trên mặt biển, thân xác nằm lại trong lòng biển, linh hồn tái sinh để nhận lãnh vận mệnh xoay tròn.

Trong tận cùng ánh sáng và bóng tối, hắn lại không nghe thấy thanh âm.

Không biết đã qua bao lâu, hoặc chỉ trong một cái chớp mắt, hắn giật mình choàng tỉnh. Tiếng kèn đã ngừng, có những bước chân đang đi lại gần. Hắn nắm lấy thanh kiếm đã rơi bên cạnh, giả vờ nhắm mắt. Khi những kẻ kia chỉ còn cách đôi ba bước chân, hắn tung người vọt lên, phóng vào bọn họ, túm lấy ngay kẻ gần nhất, kề kiếm vào cổ gã.

“A!” Tất cả kẻ vừa tới giật mình kêu lên kinh ngạc, không kịp phản ứng. Hắn đã đạp chân nhảy lui ra sau, vẫn nắm lấy kẻ đang bị khống chế. Ở khoảng cách vừa đủ an toàn, hắn đưa mắt nhìn toán người nọ.

Bọn họ có tất cả bảy người, kể cả kẻ trong tay hắn. Áo trắng đặc trưng của người Chiêm Thành, kèn saranai đeo bên hông, cầm đủ loại vũ khí. Hắn không quen thuộc với người trong triều đình và quân đội Chiêm Thành, chỉ đoán ra thân phận không tầm thường của họ qua thắt lưng sặc sỡ quấn quanh hông. Nghe nói triều đình Chiêm quốc có những hộ vệ lợi hại, có lẽ chính là bọn họ.

“Các người là ai?” Hắn thấp giọng hỏi khi vẻ kinh ngạc vẫn còn chưa hết trên khuôn mặt những người đối diện. Bọn họ chớp mắt, nhìn lại hắn từ đầu đến chân lần nữa, trước khi một người trong nhóm thận trọng lên tiếng.

“Người là Mạc công tử?” Anh ta hỏi, khiến hắn thoáng ngạc nhiên. Anh ta liền lắc đầu. “Chúng tôi được lệnh không cho anh vào đây.”

“Vậy thì phải đánh nhau thôi.” Hắn mỉm cười, lại không thấy lạ. Y hẳn phải đoán được hắn trước sau cũng sẽ tìm đến, và đã cho người chặn trước. Bây giờ có cho bọn họ đi báo với y cũng chẳng có ích lợi. Hắn kề kiếm vào cổ người đang bị khống chế, quét mắt một vòng. “Chúng ta phải đổ máu thật à?”

Vẻ bối rối thoảng qua khuôn mặt người đối diện. Họ đưa mắt nhìn nhau, rồi như hội ý cùng lúc, đồng loạt nâng kèn lên môi. Tiếng nhạc lại vang. Hắn chớp mắt khi cơn chênh chao đầu tiên ập đến. Lạ thay, lần này thân thể lẫn tâm trí hắn lại hoàn toàn không bị ảnh hưởng. Tiếng nhạc khiến hắn cảm thấy khó chịu, nhưng chỉ có thế.

“Tránh ra.” Hắn nhẹ nhàng nói, đi lên trước một bước. Nhóm người trước mặt vội lui về sau. Thấy tiếng nhạc vô dụng, họ nâng vũ khí, tản ra bao vây hắn.

Hắn đẩy người đang bị khống chế đi về trước, vòng vây di chuyển theo, nhưng họ không có ý định thả hắn.

Giác quan hắn căng thẳng dè chừng động tĩnh của nhóm người bao vây, kẻ trong tay hắn lại thình lình ra tay.

Tay anh ta đưa lên qua vai, dường muốn chạm vào thanh kiếm của hắn đang kề bên cổ. Mấy ngón tay cử động, từ cổ tay anh ta, ám khí hình sao phóng thẳng vào mặt hắn. Bị bất ngờ, hắn nghiêng đầu tránh thoát được. Chớp lấy thời cơ, người kia lách qua thân kiếm hơi lơi lỏng, lăn tròn về phía các đồng bạn.

Chỉ chờ có thế, một loạt phi tiêu mang hình dạng sao năm cánh bay về phía hắn. Ngôi sao xoay tròn, các cạnh đều sắc như dao, lượn vòng cung cong cong chứ không bay thẳng, càng khó đoán định để tránh né. Va phải kiếm của hắn, chúng vẫn còn lực xoay để tiếp tục quay tròn, bắn đi tứ tán càng không biết phương hướng nào để tránh. Hắn phải cúi thấp người gần như quỳ xuống đất, đưa kiếm vẽ một đường tròn lớn trên khoảng không. Như bị hút vào bởi vòng xoáy vẽ bởi thanh kiếm trắng lấp lóa như nắng, những phi tiêu hình sao lượn vòng, nghe tiếng kim khí va đập lanh canh.

Trước khi nhóm người kia kịp phóng thêm một loạt phi tiêu nữa, hắn vận lực hất đám phi tiêu này ra bốn phương tám hướng. Nhóm người nọ thấy vậy vội vàng đưa vũ khí đón đỡ hoặc nhảy tránh.

Hắn với lấy thanh đoản đao bên thắt lưng, ném ra. Đao cong vẽ một đường tròn lớn quét qua đám người nọ. Bối rối, họ lùi hẳn lại. Nhân kẽ hở vừa tạo thành, hắn phóng đi. Không chạy vào những khoảng đất trống, hắn chạy xuyên qua bụi cây rậm gần nhất, đạp chân nhảy lên ngọn cây rồi chuyền cành mà di chuyển. Nhóm người kia ồn ã gọi nhau đuổi theo hắn, nhưng có phần e ngại món vũ khí mà hắn sử dụng nên không dám xông vào.

Đến rìa bên kia của khoảng cây, hắn dừng chân trên một cành cao, quan sát bốn phía một lần nữa. Ở độ cao này, hắn nhìn rõ được một phần mảnh đất, nhận ra tại sao hắn có cảm giác ngờ ngợ: Khoảng đất này vốn được bố trí như một trận pháp. Nhất thời hắn không nắm được trật tự hay quy luật của trận pháp trước mắt, chỉ nhận ra vài phương hướng đại lược. Ở Phú Xuân nhiều năm trước, hắn cũng đã từng thấy vài trận pháp lạ trong giấy tờ mà Như Yên lấy về từ phủ đệ Nguyễn Phúc Huệ. Nàng nói đó là do bọn họ đã kết hợp Dịch lý với học thuật của người Ấn Độ, nửa hoạt động theo Ngũ hành tương khắc, nửa trình bày như một mạn đà la. Khoảng đất này lượn qua ngọn đồi thấp, như một thế đất bằng vây quanh đồi, mang đúng một hình dạng quen thuộc của kết cấu Ấn giáo. Những khoảng cỏ xen lẫn với rừng, đất đá nhấp nhô, dòng thác ào ào tuôn đổ khiến người không nhìn ra được cảnh tượng quá vài trượng trước mặt.

Nhưng sự xuất hiện của nhóm người ngoài kia đã khiến hắn nhận ra mình đang đi đúng đường. Y chắc chắn đang ở nơi đây, có thể là trên ngọn đồi này – tâm điểm của mạn đà la.

Tiếng kèn lại một lần nữa cất lên, lần này không có giai điệu, chỉ the thé chói tai như cảnh báo. Hắn vội nhảy khỏi cành cây, không chạy thẳng về phía ngọn đồi mà vòng ra hướng gần ngọn thác.

Mạn đà la được tạo thành từ những vòng tròn xung quanh tâm điểm chính, như một xoáy ốc khổng lồ, không thể đường đột cắt thẳng lối mà vào. Hắn vừa vào từ lối nào thì phải bắt đầu từ hướng đó mà đi. Không nhất thiết phải chạy một vòng tròn lớn, hắn có thể di chuyển đến một trong bốn ‘cánh cửa’ của vòng tròn kế tiếp.

Nhưng hẳn những người nọ cũng đoán ra được hành động của hắn, hoặc hắn đã tìm được đúng cánh cửa được canh giữ bởi các ‘vị thần’. Từ dòng thác, hắn đi ngược về hướng Đông, lần này thấy mình đối mặt với một nhóm tám người khác.

“Ra khỏi đây.” Thấy hắn, một người trong bọn họ cất tiếng, giọng vẫn ôn hòa chứ không có vẻ giận dữ hay đe dọa. Có lẽ cũng như nhóm người ngoài kia, họ đã được lệnh của Ngô Lãng xua hắn đi chứ không coi hắn là kẻ thù.

“Tôi có chuyện muốn nói.” Thấy bọn họ, nghĩ không muốn đụng độ thêm, hắn hạ giọng nói, thử thuyết phục bọn họ. “Việc này liên quan đến an nguy của tất cả mọi người.”

“Đừng có nghe tất cả mọi lời kẻ kia nói có được không?” Thấy nhóm người này vẫn không lên tiếng, hắn thở ra, dùng giọng bất đắc dĩ mà ra dấu về phía đỉnh đồi. “Các người cũng biết y tính tình quái dị, lúc tâm trạng không tốt thì không những xấu tính mà lại còn hồ đồ, không phải lúc nào cũng tin được đâu. Bây giờ tình huống nguy nan nghiêm trọng đến thế nào, đâu phải lúc để giận dỗi úp mặt vào tường mà xua đuổi người.”

“Thôi được, gọi Oc-nha That cho tôi gặp.” Thấy lông mày của nhóm người kia đã xếch ngược, hắn đằng hắng, chuyển giọng. Ở đây, người ra lệnh được cho y chỉ là vị Hữu trà viên này. Hắn không thấy ông ta ở Phố Châm, hẳn đã đi về đâu đó quanh đây.

“Oc-nha không có ở đây.” Người kia lắc đầu, rồi nói thêm. “Chiều tối ông ấy mới trở về.”

“Tôi đợi vậy.” Nghĩ một lát, hắn gật đầu. Đánh xuyên qua đám người này và giải quyết rắc rối theo đó ắt cũng phải mất hơn nửa ngày, huống hồ hắn đến đây không phải để gây sự. Không đợi nhóm người kia lên tiếng, hắn quay lưng đi về phía dòng nước. “Bao giờ ông ấy đến nhớ báo cho tôi.”

Ngồi dưới một tán cây xòe rộng bên dòng suối, hắn vót cành cây đâm lấy cá dưới dòng mà làm bữa ăn, thong dong đợi. Ăn xong bữa trưa, hắn ngả lưng nằm xuống thảm cỏ, đưa mắt nhìn dòng nước. Cánh hoa vàng vẫn đang trôi xuống. Theo gió, hương hoa mai phảng phất khắp một vùng đất rộng. Gần nơi hắn nằm có một gốc mai, hẳn là giống mai hương[1] vì mùi hoa nồng nàn ngay cả đã vào trưa. Sắp hết mùa hoa, lá đã trổ xanh non cành, không khiến hương hoa dịu đi. Thấy quả mai đã kết chín đỏ, hắn liền nhổm dậy, đi đến hái bỏ vào túi đeo bên người.

Nghe tiếng chân đến sau lưng, hắn quay đầu, nhận ra người vừa nói chuyện với hắn – có vẻ anh ta là trưởng nhóm canh gác nọ. Nhìn nhanh qua túi quả mai hắn đang cầm, anh ta lắc đầu.

“Oc-nha That chưa về.” Mím môi, nhìn hắn như đánh giá một lần nữa, anh ta chợt nói. “Tôi thường được gọi là Vayu.”

Hắn nhíu mày, mất một lúc để nhớ ra ý nghĩa của cái tên này. Người kia mỉm cười gật đầu.

“Chúng tôi được gọi là Hộ Thần Bát Phương Thiên, Dikpalaka.” Vayu nói, có vẻ không thoải mái với cái tên Việt nọ. “Chúng tôi là hộ vệ của triều đình. Những người đã đụng độ với anh ngoài kia là Thất Tinh Tú, Graha. Ngoài ra còn đôi ba nhóm nữa.”

“Có người bảo, đã từng nhìn thấy anh ở Phú Xuân?” Một câu hỏi mà có vẻ không phải là hỏi. Vayu chắp tay sau lưng, nheo mắt nhìn hắn trước khi quyết định hỏi tiếp. “Ai đã giết chúa của Nam Hà?”

Hắn im lặng một lúc.

“Cả hai chúng tôi.” Cuối cùng, hắn quyết định trả lời. Điều đó gần với sự thật nhất. Y đã ra tay, nhưng vị chúa ấy chết vì hắn. Vì một lý do nào đó mà hắn hoàn toàn không thể hiểu, hoặc chỉ là một phản ứng tức thời không thể lý giải cũng như hắn trong khoảnh khắc ấy, ngài ta đã thay hắn hứng trọn đòn đánh, và cả lực phản hồi mạnh gấp mấy lần. Nếu như hắn không có mặt, thậm chí chỉ cần hắn tránh đường, không đứng chắn ở đó, sự việc có lẽ đã khác.

Môi Vayu thoáng một nụ cười bí ẩn.

“Tôi nghe nói, bọn họ chỉ biết đến ‘một kẻ áo xanh’. Nếu bọn họ bắt gặp anh ở đây thì sao?” Vayu nhè nhẹ gật đầu. “Đội kỵ binh và cả Bát tuyệt đều đang đến.”

Hắn ‘à’ một tiếng khe khẽ trong cổ, nhưng không ngạc nhiên. Nam Hà quyết tung hết lực lượng để tiêu diệt mầm mống loạn lạc không phải điều lạ, họ sử dụng kỵ binh để tấn công vào vùng rừng núi này càng hợp lý. Nhưng cả đội thiếp thân hộ vệ bên cạnh chúa cũng đến cả đây để làm gì?

Vayu chỉ cười, không nói thêm. Hắn cũng chợt hiểu ra. Sự việc đã xảy ra với vị chúa trước bị che giấu nhưng không bị lãng quên. Đến lúc rồi họ cũng sẽ quyết báo thù. Sau khi đụng độ với hắn ở trước bản làng miền núi nọ, hẳn U đã về kể lại, cho rằng hắn vẫn đang ở bên cạnh Ngô Lãng. Không chừng lần này chính Bát tuyệt chủ động xin tới báo thù cho vị chủ nhân lẫn người anh em của họ.

“Tướng quân A Ban cũng không phải chỉ vì giận dữ đâu.” Vayu thở ra nhè nhẹ. “Anh có đến tìm, dùng đủ lý do để thuyết phục e rằng cũng không có tác dụng gì. Tướng quân bảo, nếu anh cứ lằng nhằng thì đánh ngất, trói lại, nhét giẻ vào miệng mà đem chở về Đại Thành.”

“Tôi cũng muốn làm thế lắm. Đáng lẽ phải làm vậy từ lâu rồi mới phải.” Hắn nhếch môi, lại nghĩ đến một chuyện khác. Y tin rằng nhóm người này có thể ‘đánh ngất’ được hắn? Vayu nói như thể đây là kế hoạch đã định trước, gần như chắc chắn. Hẳn là bọn họ tin tưởng tiếng kèn như ma pháp thôi miên nọ. Nhưng tại sao hắn lại vượt qua được? “Tiếng kèn mà Thất Tinh Tú sử dụng kia là gì vậy?”

Navagraha, một phép nhiếp tâm.” Vayu nhún vai. “Mỗi Graha đại diện một tính chất của con người: linh hồn, cảm xúc, lý trí, sức mạnh, giao tiếp, hiểu biết, khao khát[2]. Ngoài ra còn có hai điểm là Ketu và Rahu tạo thành chín Graha chính. Mỗi người trong bọn họ thổi một âm điệu khống chế một trong các tính chất nọ. Người nghe tự nhiên sẽ bị thao túng, mất đi toàn bộ sự khống chế với bản thân.

“Cũng có những người vượt qua được.” Nhìn lướt qua hắn, Vayu cười nhẹ. “Tướng quân A Ban cũng từng đụng độ bọn họ, không bị ảnh hưởng chút nào.”

Vayu nói điềm đạm, không có ý thắc mắc hay lấy làm lạ, hẳn anh ta cho rằng hắn đã dùng một cách giống như Ngô Lãng. Hắn cũng im lặng, không định giải thích.

Người luyện tập Vô Âm có khả năng phong bế các giác quan, chỉ cần đơn giản không nghe thấy thì không bị ảnh hưởng. Nhưng hắn chỉ choáng váng ngất đi một khoảng thời gian rất ngắn, rồi cơ thể hắn như đã tự động thích ứng, bỏ tiếng nhạc ngoài tai.

Hắn chợt nhớ đến cơn đau bộc phát khiến hắn phải buông bỏ ý định phong bế kinh mạch. Cơn đau ấy thường chỉ đến với những phản ứng của cơ thể - với cách gọi giản đơn bao quát nhất là Tình.

Linh hồn, cảm xúc, lý trí, sức mạnh, ngôn ngữ, hiểu biết, khao khát – Những tính chất ấy hợp thành một con người. Khuấy động chúng lên, tấn công vào chúng, khiến lòng người chao đảo. Nhưng cơn đau chỉ thực sự đến khi hắn cố gắng vận lực chống lại tiếng kèn?

Chống lại? Hắn lặp lại ý nghĩ ấy với chút bàng hoàng. Có thật sự rằng mọi cơn đau đều đến khi hắn cố gắng chống lại phản ứng của cơ thể - Chứ không phải là do tác nhân của việc ấy? Cơ thể lẫn tâm trí đã buộc phải chịu sự luyện rèn khống chế để không rung động – và dần dà, như Ngô Lãng đã trải qua, trở thành vô cảm lạnh lùng như một khối đá. Nhưng một khi đã chịu sự tác động, đã chuyển biến và phản ứng – Thì chính sự khống chế của con người mới đem tới nỗi đau như lóc từng thớ thịt?

Hắn nhớ tới buổi đêm bên hồ nọ, sau một giấc mơ nửa mê nửa tỉnh, hắn đã vô thức ôm lấy Như Yên. Khi đó, hắn cũng không hề cảm thấy đau đớn. Trong ý thức chập chờn mê tỉnh, hắn đã không khống chế, đã để bản thân bị cuốn đi, nhưng cuối cùng bị đánh gục vì luồng khí bùng phát quá mạnh mẽ đến mức thân thể nhất thời không chịu đựng nổi chứ chẳng phải vì đau đớn.

Hắn nhớ tới nụ cười của Huyền Khê khi hắn trả lời ‘Không nhớ gì hết’. Đó chính là điều ông ta muốn nói với hắn? Buông bỏ quá khứ, cả những nỗi đau và giới hạn. Có những giới hạn mà chính con người tạo thành cho mình.

Có những nỗi sợ hãi, có những e dè, những ý thức đã chìm sâu, đóng dấu trong tâm khảm như những vết thương. Ngỡ đã quên lãng, đi qua, bỏ mặc, chúng vẫn tồn tại. Cùng với những điều như được sinh ra nằm trong bản thể.

Nỗi đau sinh ra từ hạnh phúc, mất mát sinh ra từ sở hữu, sợ hãi sinh ra từ tồn tại.

Càng khống chế, càng đau đớn. Càng nắm giữ, càng rơi rớt. Càng tìm kiếm, càng bỏ lỡ.

Sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hội, cầu bất đắc.[3]

Con đường diệt Khổ không phải là diệt Ngũ uẩn. Diệt Ngũ uẩn, con người làm sao thành con người?

 

 

 

Chú thích:

[1] Mai hương hay còn gọi mai thơm, mai ngự là loài mai có mùi thơm hơn hẳn các giống mai thông thường, mùi hương nồng nàn rất đặc biệt, được vua quan tại Huế trồng trong vườn nên gọi là mai ngự. Loài mai này cũng mọc nhiều ở Bến Tre.

[2] Những hành tinh với những tính chất đại diện này là cơ sở chính trong Chiêm tinh học Ấn Độ cổ, nền tảng của Chiêm tinh Tây phương và cả một phần Trung Quốc: Mặt trời đại diện cho linh hồn, sự dũng cảm, quyền lực, đôi mắt; mặt trăng là lý trí, cảm xúc, sự tưởng tượng, bộ não, cai quản Cự Giải; sao Thủy là ngôn ngữ, giao tiếp, tri thức, tính toán, cảm giác, làn da, cai quản Xử Nữ và Song Tử; sao Hỏa là sức mạnh, tự tin, liều lĩnh, máu, cơ bắp và sụn, cai quản Bạch Dương và Thần Nông… Những hành tinh này trong tín ngưỡng Ấn Độ được liên hệ với hệ thống thần cai quản riêng.

[3] Đây là bảy tính chất của Khổ được định nghĩa trong Tứ diệu đế:Sinh là khổ; già là khổ; bệnh là khổ; chết là khổ; lo lắng, than thở, buồn rầu, tuyệt vọng là khổ; không đạt gì mình ưa thích là khổ; nói tóm lại: mọi thứ dính líu đến Ngũ uẩn là khổ." (Sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tăng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ uẩn xí thạnh khổ.)




Leave a Reply

(required)

(required)

:) :blush: :D :( :(( ;)) :banh: ;) ::) =)) :)) b-) :meo1: :meo2: :meo3: :meo4: :meo5: :meo6: :meo7: :meo8: :meo9: :meo10: :meo11: more »

Bộ gõ tiếng Việt đã được bật. Bạn có thể gõ tiếng Việt không cần phần mềm trong máy.
RSS feed for comments on this post.


Copyright © Trường An. All rights reserved.