Tháng cuối năm Quý Dậu, đội quân do Hữu trà viên Oc-nha That lãnh đạo với sự giúp đỡ của một viên tướng người Đường là A Ban tấn công Phố Hài, tiêu diệt đội quân Nam Hà đóng nơi đây. Thành lũy nơi cửa sông Phố Hài thông ra biển, dòng sông cắt đôi vùng đất xuống phương Nam, đã bị quân Chiêm Thành chiếm giữ.
Nghe tin lũy Phố Hài bị tấn công, đội quân của dinh Bà Rịa tức thời phản ứng. Khi họ đến, cửa tấn Phố Hài đã bị phong tỏa bằng một đội thuyền dàn ngang. Ngoài thuyền chiếm được của Nam Hà và thuyền của cư dân quanh vùng, còn có những chiếc thuyền lạ trông rõ ràng là của bọn Tề Ngôi phương Bắc. Thấy đoàn quân thuyền tấn công, trong lũy phát pháo hiệu, voi trận cũng đã dàn hàng trước cổng lũy.
Cai đội dinh Bà Rịa chỉ huy đoàn quân Nam Hà liền cho quân đổ bộ lên bãi biển, đoàn thuyền chiến hỗ trợ bên ngoài. Toán quân bộ cập bến trên những chiếc thuyền nhẹ, kéo theo pháo, sắp thành đội ngũ mà tiến. Vừa vượt qua bãi cát, phía trước nhóm quân đã ầm vang một tiếng kinh động. Bộc phá được gài trong đất hất tung hàng người đi trước, nhóm quân đi sau vội vàng lùi lại. Đến lúc này, bộc phá trong cát mới được kích nổ, chặn đường rút lui của toán quân Nam Hà. Pháo và thuốc súng gặp lửa nổ tung, cuốn cát bay cao hàng chục trượng. Chỉ trong vài khắc, trên bờ biển chỉ còn la liệt xác người.
“Công thuyền!” Thấy toán quân đổ bộ bị diệt, Cai đội Dực nghiến răng ra lệnh cho đoàn thuyền chiến. Thuyền chiến Nam Hà được trang bị sẵn pháo lớn, súng dài, so với toán thuyền Tề Ngôi tuy thiện chiến nhưng thô sơ thì vẫn có lợi thế hơn khi giáp chiến.
Pháo trên thuyền Nam Hà nổ, hất tung mấy chiếc thuyền con chắn trước cửa tấn. Vừa bắn pháo vừa lừng lững tiến vào, đoàn thuyền chiến Nam Hà bức toán thuyền Chiêm Thành lùi về sau. Đoàn quân của dinh Bà Rịa chủ về thủy chiến trên biển, sắp thành hàng ngũ mà đều đặn nã pháo vào địch quân. Những chiếc thuyền nhẹ áp sát cửa biển, dùng súng và bộc pháo hạ kẻ trên thuyền. Chẳng mấy chốc, toán thuyền Tề Ngôi quay đầu chạy vào sông, kéo theo đoàn thuyền thuộc hạ.
Cai đội dinh Bà Rịa liền cho thuyền vượt cửa biển tiến đến thành lũy trong đất. Đoàn thuyền Nam Hà vừa vào sông, pháo trong lũy đã nổ, một đoàn thuyền nhẹ khác kéo đến chặn đường. Gặp súng và pháo của thuyền Nam Hà, toán thuyền nhẹ vỡ vô số, lính trên thuyền phải nhảy xuống sông trốn thoát.
“Bắn!” Thấy chiến thắng đã gần ngay trước mắt, Cai đội Dực hăng hái ra lệnh. Lời vừa thốt khỏi miệng, viên Cai đội đã nghe thấy tiếng la hoảng hốt ở đoàn thuyền phía sau. Ngoảnh nhìn lại, viên tướng Nam Hà lạnh người khi nhận thấy những dấu đen nhờ nhờ trên mặt nước.
Triều đang rút xuống, và những chiếc chông sắt đã nhô lên khỏi mặt sóng. Có vài chiếc thuyền đã bị đục thủng, thủy thủ trên thuyền kêu la tán loạn. Trên những chiếc thuyền khác, người người cũng hoảng hốt thất sắc. Đã lọt vào trận địa chông này, không thể thoát ra.
Nguyên tấn Phố Hài có cửa biển rộng đến sáu mươi trượng, thủy triều lên cao năm thước, thủy triều xuống sâu ba thước, sóng nước cuồn cuộn. Người bên ngoài vào không rõ đợt triều lên xuống ở cửa biển dễ dàng mắc cạn. Giờ đây, chông đã được đóng kín khoảng cửa sông thắt nút, ngăn toán thuyền lọt bẫy chạy ra. Không còn cách nào khác, Cai đội Dực vội cho thuyền chạy nhanh vào trong sông tránh chông, vô kế khả thi cứu những thuyền đã bị đục thủng.
Nhưng trong cơn hoảng hốt, đoàn quân Nam Hà lại không để ý đề phòng những chiếc thuyền nhẹ vẫn còn chìm nổi phía trước. Đến khi chiếc thuyền nghiêng đi, rung lắc dữ dội, viên tướng Nam Hà mới giật mình nghĩ đến: dưới nước không chỉ có chông sắt.
Đã vào sông, sóng gió giảm bớt, những kẻ thông thạo thủy tính đã nhảy xuống nước đục thuyền. Tiếng la hét truyền đi trên sông. Hai bên bờ, những dàn nỏ khổng lồ được kéo ra, tên bay như mưa vào đoàn thuyền mắc kẹt. Những kẻ rơi xuống sông lập tức trở thành mồi cho dao rựa nấp sẵn dưới lòng nước.
Đầu bên kia, toán thuyền Tề Ngôi lại xuất hiện, chắn giữ cửa sông. Chiếc thuyền lớn của tướng Nam Hà vừa trôi đến, lập tức bị hỏa pháo nhấn chìm trong lửa.
“Lão Đại, ra tay có hơi quá đáng không?” Đứng cạnh sàn chỉ huy, một tên Tề Ngôi quấn khăn xám dè dặt lên tiếng, nhìn chiếc thuyền chủ tướng của quân dinh Bà Rịa từ từ chìm xuống. Tên chỉ huy lực lưỡng có một vết sẹo chạy ngang mặt lầm lì khoanh tay không trả lời.
“Rút!” Thấy toán thuyền của Nam Hà đã bị hạ, Lâm Phi chỉ buông một mệnh lệnh ngắn gọn. Trên những chiếc thuyền bên cạnh, Bát Thanh Ngư nghe lệnh liền cho thuyền quay đầu, theo chủ tướng lui về cảng bên kia, để chiến trường lại cho toán lính Chiêm Thành.
Hoàng hôn đỏ ối đổ xuống, ngập tràn dòng nước nhấp nhô bọt sóng đỏ. Nước cuốn xác người trôi ra biển. Thủy triều đã lại lên, che giấu những chiếc cọc nhọn trong lòng nước. Lính trong lũy đã kéo được vài chiếc thuyền chiến lợi phẩm vào bờ. Súng, pháo và vũ khí được chất lên xe kéo về kho. Vàng bạc, giáp trụ, tài vật có trên thuyền được đem chia nhau.
Nhìn lại đám đông ồn ào lần cuối, y im lặng quay lưng bước vào lũy. Phía sau, cô gái áo lục cũng lặng lẽ đi theo.
“Chỉ có Lâm Phi thôi à?” Đến nơi vắng vẻ, y lên tiếng. Tư Tư đưa mắt nhìn y, cân nhắc rồi mới trả lời.
“Linh lão đầu bảo Lâm Phi là người đại diện cho ông ta. Ý chừng vẫn còn muốn xem tình thế ra sao rồi mới nhúng tay vào.” Ngừng một khắc, nàng nói thêm. “Nhưng Lâm Phi ngoài bọn đàn em Bát Thanh Ngư cũng còn nhiều thuộc hạ. Nếu gã kêu gọi, sẽ còn rất nhiều kẻ gia nhập. Quân Nam Hà giàu có, tài vật để chúng chia nhau cũng đủ hấp dẫn. Dù sao chúng cũng chỉ là hải tặc, ở đâu có lợi thì đến thôi.”
Nếu không còn Lâm Phi, bọn họ cũng có thể dựa vào tiền của để chiêu tập bọn hải tặc khác nhan nhản trong vùng biển này. Đó mới là ý nàng muốn nói. Y nhìn qua nàng, khóe miệng khẽ động nhưng không lên tiếng.
Ý y không hỏi về Lâm Phi lẫn bọn hải tặc. Linh lão đầu chẳng khác gì một con thằn lằn. Lão có thể hy sinh ‘cái đuôi’ Lâm Phi cùng toán cướp được lão nuôi dưỡng trong bóng tối, thoát đi khi cần thiết. Nhưng y cần lão không phải chỉ để phụ giúp vài việc vặt như quân lương hay lính tráng. Lão vẫn còn chùng chình chưa quyết, y vẫn còn chưa yên tâm để hành động.
Lần này triệt hạ cả toán quân cứu viện của dinh Bà Rịa, hẳn sẽ làm Nam Hà nao núng mà không vội vã đem quân tấn công. Nhưng ngồi đợi kẻ địch tập trung lực lượng đánh đến cầm bằng tự sát. Những kẻ đã hứa hẹn kia vẫn còn trông chờ một động thái quyết liệt chắc chắn hơn. Nhưng y lại vẫn còn một điểm chưa giải quyết được, điều có thể ảnh hưởng rất lớn đến chiến cuộc tại nơi này: Vương tộc của Panduranga – Hay nói đúng hơn, những người mang dòng máu hoàng gia của Chiêm Thành. Ngoài nhà vua Bà Tranh đang bị giam giữ tại Phú Xuân, em trai nhà vua là Kế Bà Tử cùng con cháu ông ta vẫn đang nằm trong tay Nam Hà, bị Nam Hà quản thúc.
Không có danh nghĩa chính thống, bọn y dễ dàng bị gọi là toán người phản loạn, dù có mục đích hay lý do gì. Thứ nhất là danh, thứ nhì là thanh, hai điều cần thiết trước hết để bắt đầu một cuộc chiến.
Nắm được dòng dõi vương thất Chiêm quốc trong tay, Nam Hà xem như đã nắm được phân nửa danh nghĩa này. Đất nước, nói cho cùng, chẳng là gì nếu không còn vua. Không còn vua, với chúng dân, dù là Nam Hà hay Oc-nha That lãnh đạo cũng chẳng có gì khác biệt.
“Cô ta đến chưa?” Ngẩng đầu nhìn quanh, Tư Tư chợt hỏi. Vẫn đi trước, y trả lời mà không nhìn lại.
“Đã tới, đi rồi.” Y nhè nhẹ nhíu mày. Đột ngột dừng chân, y chờ Tư Tư đến bên cạnh, đưa tay cho nàng. “Nên ta có việc cần nhờ cô.”
Trong tay y là một phong bao màu đỏ.
***
Trong tay nàng, phong bao đỏ giữa bóng tối chuyển sắc sẫm như máu đông.
Trăng vẫn sáng, tuy đã không còn tròn vạnh như rằm. Con đường giữa lũy ram ráp cát trên đất đá. Đưa tay gõ nhẹ thái dương, ánh mắt nàng lướt qua phong bao rồi đến vầng trăng trên cao. Ánh nhìn vì mấy phần chuếnh choáng mà cảnh vật trở thành chao đảo nhòa nhạt.
Nàng nhắm mắt, đứng giữa đường cố lấy lại trấn tĩnh. Nàng đã uống quá nhiều rượu buổi tối này, càng lúc rượu càng ngấm, khắp người nóng bừng bừng, đầu óc nửa mê nửa tỉnh. Lồng ngực lợn nhợn cồn cào, nàng cúi người gần như ngã xuống đất mà nôn khan. Nhưng rượu có thể vì được bỏ một thứ dược thảo nào đó vào khiến người uống ngầy ngật chứ không chỉ là men đắng, thái dương nàng đau như búa bổ, đầu nặng chân nhẹ chứ không nôn ra được.
Khom người trên đất thở dốc, nàng không nhận ra người bước tới phía sau.
Trong lũy này vốn chỉ có vài đầu lĩnh chỉ huy thay nhau canh giữ. Vì lý do tránh bị tấn công bất ngờ, lính tráng không ở tại lũy cạnh tấn biển mà trú sâu trong đất. Khi thấy một bàn tay đặt lên vai, Tư Tư chỉ nghĩ đến một cái tên duy nhất: Lâm Phi. Ở đây, chỉ có gã quan tâm đến nàng, dám quan tâm đến nàng.
“May quá, đỡ tôi vào nhà với.” Thở ra, Tư Tư mệt mỏi thì thào. Người nọ đỡ nàng đứng lên, đi vào gian nhà của quan tướng. Để nàng nằm xuống phản, kẻ ấy rót một ly trà đưa lại.
“Sao uống nhiều thế?” Người kia hỏi khi nàng chầm chậm nhấp ly trà. Mắt vẫn nhắm chặt chế ngự cơn chao đảo, tai nàng ù đi, nghe tiếng được tiếng mất. Tiếng nói của người nọ, vọng qua khoảng không mê mông, như thể tiếng chuông vang từ xa tít.
Mất một khoảng thời gian để nàng hiểu được câu hỏi ấy.
“Công việc.” Buông ly trà, nàng lầm thầm trả lời. Cơn đau lại thấu lên khiến nàng gục người ôm đầu. Cơn đau khiến nàng đột nhiên đâm ra giận dữ với câu hỏi nọ. “Bao nhiêu năm rồi, không thấy sao?”
Bao nhiêu năm, từ Tây Phong lầu đến Ngưng Yên đình, từ rừng núi đến hoang mạc phương Nam, nàng đã sống như thế. Lấy tiếng cười biến thành rượu ngọt, lấy cơn say biến thành vũ khí, lấy cuộc đời hóa thành chiến trường.
Nữ tử phong trần, có thản nhiên đạm bạc như dòng nước, có tài tình mỹ lệ như sương mai, rốt cuộc cũng chỉ trao đổi tiếng cười, trả vay nước mắt.
“Oán hận rồi?” Người kia im lặng, rồi ngồi xuống ghế bên kia, nhàn nhạt hỏi. Giọng nói nghe như không có ý tò mò, chỉ tĩnh lặng thể vô tình mà hỏi.
“Oán ai?” Nàng cười khi vẫn gục đầu giữa hai cánh tay. Tâm trí chìm dần vào hỗn loạn. “Tôi đã bảo, phải đi trả nợ. Cha đã bán tôi cho chủ nhân. Món nợ ấy trả một đời không hết.”
“Nếu không phải vì thế, tôi sống làm gì?” Thở ra nhè nhẹ, Tư Tư lắc đầu. Ngả lưng nằm xuống phản, nàng co người ôm lấy chân, đột nhiên lại mỉm cười. “Nên có cô Tư cô Năm nào đó thương anh thì hãy lấy cô ta đi, theo tôi làm gì?”
Phong bao đỏ vẫn kẹp chặt giữa những ngón tay nàng rơi xuống. Y nhặt nó lên. Phong bao đã trống. Thứ trong đó hẳn đã được truyền đi.
Lấy chăn cạnh bên, y đắp lên cho Tư Tư, rồi rời khỏi phòng.
Tiếng thở của cô gái rất khẽ, không thể vọng qua lớp cửa dày.
***
Cái tin lũy Phố Hài và toán quân cứu viện của dinh Bà Rịa cùng bị tiêu diệt làm chấn động cả vùng đất phương Nam. Phan Rí, đại bản doanh của quân Nam Hà đóng tại lãnh thổ Chiêm Quốc cũ – nay là phủ Bình Thuận, dày đặc quân canh từ bờ biển vào trong đất. Con sông chảy trước thành lũy cũ của triều đình Chiêm Thành chói ánh đao kiếm giữa ngày. Trên các pháo đài, ổ lũy, pháo đã sẵn sàng chĩa nòng về bốn phía. Voi ngựa lẫn người chộn rộn đi lại. Trên khuôn mặt người nào cũng mang một sắc thái trầm trọng như đang đón chờ bão tố.
Cai cơ Nguyễn Tân Lễ vẫn chưa cho lệnh xuất quân cứu viện Phố Hài. Dinh Bà Rịa sau trận thảm bại đã đóng cửa tự thủ, ban lệnh giới nghiêm cho cả Trấn Biên, Đông Phố. Đã có người đi liên lạc cùng Trấn Biên, nhưng e rằng phương cách điều hai đội quân làm thế gọng kềm khó có thể thực hiện được lúc này.
Ba viên tướng của Nam Hà bị giết chỉ trong vòng vài ngày, bởi một toán quân ‘man di’ của rừng núi chỉ có voi ngựa cùng dao rựa. Cầm đầu toán quân ấy là một kẻ ‘thần thông quảng đại’, ‘Ma vương’, ‘thần linh’, ‘phù thủy’… theo bất cứ cách gọi nào mà người ta có thể nghĩ ra. Câu chuyện một đồn mười, mười đồn trăm về kẻ xuất quỷ nhập thần, mình đồng da sắt, có tài hô phong hoán vũ đã hiệu triệu sấm chớp đến phá tan lũy Phố Hài, điều khiển thủy triều làm lũ nhấn chìm đội quân của Bà Rịa, đã lan khắp hang cùng ngõ hẻm. Càng ngày chuyện càng hoang đường kinh dị hơn, càng ngày càng khiến kẻ nghe chuyện phải lạnh lưng khiếp hãi hoặc say sưa mê cuồng. Kẻ phải đối đầu với y thì khiếp hãi, trong khi người mong chờ y đến thì say mê.
Những tin đồn nhảm chỉ trong vòng nửa ngày đã lan đi như lửa cháy. Chốc chốc lại có tiếng kẻng báo động đánh lên chỉ vì cây lay lá rụng, gió thổi cát bay. Những toán quân không chỉ canh phòng kẻ tấn công mà cả người trong vùng. Trong các paley, nhiều cái đầu đang tụ châu vào nhau, nhiều kế hoạch đang được vạch sẵn. Cũng như toán quân Nam Hà, người trong vùng đang chờ đợi.
Cai cơ Nguyễn Tân Lễ đã gửi tin cáo cấp về cho dinh Bình Khang, tăng cường canh phòng Phan Rí. Chủ tướng không có ý định cứu viện Phố Hài, quân lính thì thầm. So với việc điều quân đến một địa phương nhiều bất trắc để đối đầu với kẻ thần hay quỷ không rõ kia, đóng cửa thành giữ mình vẫn tốt hơn.
Sự căng thẳng càng lúc càng bị những lời đồn thổi đẩy lên cao như cát trong gió. Khi Chiêm Dao Luật đi qua toán quân cạnh cửa, bọn họ thậm chí không để ý đến nàng. Ăn mặc như một thiếu nữ Chiêm Thành, khăn lớn quấn đến ngang mắt, tay dắt theo một con dê trắng thồ sọt trái cây trên lưng, nàng trông tựa như người cung cấp lương thực cho nhà bếp. Nhưng lính đưa đường không dẫn nàng về phía nhà bếp mà tới thẳng bản doanh của tướng quân. Thành Parik vẫn còn giữ nguyên những dãy nhà gạch của cung điện cũ vốn đã quen thuộc với nàng từ lâu. Trong lúc chờ người vào báo, Dao Luật đưa mắt nhìn ngắm những hàng rào phòng thủ mà quân Nam Hà đã lập. Con dê bên cạnh nàng kêu be be vài tiếng như giục giã.
Trao con dê cho người lính canh, Dao Luật đẩy cửa vào trong. Nắng chỉ soi đến phân nửa căn phòng rộng. Ngồi trong bóng râm, trên chiếc chiếu mỏng, Cai cơ Nguyễn Tân Lễ nhìn nàng, không đứng dậy. Viên Cai cơ gật đầu đáp lời chào của nàng, ra hiệu cho nàng ngồi phía đối diện.
Lệ trong quân vụ không cho uống rượu, Nguyễn Tân Lễ đẩy cho nàng bình nước trắng chỉ thoảng mùi trà. Đôi mày rậm vẫn cau như muôn thưở, gương mặt đen sạm vì nắng gió của người tướng Nam Hà như thể bao giờ cũng có vẻ bực bội. Nhưng Dao Luật không lấy thế làm phiền lòng hay sợ hãi. Nàng rót nước ra cả hai chiếc ly, cúi người mỉm cười.
“Lâu không gặp, tướng quân.” Nàng nói, nhận rõ ánh mắt cảnh giác hướng về mình. Nguyễn Tân Lễ phát ra một thanh âm như cười trong cổ.
“Lần này cô Dao Luật đến lại định thuyết dụ ai đây?” Ngả lưng dựa vào tường, Nguyễn Tân Lễ nheo mắt nhìn cô gái mặc trang phục Chiêm Thành. Quả thật, nàng ta là người Chiêm Thành, viên tướng thầm nghĩ.
Đã lâu không gặp – Từ khi Nguyễn Tân Lễ bị chuyển về dinh Thái Khang, giữa trận chiến với Chân Lạp. Sau khi Mai Vạn Long bị biếm truất thành thứ dân, những viên tướng chủ hòa trong quân cũng bị đẩy về Thái Khang. Sau đó, việc tiếp tục lặp lại với toán quân do Nguyễn Hữu Hào chỉ huy. Tất cả chỉ vì cô gái này.
Nàng ta tiếp tục xuất hiện ở đây, hẳn chẳng phải là điều tốt lành.
Nghe câu hỏi, Dao Luật nhè nhẹ cười. Nàng nhìn lên, hướng về phía viên Cai cơ mà mỉm cười.
“Tôi đến thuyết dụ tướng quân.” Nàng nói với gương mặt không đổi sắc. Đôi mắt to đen huyền lại thoáng vẻ ấm áp thân tình. “Nghe thấy tướng quân ở đây, Dao Luật tình nguyện đề nghị được đến trò chuyện với tướng quân. Dù sao chúng ta cũng đã từng có chút ít giao tình ở Đông Phố. Tấm lòng của tướng quân, Dao Luật không bao giờ quên.
“Dao Luật càng không muốn tướng quân bị tổn hại.” Thấy đôi mày rậm của Nguyễn Tân Lễ cau chặt, Dao Luật lắc đầu, trầm giọng nghiêm trang. “Dao Luật không bao giờ quên những gì tướng quân đã nói trong thời gian ở Đông Phố. Dù khác nước khác chủ, Dao Luật vẫn kính trọng tướng quân là người tận tụy trung lương, làm hết chức trách của mình để bảo toàn cho kẻ dưới. Khi nghe đến tướng quân đang ở nơi đầu sóng ngọn gió, Dao Luật lại chỉ e ngại vì tướng quân cương liệt dũng mãnh như thế mà bị tổn hại.”
“Các người muốn gì?” Thở phì ra mũi, Nguyễn Tân Lễ ngắt lời Dao Luật. Khi nghe nàng ta báo danh muốn gặp, vốn đã biết trước sẽ phải nghe những lý lẽ dông dài này, Nguyễn Tân Lễ không buồn để tâm tới, chỉ nóng nảy hỏi ngay vào việc chính.
Dao Luật nhìn Nguyễn Tân Lễ. Trong ánh mắt của nàng lại thấp thoáng loại cảm xúc khó gọi tên ra.
“Kẻ đang lãnh đạo quân đội bên kia gọi là A Ban.” Nàng chầm chậm nói. “Cái tên A Ban thì tướng quân không biết, nhưng Ngô Lãng thì tướng quân có còn nhớ không?”
Nguyễn Tân Lễ chớp mắt. Rồi trái ngược với ý nghĩ của Dao Luật, viên tướng này lắc đầu.
“Đó là ai?” Nhìn vẻ mặt, nghe giọng nói Nguyễn Tân Lễ, quả thật anh ta không biết, hoặc không nhớ, cả hai cái tên này.
“Con nuôi của Hoàng Tiến ở lũy Rạch Năn.” Dao Luật nhẹ nhàng nhắc. Thấy nhận biết chợt sáng lên trong mắt Nguyễn Tân Lễ. Cau có cắn môi một lúc, viên Cai cơ “à” lên một tiếng ngắn.
“Gã ‘thiếu chủ’ đó?” Sau khi đụng độ, thậm chí Nguyễn Tân Lễ cũng không tìm hiểu về tên thanh niên đã xông vào lũy nọ. Có lẽ cái tên y đã từng được nhắc qua, nhưng anh ta cũng không để tâm mà ghi nhớ. Cúi mặt nhìn mấy ngón tay búng vào nhau hồi lâu, Nguyễn Tân Lễ chợt lắc đầu. “Ngô Lãng cái gì? Ngô với Hoàng cũng chỉ đồng âm khác gốc[1], chẳng qua là dựa vào mà đặt. Ngô Lãng cũng vậy mà A Ban cũng vậy, toàn là kẻ mượn danh làm càn.”
“Y vẫn còn sống và đang muốn trả thù tướng quân.” Bỏ qua mấy câu nói của Nguyễn Tân Lễ, Dao Luật nhắc. Nàng nói ngay trước khi Nguyễn Tân Lễ vừa mấp máy môi. “Y đã chiêu tập được từ bọn hải tặc đến người Thượng trong núi, khí thế ngày càng hùng hậu. Hai toán quân của Nam Hà bị diệt gọn ở Phố Hài cho thấy y cũng chẳng dựa vào mấy trò hô mưa gọi gió tầm phào mà làm được. Biết tướng quân ở đây, y càng quyết đánh hơn gấp bội, thề một sống hai chết với tướng quân.”
“Thì cứ đến đi.” Nhướn một bên mày, Nguyễn Tân Lễ thản nhiên nói. “Hay y chỉ mạnh mồm chứ trong lòng sợ hãi ta nên cử cô Dao Luật đến đây giả ma giả quỷ trước?”
“Ta ở đây bao nhiêu năm, có bao nhiêu kẻ thù, cô Dao Luật hẳn có muốn cũng chẳng đếm được đâu.” Nguyễn Tân Lễ cười nhạt, xua tay. “Đi đánh người còn trấn giữ trong đất người, bất cẩn đi lang thang ra ngoài, mỗi kẻ ném cho một nắm cát cũng đủ chôn ta xuống ba thước đất rồi. Ngay ở trong thành này, mỗi đêm không nghe quỷ khóc ma gào thì cũng là người đến làm loạn. Bây giờ có bị đâm chết trên mặt thành, ta cũng chẳng ngạc nhiên hay oán trách gì đâu.
“Chẳng qua, chức nghiệp của ta là như thế. Chúng dân, binh lính, chủ nhân, triều đình, ta có trách nhiệm với tất cả bọn họ. Chủ nhân hay triều đình có thể phụ ta, ta cũng có thể chẳng quan tâm gì lắm tới bọn họ. Nhưng một khi không có ta ở nơi này, ai sẽ bảo vệ binh sĩ thuộc hạ của ta? Một khi không có người trấn giữ nơi đây, ai sẽ phải chịu cảnh đầu rơi máu chảy ngoài chúng dân vô tội? Tất nhiên ta chẳng thể đứng ở đây cả trăm ngàn năm, nhưng nếu bảo vệ họ được một ngày, ta sẽ bảo vệ một ngày; bảo vệ họ được một năm thì ta sẽ đứng nơi đây một năm. Kẻ nào muốn đánh phá thì cứ phải giết ta trước.”
“Đất này nào phải của Nam Hà, thành này nào phải của Nam Hà, tướng quân hy sinh vì cái gì ở đây?” Dao Luật nhíu mày. Nguyễn Tân Lễ liếc nhìn nàng, rồi đẩy rộng cánh cửa bên cạnh nhìn ra sân nắng.
“Trên đất có người.” Viên tướng giản dị nói. “Những người lính này không phải ai cũng muốn đến đây. Họ đi theo đợt đinh, đợt phu, rồi bị đưa đến đây. Con cái nhà giàu được chọn chỗ êm ấm, chỉ lính nghèo mới bị đưa đến nơi sơn cùng thủy tận, tranh chiếm liên miên này. Nếu ta không bảo vệ họ, ai sẽ giữ được mạng sống cho họ đây?”
Chú thích:
[1] Cùng âm Ng, theo giọng Quảng Đông thì là họ Ngô, theo giọng Triều Châu thì là họ Hoàng.