Có lẽ do vội vàng, Sorasak đã quên lo lắng cho điểm mấu chốt: Hắn phải tìm kiếm nhóm người kia ở đâu?
Dù người liên lạc đã báo cho bọn hắn nơi ở của nhóm người Chiêm Thành, vùng rừng núi mênh mông chỉ có cây, đá và núi, lại không phải là nơi hắn quen thuộc; đi lạc vào càng khó xác định phương hướng, huống hồ là tìm đường. Do vội vã, Sorasak đã thúc hắn đi mà không đợi tin báo trả lời trong núi, cho rằng đến nơi rồi hắn sẽ tìm được người Thượng dẫn đường. Để rồi, rốt cuộc, hắn thấy mình đang ở một thung lũng xanh rì, không biết đâu là Nam là Bắc.
Những ngày này, các bản làng người Thượng lại bỏ trống. Họ rút vào trong núi, có thể là đi săn bắn, có thể là để tránh việc đang xảy ra. Từ ranh giới của Chân Lạp, hắn quyết định nhắm phía Đông Bắc mà tiến tới, leo qua hai ngọn núi, ba trái đồi thì đã thấy mình lọt giữa rừng hoang. Không có khói của một bản người Thượng, đến cả một bãi phân voi cũng chẳng thấy.
“Lạ nhỉ, họ vốn ở đây mà.” Một người Chân Lạp được Sorasak thuê làm dẫn đường cho hắn nhìn quanh thung lũng, nhăn nhó. Hắn nhướn mày.
“Ở đây?” Cỏ dưới chân mọc xanh rì, cao đến ngang ngực, cây lá đan dày, có cây to bằng mấy người ôm. Như thể không hề có dấu tích của con người, ngay cả từ vài năm trước. Có những bản làng Thượng sống di cư, mỗi mùa lại chuyển đi nơi ở mới.
“Mười năm trước, tôi đi qua vùng này.” Kẻ dẫn đường xác nhận nghi ngờ của hắn. Không thể nói gì thêm, hắn ngẩng nhìn trời. Bóng chiều đã xế, một đàn quạ đang bay ngang đỉnh núi. Bọn hắn đã ở giữa thung lũng, nếu đi lên thì nội trong một chiều cũng khó vượt qua được núi. Mà lúc này, hắn chẳng biết phải đi về hướng nào.
“Cắm trại ở lại đây.” Quan sát một lúc, hắn đành nói. Toán người xung quanh liền xuống ngựa, phạt cỏ cây mà hạ trại. Để tránh thú dữ tấn công, họ chặt cây làm chông cắm xung quanh, đốt lửa đỏ rừng. Bữa tối chỉ có lương khô và mấy con thú nhỏ họ săn được bên đường, may mà người đi theo hắn chỉ trên dưới ba chục tráng sĩ khỏe mạnh, chưa phải lo thiếu thốn bệnh tật. Ăn xong bữa tối thì bóng đêm đã buông dày, hắn leo lên một ngọn cây cao, quan sát phương vị của sao.
Để tránh đánh động người, bọn hắn đã đi về phía Đông Bắc Đại Thành, vòng qua vùng núi của Chân Lạp mà đến miền Thượng, rồi từ đó nhắm hướng Đông mà đi, mong tìm được người dẫn đường. Nhưng người trong núi còn thính hơn cả thú hoang, tránh xa những kẻ lạ đột nhiên xuất hiện. Sorasak trong lúc vội vã đã tìm cho hắn một người dẫn đường đến vùng này từ mười năm trước. Dù núi không có chân để chạy đi, cỏ cây mọc lên cũng đủ khiến kẻ vừa đi qua lạc dấu.
Nếu cứ không tìm được bản làng nào, bọn hắn có thể nhắm hướng Đông đi tới, thể nào cũng lần ra được về bờ biển. Nhưng đến lúc hắn tìm được đường trở vào, những người mà hắn có nhiệm vụ đi đón hẳn đã chẳng còn ai.
Tiếng quạ ở đâu đó lại kêu. Hắn đột nhiên nhớ tới Dao Luật và đàn quạ của nàng. Nếu có chúng ở đây thì thật là tốt.
Dao Luật? Nhíu mày, hắn nhớ tới những gì Sorasak đã nói trước khi đi. Người Chân Lạp cũng đến đón toán người này. Mà ngay cả nếu không liên quan đến sự việc đang xảy ra, quan hệ của người Thượng và Chân Lạp bao đời nay vẫn rất gần. Nếu không thể tự tìm bọn họ, hắn có thể ra hiệu cho bọn họ tìm tới?
Nghĩ vậy, hắn liền lấy ra cây sáo trúc sau lưng. Công lao vất vả của Mộc Long để dạy tên đầu gỗ như hắn cũng có đôi chút thành tựu sau mấy năm này. Không biết nhạc hiệu của người Thượng, hắn thổi một khúc nhạc Chân Lạp. Dùng khí lực mà thổi, trọng tiếng vang hơn là âm tiết, tiếng sáo của hắn vang vọng khắp các dãy núi đồi, lanh lảnh như tiếng chim kêu. Thổi đi thổi lại đến lần thứ mười, hắn buông sáo, tự nhủ rằng đã đủ. Dù không thể nhất thời tìm được người ngay lập tức, hắn vẫn có thể thử lại khi đi đường.
Nhưng hắn đã không nghĩ đến, trong núi, ngoài thường dân còn có bọn sơn tặc.
Vùng núi này, nơi giáp ranh của ba đất nước, nơi người từ mọi vùng đất đến tìm mua hàng hóa vật phẩm quý giá, đương nhiên cũng tồn tại các nhóm cướp. Nghe tiếng sáo, thấy ánh lửa, người trong núi có thể còn cân nhắc việc đến gần, bọn cướp thì nhất định phải tới.
Đến đêm, khu lều trại của hắn náo động. Khi đá lăn xuống từ khắp bốn phía núi. Những hòn đá vướng cỏ lá lăn qua hàng rào lửa ngoài trại liền bốc cháy rừng rực, trong chớp mắt đã hỏa thiêu cái lều chính giữa. Bọn ngựa được cột ở trong hoảng sợ hí vang, điên cuồng giật dây trói bỏ chạy. Các tráng sĩ phản ứng bình tĩnh hơn bọn ngựa, liền nhảy ra khỏi khu lều cháy, gạt các đoạn chông gỗ chất lên nhau chắn đường lăn của đá, tạo thành bức tường lũy nho nhỏ để ẩn.
Đá lăn một lúc rồi ngưng. Để tên rào rào bay xuống. Vốn đã có kinh nghiệm với các cuộc tấn công, bọn hắn đã căng tấm sàn lều đan bằng trúc phủ lên lũy, để nó thành nơi hứng tên. Hắn không lo bọn cướp bắn tên lửa hay thả trâu mang đao xuống thung lũng, vì mục tiêu của chúng là tài vật, hủy hoại bọn hắn chẳng để làm gì.
Chờ một lát, tên ngừng, quả nhiên tiếng hò reo dậy lên từ bốn phía. Những võ sĩ xung quanh rút đao cầm tay, hắn liền ngăn họ nhảy ra.
“Đợi đã.” Hắn nói khi nhìn qua tấm lũy gỗ thấy những bóng đen trên thân núi chạy về phía này. Lửa soi sáng một vài kẻ đi đầu mình trần, chỉ mặc mỗi một chiếc khố, mặt được vẽ đủ màu sắc dọa người. Voi cũng đang được xua xuống, giơ vòi gạt cành cây chắn đường. Trên lưng một con voi, một kẻ đang múa máy thanh đao sáng quắc, hò hét đám người xung quanh. Không nghi ngờ, đó là kẻ cầm đầu toán cướp.
Đợi chúng đến ở khoảng cách đủ gần, hắn lấy trong hành lý ra một viên pháo hoa, ném vào đám lửa ngoài trại. Loại viên pháo này được chế tạo đặc biệt, bên trong có thêm chục viên pháo con, gặp lửa liền nổ liên tiếp thành một đám lửa khói lớn, tia sáng bắn tung nghe rõ tiếng bay veo véo như rồng lửa khắp thung lũng. Đám người Thổ hoảng hốt bỏ chạy. Hắn liền rời khỏi chỗ nấp, cẩn thận ném thêm một viên pháo nữa vào lửa, ẩn mình trong khói pháo mà lao đến con voi cũng vừa đặt chân xuống viền đồi đang hoảng sợ cuốn vòi.
Ánh kiếm lướt qua bóng tối như tia chớp sáng rạch đôi màn đêm. Tựa như quỷ thần, hắn đã kề kiếm vào cổ người trên bành voi, mỉm cười.
“Gặp được người, thật là tốt.” Hắn chỉ chờ có người tới, bất kể có là sơn tặc hay dã nhân.
Nhưng nếu còn điều gì xui xẻo hơn lạc đường, thì là toán cướp mà hắn tóm được cũng là dân nơi khác đến.
Chúng ta mới đến đây, tên đầu đảng kêu rên bằng tiếng Chân Lạp, dập đầu như tế sao. Gã cũng chưa từng nghe đến địa điểm mà hắn bảo, chẳng biết nơi nào ngoài vài dặm núi xung quanh. Cuối cùng, qua nửa ngày vắt óc suy nghĩ, đàn em của gã nhớ ra được một bản làng người Thượng gần đó, liền xung phong dẫn bọn hắn tới. Không còn cách nào khác, bọn hắn đi theo gã.
Con đường, nếu có thể gọi là như thế, mà đám sơn tặc đi quả nhiên cực kỳ quái dị. Trèo qua một ngọn núi nữa, bọn hắn phải đi cắt ngang đám rừng xanh um giơ tay không thấy bóng trước mặt. Càng lên cao, sương mù trong núi giăng mờ mịt, khí hậu lạnh dần. Khi tên sơn tặc chỉ cho hắn đám khói bốc lên từ ngôi làng bên kia một ngọn đồi cao, chiều đã buông xuống. Một người trong đoàn nôn nóng muốn chạy lên trước, hắn liền cản lại. Tìm lấy một tảng đá to cỡ thân người, hắn lăn nó xuống triền núi. Đá lăn đến nửa chừng đồi, bỗng nghe tiếng ‘Phựt’ nho nhỏ từ trong cỏ. Bộ chông lớn dài mấy thước bật lên, đâm vào hòn đá nghe tiếng cạ rợn người.
“Xung quanh làng thường có bẫy.” Hắn lắc đầu mà nói. Mỗi ngôi làng trong núi thế này thường chỉ có một lối vào, còn lại là bẫy rập được cài đặt bốn xung quanh. Bọn hắn đi theo sơn tặc mà đến, không biết đường lối dễ rước lấy họa sát thân.
“Ta không biết, ta chỉ dẫn các người đến đây thôi!” Tên sơn tặc thấy thế vội nói, nhảy ra sau định lủi đi. Hắn chỉ gật đầu, lấy cây sáo sau lưng, lại thổi một bản nhạc. Nghe tiếng bẫy sập, nghe thanh âm của con người, hẳn người làng sẽ ra.
Bọn hắn không phải đợi lâu. Nghe tiếng sáo Chân Lạp, một người Thượng luống tuổi biết tiếng Chân Lạp cùng với vài thanh niên liền đi tới. Sau khi biết bọn hắn lạc đường, họ xởi lởi mời vào bản.
Đi qua ngọn đồi, hắn mới nhận ra bản làng này lớn hơn hẳn hắn nghĩ. Họ vỡ đất làm một khoảng ruộng mênh mông bên bản, những triền đồi xanh màu trà và các loại rau. Hoa nở khắp nơi, nhiều nhất là thứ hoa bụi vàng rực. Sau bản là một khoảng đất rộng, cất chừng mấy chục căn chòi lớn nhỏ. Thấy thấp thoáng bóng vài chiếc áo trắng của người Chiêm, hắn mừng rỡ nhận ra mình đã tìm đến đúng nơi.
“Họ chia nhau ở tạm trong các bản.” Thấy hắn và các võ sĩ đều nói tiếng Chân Lạp, Đại Thành, người đàn ông hướng dẫn không cảnh giác, gật đầu nói khi hắn ướm hỏi. “Ở đây có ít người thôi.”
“Người cầm đầu của họ đâu?” Hắn nhìn quanh, ra vẻ tò mò mà hỏi. Bọn hắn đường đột đến, người nơi này chưa hẳn đã biết hắn là ai.
“Đi rồi.” Người kia cũng chỉ nói ngắn gọn. Hỏi thêm một lúc, hắn chỉ biết rằng một vài người chủ chốt ở nơi đây đã có việc phải rời khỏi bản, mấy ngày nữa mới quay lại.
Thì thôi, đợi mấy ngày nữa vẫn tốt hơn là ngơ ngác lạc đường giữa rừng mà tìm bọn họ, hắn nghĩ thầm, liền xin nghỉ lại vài ngày trong bản. Nhóm bọn hắn được đưa đến khu chòi của nhóm người Chiêm Thành kia, trong khi ngựa được chuyển về lán trại chung của bản.
“Xin lỗi,” Người đưa đường nói khi dẫn bọn hắn vòng qua chân đồi, đi ngang ruộng để đến khu chòi. “Hiện thời người lạ không được vào bản.”
Hắn vừa định gật đầu đáp lễ, một quả cầu kết bằng hoa đã bay từ đỉnh đồi xuống rơi đúng vào hắn. Hắn chụp lấy quả cầu, đưa lại cho đám trẻ con í ới chạy theo. Nhìn lên triền đồi, hắn thấy mấy cô gái bản cũng đang vạch lùm cây trông xuống người lạ vừa tới. Không muốn phiền phức thêm, hắn vội đưa toán người của mình về chòi.
Tuy vậy, đến đêm, hắn đã nhận thấy trong đoàn thiếu mất vài người. Đám lửa giữa bản vẫn còn chưa tắt, người xung quanh đã vãn đi. Dù bọn hắn không được vào bản, các cô gái trẻ bạo gan vẫn đến chòi của khách để làm quen. Theo những gì hắn quan sát được, những người Chiêm Thành ở các chòi bên cạnh cũng không phải dạng người thường. Đến nơi này, họ vẫn mặc vải tốt, đeo vàng sáng tay chân, ăn thịt uống rượu do chính người trong bản đem tới. Không biết tiếng Chiêm để lân la bắt chuyện với họ, cũng chẳng biết tiếng Thượng để hỏi han người xung quanh, hắn chỉ có thể nhìn họ mà phỏng đoán trong thời gian chờ đợi. Những cô gái Thượng lại tỏ vẻ thích thú với các võ sĩ tráng kiện hắn đem theo hơn là các quý tộc xa cách nọ. Còn bản thân hắn, sau khi soi vào nước, đã hoàn toàn yên tâm với bộ dạng râu tóc tua tủa, áo quần rách rưới sau những ngày đi rừng, nhìn xa khó mà phân biệt với dã nhân.
Nhưng mang lớp bùn đất bám từ đầu đến chân thì chẳng hề dễ chịu. Đợi đến lúc tối khuya, hắn lần ra con suối cạnh làng tắm rửa. Ngày đầu tháng không trăng, đất trời tối đen, chỉ có cái đèn nhỏ bằng quả trứng bỏ mấy con đom đóm soi đường cho hắn. Khi hắn tắm xong lên bờ, cái đèn đom đóm đã bị gió thổi tạt đi, đom đóm bay hết từ lúc nào.
Trong bóng tối, giác quan hắn lại linh mẫn lạ thường. Trong tiếng gió rừng xào xạc, hắn nghe có tiếng chân đang đi đến. Tiếng chân rất nhẹ, tiếng thở cũng rất mỏng, hương trầm thơm theo gió thoảng tới như thể đó là một cô gái. Hắn không cảm thấy sát khí từ cô ta. Cô ta cũng đứng lại trong bóng tối, thở ra nhè nhẹ, như thể phân vân nên tiến tới hay thoái lui.
“Ai đó?” Tuy vậy, hắn vẫn lên tiếng hỏi, dù cho rằng ở đây không ai hiểu ngôn ngữ hắn dùng. Hắn chỉ đánh tiếng cho cô gái bên kia biết sự nhận biết của mình, chờ đợi cô ta phản ứng.
Hắn chờ đợi tiếng cười tinh quái của một cô gái Thượng, nhưng cô ta cứ đứng yên. Yên phăng phắc. Hắn thậm chí không nghe được hơi thở của cô ta. Cũng không để tâm thêm, mặc xong quần áo, hắn về chòi đi ngủ.
Mấy ngày đường mệt mỏi khiến hắn ngủ say như chết đến trưa hôm sau. Buổi tối, người đàn ông biết tiếng Chân Lạp trong bản đến, báo cho hắn rằng trưởng bản muốn gặp, dẫn hắn vào một ngôi nhà trong bản. Bản làng này theo mẫu hệ, trưởng bản hiện thời là một bà già khắc khổ trông gần như đàn ông. Bà vừa từ buôn làng bên trở về. Không tiện nói nhiều khi phải qua một người phiên dịch, hắn trình bày ngắn gọn về bản thân và mục đích của mình đến tìm trưởng nhóm của người Chiêm Thành. Sau một hồi trò chuyện, bà lão gật đầu, hứa sẽ ngay lập tức cho người đến báo tin với ‘anh Cả’ – Một thứ tên gọi hẳn đã được dịch qua nhiều tầng ý nghĩa, hắn nghe như mật danh.
Trong lúc trò chuyện, bà lão trưởng bản mang rượu ra mời. Rượu vùng núi cất bằng lá rừng, vị cay cay nồng nồng là lạ. Vốn tự cho mình có tửu lượng cao, hắn không khách khí uống hết hai ché rượu nhỏ, đến lúc đứng lên từ giã bà lão mới thấy chân mình nhẹ bỗng, đầu gối như rủn ra.
“Anh say rồi, cứ ngủ lại đây.” Tiếng người dẫn đường vang trong tai, khi trước mắt hắn đột nhiên tối sầm. Hình ảnh cuối cùng mà hắn thấy chỉ là lửa trong lò cháy rừng rực giữa nhà.
Lạc Lạc thang… Trong tâm trí mơ màng, ý nghĩ ấy chợt trở về, cùng một tiếng nói ngày càng rõ: Đồ ngốc này, người ta cho gì uống nấy hay sao?
Kẻ ngốc thì không phải là người xấu. Lần đầu tiên gặp hắn, nàng cười. Tiếng cười thanh thanh. Ngay cả hoàn thuốc nàng ném cho hắn cũng thơm thơm mùi hoa.
Hắn vẫn còn cảm thấy mùi hoa ấy quẩn quanh trong cổ họng khi chớp mắt tỉnh thức. Bóng tối vẫn ken dày trên mái xà cao của ngôi nhà trong bản. Lửa trong lò vẫn cháy sáng. Nhưng không còn mùi gia súc được nuôi dưới sàn nhà ngai ngái, gian nhà lúc này lại thơm nồng. Hắn nghe tiếng bạc khua khe khẽ khi một bóng người tiến tới gần, ngồi xuống bên cạnh. Bước chân, hương thơm lẫn khí tức của người vừa tới khiến tim hắn gần như nhảy lên cổ họng.
“Như Yên…” Dùng hết sức để quay đầu về phía nàng khi thân người đã cứng tựa một súc gỗ, hắn chớp mắt, gọi mà không kịp nhìn. Cảnh vật trước mắt hắn nhòe nhoẹt như lọc qua một màn sương, chênh chao như nằm dưới lòng nước. Thân thể hắn tựa như đang trôi bồng bềnh giữa không khí, như không còn thuộc về hắn, một cái nhấc tay động chân cũng muôn vàn khó khăn.
Hắn chỉ nhìn thấy một bóng người mờ nhạt. Tóc dài, áo đen thẫm pha sắc đỏ, nàng ta như lẫn vào với bóng tối và ánh lửa không ngừng lay động. Tựa cằm lên gối, nàng quan sát hắn như thể chờ đợi xem hắn sẽ làm gì.
Hắn chớp mắt thêm nhiều lần nữa, nhưng màn sương chẳng chịu tan đi. Trong lúc đó, cô gái vẫn nhất quyết im lặng. Nàng không phản ứng với cái tên hắn vừa gọi, cũng chẳng định nhấc một ngón tay chạm vào hắn. Nàng chỉ nhìn hắn, lặng im.
“Xin lỗi.” Cuối cùng, hắn nhắm mắt, trấn tĩnh lại. Nàng làm sao có thể xuất hiện ở nơi này, phần còn tỉnh táo trong hắn tự nhắc. Thứ hắn thấy hẳn chỉ là một ảo giác của bản thân, một giấc mơ thi thoảng vẫn trở lại. Như người mộng du, hắn thì thầm với cái bóng của nàng. Cái bóng yên lặng xa cách, ở trước mắt mà diệu vợi không thể chạm tới. Như nàng trong những giấc mơ. “Xin lỗi, ta đã bảo rằng sẽ đưa tay cho nàng, vậy mà cuối cùng không làm được.”
Hắn thử cử động những ngón tay tê cứng, rốt cuộc cũng thất bại. Những ngón tay hắn giật lên, rồi lại rơi xuống bên người.
“Ta bảo sẽ nhất quyết đưa tay cho nàng, cuối cùng lại bỏ đi. Ta nói sẽ bao dung với nàng, gánh đỡ cho nàng, cuối cùng lại không làm được.” Nỗi bất lực từ những ngón tay lan đến tim hắn gần như ngạt thở. Hắn mở mắt trừng trừng nhìn cái bóng trước mặt, nói như một kẻ say. Nói như sợ cái bóng của nàng lại biến mất. “Nhưng mà… ta đang xây một ngôi làng lớn, một căn nhà lớn. Nhà có ao, có vườn cho nàng trồng hoa, chăn vịt. Có biển, có núi, có rừng. Đến khi nàng tám mươi tuổi, không còn có thể chạy quanh nghịch phá nữa, ta sẽ có một căn nhà cho nàng thả vịt, trồng hoa…
“Nếu tận năm tám mươi tuổi nàng mới chịu đến đó, cũng được. Nàng lấy bao nhiêu người chồng, có bao nhiêu đứa con, cũng cứ đưa chúng đến.” Mắt cay rát, hắn đành phải nhắm lại, tiếp tục nói như mộng du. Những điều này, hắn đã nhắc đi nhắc lại trong những giấc mơ. “Lúc ấy, nàng mất nhà, ôm lấy ta mà khóc. Ta đã muốn cho nàng một căn nhà. Ta đã luôn muốn cho nàng một căn nhà. Chỉ có vậy thôi…”
Những ý nghĩ chỉ tồn tại trong mộng mị. Những lời nói mà hắn chỉ có thể thốt ra trong những giấc mộng hoang đường. Xin lỗi, hắn lặp đi lặp lại trong bóng tối, khi bóng tối lại đổ ập vào tâm trí, trong khoảng trống hoang mang lặng im bao phủ. Bóng người bên cạnh hắn vẫn bất động, lặng thinh.
Khi hắn mở mắt lần nữa, đêm vẫn chưa qua. Lò lửa vẫn cháy, tuy ánh sáng không còn như hồi chập tối. Tiếng chim ríu rít kêu đầu dòng nước báo hiệu bình minh sắp đến. Trên người hắn đã được đắp một tấm chăn dày. Hắn hất chăn ngồi dậy, ngọn gió thổi qua khe cửa hẹp mang theo mùi hoi của gia súc phả vào. Đầu hồi, cô hầu nhỏ ôm lồng ấp bằng đất ngủ gục, mái tóc dài xõa xuống mặt. Ngơ ngác nhìn cô ta hồi lâu, hắn im lặng bước xuống thang nhà.
Sương ướt đẫm đồng cỏ dưới chân, rớt tí tách từ những cành lá là đà ngả xuống trên đầu hắn. Phía bên kia núi, bầu trời đang dần chuyển sắc tựa màu loang. Bầu trời dần sáng lên sắc xanh lam, đất mờ trong hơi khói. Những cụm hoa rừng xòe cánh trong sương, tỏa hương thơm ngai ngái. Bên đồi, một triền cỏ xanh mượt như nhung chợt lọt vào tầm mắt hắn. Không vội trở về chòi, hắn bước lên đồi, ngồi trên trảng cỏ mà ngẩng nhìn bình minh đang tới. Gió se sắt lạnh, thổi qua hắn từng đợt ran rát mắt. Lồng ngực vẫn còn thấy nằng nặng, hắn liền rút sáo ra thổi. Chẳng phải vì hắn yêu âm nhạc đến mức ấy, chỉ là làm theo lời Mộc Long mà ‘điều chỉnh khí tức’. Những năm tháng này, hắn thường có những khoảng thời gian nặng nề đến mức chỉ muốn gào hét lên, Mộc Long liền dúi cho hắn cây sáo. Hò hét thì giống thằng điên, tập trung khí lực thổi cho bay hết phiền muộn tốt hơn, một công đôi việc. Sau khi làm gãy chừng chục cây sáo, hắn rốt cuộc cũng hiểu ý ông.
Tiếng sáo lảnh lót cất lên trong sương sớm nghe như tiếng cuốc kêu, khiến đàn chim nấp trong cây hoảng hốt bay tứ tán. Vẫn giữ một cao độ chót vót bất thường, tiếng sáo vang xa, rung lên như ngàn giọt sương đang rơi xuống, tan vỡ thành ánh sáng. Ánh sáng bừng lên từ phía chân trời, được lọc qua muôn muôn vạn vạn giọt nước trong suốt như thủy tinh. Sương đang bốc mù, quện với nắng hắt thành dải màu trăm sắc bồng bềnh lay động giữa không trung. Bên kia đồi, dòng suối lặng lẽ trôi, hắt lên dải ánh sáng tựa như vết nứt vỡ trên mặt đất. Bên kia núi, bầu trời chợt như nứt vỡ để ánh sáng đổ xuống, chảy tràn.
Tiếng sáo đột ngột ngừng ở một trường âm cao đến chói tai. Hắn cúi đầu tránh tia nắng rọi qua kẽ lá rơi đúng vào mắt. Cơn ngầy ngật của bữa rượu đêm qua vẫn còn trong cổ, vương lại hương hoa đắng ngắt.