Solitude

Cảnh như thị, nhân như thị

Tựa Truyện Kiều
Friday, December 23, 2011 Author: Trường An

Trong trời đất đã có người tài tình tuyệt thế, tất thế nào cũng có việc khảm kha bất bình. Tài mà không được gặp gỡ, tình mà không được hả hê đó là cái căn nguyên của hai chữ đoạn trường vậy. Thế mà lại có kẻ thương tiếc tài tình, xem thấy việc, trông thấy người, thì còn nhịn thế nào được mà không thở than rền rĩ!

Nghĩa là bậc thánh mới quên được tình, bậc ngu không hiểu tới tình, tình chung chú vào đâu, chính là chung chú vào bọn chúng ta vậy. Cho nên phàm nhân đã ít tình, tất là không có tài, chỉ nửa lòa nửa sáng, sống chết trong vòng áo mũ, trong cuộc no say, dù có gặp cái cảnh thanh nhã như hoa thơm buổi sáng, trăng tỏa ban đêm, cũng chỉ trơ trơ như cây cỏ, như cá chim vậy!

Còn đến bậc tuyệt thế tài tình, mặt ngọc vẻ hoa, lòng gấm miệng vóc, ngâm thơ liễu nhứ[1], nổi tiếng đài gương vịnh phú ngô đồng[2], khoe tài ấn bút, nếu một bậc quán tuyệt thiên thu[3] như thế, lại gặp được bậc chân chính tài nhân, kết duyên tác hợp[4], khi thơ ngâm hoa nở, khi đàn gảy trăng lên, nguồn ái ân trọng nghĩa trăm năm, truyện phong lưu chép thành một lục, người đương vào cảnh ấy đã không gặp phải nỗi khảm kha bất bình, thì người truyền lại việc ấy còn phải đặt ra truyện Đoạn trường tân thanh làm gì!

Chỉ vì dịp may dễ lỡ, việc tốt thường sai, tiếng hoàn lạnh ngắt, còn trơ bóng trúc lung lay mặt ngọc vắng tênh, chỉ thấy đào hoa hớn hở. có tài mà không gặp được tài, có tình mà không tả được tình, tài tình đã tuyệt thế, gặp toàn bước khảm kha, há không phải là con Tạo đang tay ách người quá lắm ru? Ấy chính là truyện Đoạn trường tân thanh vì đấy mà làm ra vậy.

Truyện Thúy Kiều chép ở trong lục Phong tình, ta không cần bàn làm gì. Lục Phong tình cũng đã cũ rồi, Tố Như tử xem truyện, thấy việc lạ, lại thương tiếc đến những nỗi trắc trở của kẻ có tài, bèn đem dịch ra quốc âm, đề là Đoạn trường tân thanh, thành ra cái lục Phong tình thì vẫn là cái lục cũ, mà cái tiếng Đoạn trường thì lại là cái tiếng mới vậy. Trong một tập thi chung lấy bốn chữ "Tạo vật đố tài" tóm cả một đời Thúy Kiều: khi lai láng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc; khi nỉ non tiếng nguyệt, khách dưới đèn đắm khúc tiêu tao; khi duyên ưa kim cải, non bể thề bồi; khi đất nổi ba đào, cửa nhà tan tác; khi lầu xanh, khi rừng tía, cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải nghĩ càng tê lưỡi. Vui, buồn, tan, hợp, mười mấy năm trời, trong cuốn văn tả ra như hệt, không khác gì một bức tranh vậy.

Xem chỗ giấc mộng đoạn trường tỉnh dậy dậy mà căn duyên vẫn gỡ chưa rồi; khúc đàn bạc mệnh gảy xong, mà oán hận vẫn còn chưa hả, thì dẫu đời xa người khuất, không được mục kích tận nơi, nhưng lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thắm trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột. Thế thì gọi tên là Đoạn trường tân thanh cũng phải.

Ta nhân lúc đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng: Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, thì tài nào có cái bút lực ấy. Bèn vui mà viết bài tựa này.

Thúy Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Như tử làm truyện Thúy Kiều, việc tuy khác nhau mà lòng thì là một; người đời sau thương người đời nay, người đời nay thương người đời xưa, hai chữ tài tình thật là một cái thông lụy của của bọn tài tử khắp trong gầm trời và suốt cả xưa nay vậy.

Ta lấy một thiên mực nhạt, xa viếng nàng Kiều, tuy lời văn quê kệch, không đủ sánh với bức giao thiên, song đủ tỏ ra rằng cái nợ sầu của hai chữ tài tình, tuy khác đời mà chung một dạ. May được nối ở đằng sau quyển Tân thanh của Tố Như tử, cùng làm một khúc đoạn trường để than khóc người xưa.

(Tháng hai, niên hiệu Minh-Mệnh, viết ở Thán hoa hiên đất Hạc giang.
Tiên phong, Mộng liên đường chủ nhân)



Chú thích:

    1. Tạ Đạo Uẩn ngâm thơ liễu nhứ
    2. Mạnh Hạo Nhiên vịnh cây ngô đồng
    3. Vượt hơn tất cả xưa nay
    4. Bởi chữ "thiên tác chi hợp" ở kinh trời xe duyên vợ chồng

Bài tựa Truyện Kiều bằng Hán văn do Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân viết, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim dịch, in ở đầu quyển Truyện Thúy Kiều, Vĩnh Hưng Long thư quán xuất bản ở Hà Nội năm 1925.




Vườn xuân lan tạ chủ
Wednesday, November 30, 2011 Author: Trường An

Năm mươi năm về trước, du khách ở vùng Thanh Hóa thường khi đi qua chỗ bến đò Ái Sơn, về hữu ngạn con sông Mã, nhận thấy ở vệ đường tay mặt một khoảnh vườn độ bốn, năm sào, xung quanh trồng toàn một thứ tre đằng ngà.

Đáng chú ý nhất là cái cổng kiến trúc theo lối cổng bên Phù Tang hải đảo. Nếu khách biết chữ Hán và đọc được chữ thảo Bát hiền đại chủ đời Thanh, thời khách nhận thấy ba chữ tên biệt thự viết phỏng theo lối chữ Tăng Quốc Phiên. Trên cái nền bằng gỗ lim sơn màu "cấn rượu", ba chữ thếp vàng "Túy Lan Trang" như hoạt động trên miếng bạch thạch cẩn vào gỗ đỏ.

Chủ nhân "Túy Lan Trang", một vị hưu quan, từ ngày được nộp lại triều đình chiếc ấn vàng, lui về chỗ huê viên, thường để hết thời giờ vào việc vun trồng, chăm chút một thứ lan rất quý, tìm tận ở Yên Tử sơn, hồi còn tại chức nơi tỉnh Đông ngoài Bắc. Hoa xưa kia, quen cái khí hậu nơi đỉnh núi cao; nhất đán hoa về nơi đồng bằng, hoa không khỏi một phen rầu rĩ với ngày nắng hạ, đêm sương thu chỗ xứ lạ mà lá úa giò gầy. Sớm, chiều hai buổi thăm hoa, chủ nhân lan viên chỉ lo hoa kia chẳng ở mãi với mình, mà cái công ngàn dặm chọn đất lành bọc cỏ quý quảy về quê hương sẽ lấy chi đền chuộc lại. Sau một hồi tàn tạ giữa lan viên, hoa lại bắt đầu cười với gió xuân về. Thoảng mùi lan đượm, ngắm lá lan xanh rờn trên mấy hàng chậu sứ túy lan lớp đất phủ lần vỏ sò cùng hòn cuội trắng, chủ nhân như sống một cảnh đời mới. Rồi lan kia như cảm tình người tri kỷ, ngày một thêm hoa và chả mấy chốc chủ nhân phải lùi lầu trang về một mé huê viên, nhường nơi đất tốt cho cỏ quý nẩy ngọn thêm cành.

Chủ nhân lấy luôn tên giống lan đặt làm tên biệt thự, ngụ cái ý yêu hoa và tỏ cho khách qua đường biết vườn nhà đầy cỏ lạ.

Nhớ đến lời sư Cụ chùa Quỳnh Lâm vùng tỉnh Đông dặn lại sau khi cho giống lan, mỗi bận xuân về, sớm sớm, chủ nhân lại phải cho cả vườn Túy lan say với hơi rượu thời cái vương giả hương ấy mới còn ở với người thế gian. Ngày xuân phải bón lan bằng hương rượu, chủ nhân rất lấy làm sung sướng được gần vùng cất rượu ngon có tiếng ở châu Thang là làng Vĩnh Trị. Ái Sơn đối ngạn Vĩnh Trị và đứng ở Túy Lan Trang trông rõ đê làng Vĩnh Trị. Những buổi sớm mùa xuân, mặt nước con sông Mã phẳng lặng như tờ, lại lăn tăn làn sóng nhỏ do mái chèo đập làn nước của một chiếc thuyền nan bơi từ bến ái Sơn sang bến làng Vĩnh Trị. Bọn người sinh nhai chỗ duyên giang, dậy sớm đứng trên mạn thuyền để thở cái không khí trong sạch bình minh vui cười bảo nhau:

"Lại thuyền cô chiêu Tần bên Túy Lan Trang qua Vĩnh Trị lấy rượu cho hoa!".

Phải, cô chiêu Tần - con gái ông chủ vườn Túy Lan Trang đi lấy rượu về bón huê đấy!

Quan án Trần, vì cái thích chơi hoa, phải giảm những sự chi dùng trong nhà để có đủ tiền đặt thứ "rượu khê" cho hoa lan, trị giá hai quan một vò bên làng Vĩnh. Mà mỗi sớm, chèo thuyền đi lấy rượu theo lời cha dặn, cô chiêu Tần đã diễn ra trên dòng nước sông Mã một cái cảnh tượng giống như trong tranh thủy mặc của người Tàu. Một người con gái mà cái dáng điệu dịu dàng đã in theo khuôn nhịp chốn đài trang, tóc búi cánh phượng, áo mặc rộng tay màu thiên thanh, chân đi dép cỏ mà lại thực hành một cái ý nghĩ chan chứa màu thơ - ngày xuân cảnh sớm, bơi thuyền lấy rượu cho hoa - đủ làm cho lãng tử được thấy cái đẹp ấy phải đưa mình vào mộng.

Vươn mình trên con bạch tuấn, cậu ấm Hai nghì cương, xuống yên, buộc ngựa vào gốc thùy dương, rồi đi tản bộ đến một cái quán dựng trên đê. Ngồi trên bệ đắp bằng đất sét, cậu ấm Hai như chờ đợi một người và muốn giết thời giờ, luôn tay phe phẩy cái roi ngựa làm bằng cành liễu khô bẻ ở cổng huyện Đông Sơn là nơi người cha ngồi chức Huyện úy. Cậu ấm Hai ngồi chờ cô chiêu Tần đi lấy rượu về. Ngồi đợi người yêu lâu quá sức đợi và khi cúi mặt nhìn nền mặt đất chực chỗ quán nước, cành liễu khô đập luôn luôn vào đôi má chiếc giày tàu bằng nhung đen đế gai xe tám sợi, không đủ cho người quên hết những ý nghĩ về thời gian một khắc một chầy, cậu ấm Hai lại cất mình lên ngựa cho khuây khỏa nỗi lòng khi vắng bạn. Con bạch tuấn được lỏng cương vế, cũng uể oải lê bốn vó trên đường. Vó câu một bước lại dừng, con bạch tuấn còn mê man những đám cỏ non của ngày xuân phủ kín mặt đê dài. Rồi vẳng tiếng hát nơi đầu sông đưa lại. Cậu ấm Hai nhận thấy được tiếng người quen, gò đôi cương nâng cao đầu ngựa trắng; lỏng tay buông tay khấu, lần bước dặm đê, ngựa đã từ từ đi xuống nơi dốc chỗ bến đò. Cậu ấm Hai, cô chiêu Tần cùng nhau thi lễ: người xuống ngựa, khách dừng chèo, nơi giang đầu lại có cái cảnh tượng như hệt cảnh tả trong bài thơ của Bạch Lạc Thiên.

- Xin lỗi công tử đã dầy công chờ tiện nữ. Dưới Nguyệt viên vào đám, đặt nhiều rượu ở bên Vĩnh Trị, nên hôm nay qua lấy rượu cho lan phải đợi lâu. Vậy công tử sang bản trang từ bao giờ?

- Án từ nơi huyện đã xong nên bữa nay gia nghiêm muốn qua Túy Lan Trang xem hoa nở. Gốc trầm Quảng Nam buộc ở đầu ngựa này sẽ dùng để đốt lên trong khi lệnh nghiêm và gia nghiêm cho phép tiểu sinh ngồi trì hồ.

- Quan Lệnh doãn cho công tử mang trầm qua Túy Lan Trang như mỗi lần hội diện cùng gia nghiêm, thời bên bàn rượu, trước những giò lan nở, tiện nữ lại một phen được nghe lại tiếng đàn thập lục của công tử.

Quan Lệnh doãn huyện Đông Sơn là bạn thân và là khách quý của quan án Trần bên Túy Lan Trang. Ngày còn làm kẻ thư sinh, hai ông già ấy, đã cùng thi một trường, thụ giáo một thày và xuất thân cùng một hội. Sóng nước bể hoạn, tuy không làm chìm đắm nổi khách công danh trong khoảng mấy chục năm trời, nhưng cũng đã làm cho hai người đòi phen tơ tưởng lúc xa nhau. Hoạn hải từ ngày thuyền buộc bến, quan án Trần về ở Túy Lan Trang, cho là một cái diễm phúc được vui tuổi già gần người cố hữu. Rồi muốn cho cái tình thân ấy được thân hơn một bực nữa, đôi bạn già ngỏ ý cho nhau rõ rằng sẽ đi lại với nhau bằng cái tình thông gia gây nên bởi cuộc phối hợp nay mai của hai trẻ. Đều là người hiểu rõ cái lẽ sự vật trên thế gian, hai ông già không chịu uốn mình theo lề thói giả dối và thực hành cái luân lý khổ khắc với đôi trẻ thơ. Cho nên còn ở cái thời kỳ vị hôn phu và vị hôn thê mà cậu ấm Hai cùng cô chiêu Tần thường được gặp nhau và trò chuyện. Nếu cuộc đời cứ theo cái nhịp êm đềm mà đưa đôi già, đôi trẻ ấy đi với ngày lụn tháng qua, thời chân hạnh phúc của con người ta, tạo hóa có lẽ dành riêng cho nhà họ Trần và nhà quan Lệnh doãn Đông Sơn. Lạc thú hai gia đình ấy ví có thời mé lầu Túy Lan Trang bày chi thiên lệ sử; khách tài tình phỏng ngàn năm không để giận thời giống lan kia, còn cợt mãi gió xuân về! Nếu hầu hết những hạnh phúc đều giống nhau ở chỗ ấm cúng, êm đềm, đầy đủ thời mỗi nghịch cảnh lại có bộ mặt riêng tùy theo cái đau đớn của người trong cuộc.

Năm Ất Dậu, đời vua Đồng Khánh, vùng Hoan Ái phải qua cơn binh lửa gây nên bởi loạn Văn Thân. Cũng có người lấy danh nghĩa mà dúng tay vào công cuộc phá hoại; nhưng vứt đâu cho hết những kẻ lợi dụng thời cuộc, làm cho thỏa thích lòng dục trong lúc giao thời trắng đen không tỏ rõ. Cái thời loạn! Mà thời loạn thời trai thời loạn chứ sao? Cô chiêu Tần sống vào buổi non sông mờ cát bụi, đã đành trông ngóng cái thời bình. Cậu ấm Hai gặp lúc loạn ly, không những không có thủ đoạn của kẻ làm trai thời loạn, mà còn tỏ cho người thời ấy biết rằng một kẻ thư sinh chỉ có cái tâm hồn lãng mạn là một người chọn lầm thế kỷ. Chọc trời khuấy nước, trong khi người ta ham chuộng cái sức khỏe mà chỉ biết có ngón đàn, hiểu có hồn hoa, thời ở tâm người tài tử, buồn, tủi, cực đến dường nào! Trước những cái tin máu, xương thành sông núi, trăm họ bị làm cỏ, hai trái tim thơ ngây, của cô chiêu Tần và cậu ấm Hai, đều đập chung một điệu hãi hùng. Riêng về phần quan án Trần, thời thân già đã không lấy làm quan tâm đến vóc xương khô, còn những lo cho hoa, làm sao ngăn nổi gót chân đám người ô hợp nếu một mai chúng tràn đến.

Quan Lệnh doãn Đông Sơn lo việc tuần tiễu quân nghịch cũng thưa đi lại trên quan án Trần. Nơi Túy Lan Trang, hoa thường vẫn nở, người thường vẫn không chểnh mảng việc vun xới cho hoa mà chỗ lan viên lần lần như đã thấy cảnh điêu tàn. Không phải tại người, không phải tự hoa; chỉ tại cái không khí nặng nề của thời loạn phảng phất trên chỗ hoa viên.

Một đêm kia, về quãng cuối năm Bính Tuất, mưa tuôn rả rích, gió thổi vù vù, một cái đêm đông đầy những sự bí mật tối đen.

Cô chiêu Tần, kinh động mở mắt dậy. Mé lầu trang lửa đỏ ngất trời. Tiếng người đi lại nhộn nhịp. Tiếng người quát tháo dữ dội. Họ nhét giẻ vào miệng cô chiêu Tần, rồi vực đi. Chỗ bến đò Ái Sơn, bốn chiếc thuyền từ từ dời bến. Đứng trên mui thuyền có tiếng người con gái gào khóc, một người vạm vỡ mặc quần áo đen, quấn khăn đầu rìu, tay cầm một cây "hồng" đốt bằng giẻ tẩm dầu, soi sáng quắc mặt nước con sông.

Bên Túy Lan Trang, lửa vẫn đỏ ngòn mà tịnh không ai cứu hỏa. Tre và gỗ chỗ lầu trang thi nhau mà cháy trước những ngọn lửa xanh lè liếm quanh loài thảo mộc. Lúc mà ngọn lửa đám cháy không soi rõ những đám lan xanh rờn trên chậu sứ, thời canh đã sang tư. Đêm tăm tối buông một bức màn bí mật, lạnh lẽo lên trên chỗ hoa viên tàn tạ. Chỗ đầu sông, đàn đóm lập lòe nơi bến nước, gió đêm vi vút bãi lau già!

Sớm hôm sau, các người ở vùng đấy, ngồi triết lý suông, giữa hai ngụm nước chè tươi nơi quán:

- Quan án Trần cũng vì bị kinh động, cảm xúc mạnh quá mà chết. Cô chiêu Tần, thuyền cướp mang đi. Cái biệt thự kia bị cháy ra tro. Cho hay sống vào thời loạn, cái phú quý và cái sắc đẹp cũng nhiều khi là cái mầm vạ lớn.

Từ khi lan vắng chủ, từ khi hoa không người nâng giấc, giống cỏ quý kia cũng quyết tạ theo tri kỷ, thề không ở lại với thế gian. Vả chăng người giai nhân đã đi, cái hào hoa cũng tận. Cái thuật cất "rượu khê" bên làng Vĩnh Trị, cũng không ai truyền lại cho ai nữa, để lại một mối tiếc cho "làng men" mỗi khi nhắc tới cái phong vị hồi cận đại.

Sau cái đêm dữ dội ấy, cây cỏ nơi Túy Lan Trang đều một loạt ủ rũ như để tang cho người thiên cổ. Tơ liễu khóc mưa, tóc tùng reo gió, bóng tre lìa bụi, đều ngậm một cái tình buồn trước cái hương trời lăn lóc khoảnh vườn hoang. Lan đã biết tạ chủ, thời cỏ cây kia há kém ai!

Để lại bên sông một khoảnh đất cao hơn mặt ruộng, đứng xa trông như một cái gò phát bằng ngọn, ngày nay, Túy Lan Trang chỉ còn là một chỗ đi về của đám mục đồng. Tụi trẻ kia không biết kính trọng cái âm phần của giống Túy lan khi yên giấc sau lúc tạ chủ, cho trâu bò giẫm nát cả mồ hoa!

Thiên "thảm sử Túy Lan Trang" cũng đi theo với thời gian và bị xóa nhòa trong trí nhớ người đồng thời. Ngày nay du khách đi qua vùng Ái Sơn đất Thanh Hóa, nghe thấy những danh từ "Gò Lan tạ" và "Quán cậu Hai" phải hỏi mãi mới ra nghĩa cũ. "Gò Lan tạ" là nền tảng Túy Lan Trang và là cái nơi vùi hoa lan; "Quán cậu Hai" là nơi cậu ấm Hai nghỉ ngựa trước khi gặp người ngọc chỗ lầu trang, vẫn hết sức giơ cái thân tàn chịu lấy cái gió mưa nơi đầu bến. Gò, quán kia đã ghi vào trong tâm trí khách chơi hoa một cái kỷ niệm buồn rầu. Vườn xuân lan tạ chủ; đàn đóm lập lòe nơi bến nước mà gió đêm vi vút bãi lau già...

 

 

Tiểu thuyết thứ bảy, 1935
NGUYỄN TUÂN




Sự tích tơ hồng
Saturday, November 5, 2011 Author: Trường An

"Tơ hồng Nguyệt lão thiên tiên" dựa theo tích Vi Cố gặp ông lão trong một đêm trăng, ngồi kiểm sách hướng về phía mặt trăng, sau lưng có cái túi đựng đầy dây đỏ. Ông lão bảo cho biết đây là những văn thư kết hôn của toàn thiên hạ. Còn những dây đỏ để buộc chân những đôi trai gái sẽ thành vợ thành chồng. Một hôm, Vi Cố vào chợ gặp một bà già chột mắt ẵm đứa bé đi qua. Bỗng ông già lại hiện lên cho biết đứa bé kia sẽ là vợ anh. Vi Cố giận, bảo đày tớ tìm giết đứa bé ấy đi. Người đầy tớ lẻn đâm đứa bé giữa đám đông rồi bỏ trốn. Mười bốn năm sau, quan Thứ Sử Trương Châu là Vương Thái gả con gái cho Vi Cố. Người con gái dung nhan tươi đẹp, giữa lông mày có đính một bông hoa vàng. Vi Cố gạn hỏi, vợ mới bảo: Thuở còn bé, một bà vú họ Trần bế vào chợ bị một tên cuồng tặc đâm phải. Vi Cố hỏi: Có phải bà vú đó chột mắt không? người vợ bảo: Đúng thế! Vi Cố kể lại chuyện trước, hai vợ chồng càng quý trọng nhau cho là duyên trời định sẵn.

Mẩu chuyện vui: Tình yêu làm cho con người lú lẫn.

..."Tâu Thượng đế, theo hạ thần thì thượng đế không cần đòi lại trí khôn của con người. làm như thế không khỏi mang tiếng là trời nhỏ nhen. Điều mà thượng đế nên làm là hạn chế trí khôn của con người."

-"Bằng cách nào"?

-"Chỉ có tình yêu-Không có gì làm con người lú lẫn đi như trong tình yêu. Trời chỉ cần phái một vị thần mang vòng dây xuống trần, cứ đôi trai gái nào ở gần nhau thì quăng cho một vòng. Người nào càng thông minh thì cần quăng thêm cho nhiều vòng. Con người chỉ luẩn quẩn trong những vòng ấy mà chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện lên quấy nhiễu nhà trời nữa".

Trời khen "Thật là diệu kế"!, bèn truyền cho ông tiên già mang những chiếc vòng của trời xuống trần gian.

Từ ngày bị ông tiên già khoác vào người mình những vòng dây tình ái, con người chỉ luẩn quẩn với nhau, không còn nghĩ tới chuyện đánh nhau với trời nữa. Ông tiên già ấy được gọi là ông "Tơ".

(Trích Phong tục Việt Nam - Tân Việt)




Những người tự xưng
Monday, September 26, 2011 Author: Trường An

Người ta đọc thấy trong chính sử nhiều chương mục nói về những cuộc nổi loạn của một số người tự xưng là dòng dõi triều Lê. Và việc này diễn ra từ đầu triều Nguyễn đến những năm 1860. Thực vậy, như chúng ta đã thấy ở chương I, triều Lê, nhất là ở Bắc Kỳ, được cảm tình của phần lớn dân chúng và hậu thuẫn của số đông người trung thành. Những người này coi các vua nhà Nguyễn không phải là những vị vua chính thống trong nước mà là những kẻ soán ngôi. Cho nên, khi họ không bằng lòng về một hình thức nào đó của chính sách do triều đình Huế thảo ra, họ nổi lên chống đối nhân danh các vua Lê.

Hậu duệ nhà Lê vẫn sống ở Bắc Kỳ. Theo lý thuyết, họ "được bảo vệ", theo ngôn từ của các vua Nguyễn, với tước công, tước hầu; họ được giao nhiệm vụ giữ gìn mồ mả tổ tiên, nhưng thật ra là họ bị theo dõi.

Dưới thời Minh Mạng, trong những năm 1839, những người dòng dõi chính thống của nhà Lê như Lê Duy Hoán và Lê Duy Lương nổi loạn chống nhà Nguyễn không thành công. Nhưng, dưới đời Tự Đức, các hậu duệ chính thống ấy không khi nào tham gia các cuộc khởi nghĩa của những người tự xưng là hậu duệ, có lẽ vì họ bị theo dõi rất nghiêm ngặt. Trên thực tế, trong số lớn trường hợp, những người cầm đầu các cuộc nổi loạn như thế không chút liên hệ thân thuộc gì với hoàng tộc, lại cũng không có liên hệ gì với các quan chức đã phù tá nhà Lê ở Hà Nội. Phần đông đó là những người thường. Lúc hành động họ phất cao lá cờ nhân danh nhà Lê và xuất hiện như người kế vị các vua Lê: lá cờ và tên nhà Lê là những tượng trưng chính trị giúp cho người nổi loạn một lý do và một chính nghĩa để hành động.

Nhưng những người nổi loạn này hành động không có một chương trình cụ thể và khả thi, không có cơ sở vững chắc trên bình diện tư tưởng và tổ chức; khởi nghĩa của họ là cuộc nổi loạn của người bất mãn.

Phần lớn các cuộc nổi dậy này của những người giả danh nhà Lê có sắc thái đặc biệt ở chỗ họ liên kết với hoạt động của giáo dân, của người khác và của giặc cướp. Trên bình diện chính trị, những người giả danh, không có phương tiện chống lại quân đội chính phủ, lo tìm sự ngoại viện trong khi các giáo sĩ thừa sai như giám mục Retord, giám mục Alcazar, các nhà quân sự, như Ch.Duval và F. Garnier, cố lợi dụng thời cuộc để bành trướng ảnh hưởng ở Bắc Kỳ. Trên bình diện xã hội, giáo dân trong nước và những kẻ giả danh hậu duệ có chung một tình trạng - nghèo khổ và dốt nát - và chung một tình cảm là sự bất bình đối với chế độ. Trên bình diện thực tế, để đảm bảo các mối liên lạc với bên ngoài, những người giả danh đôi khi tiếp xúc với bọn giặc cướp, người Việt Nam hoặc người Trung Hoa; cũng như, khi các lãnh tụ bị bắt buộc trốn chạy, họ đi thẳng sang Hương Cảng hoặc Áo Môn. Cho nên, một sự kết hợp tốt về quyền lợi diễn ra giữa những người giả danh, giáo dân và giặc cướp thỉnh thoảng đã tồn tại, khi có sự xuất hiện của một lãnh tụ mà bản thân đã bao gồm của ba phần đó.

Với quan điểm này, trường hợp Lê Duy Phụng là điển hình.

Một người Việt Nam tên Tạ Văn Phụng, nguồn gốc không rõ, nhưng được rửa tội và nuôi dưỡng tại một trụ sở giáo hội ở Pinang, năm 1854, hô hào một cuộc nổi dậy nhỏ ở tỉnh Quảng Yên dưới cái tên Lê Duy Phụng, tức là đến phiên người này tự xưng hậu duệ nhà Lê. Giám mục Retord thuyết phục được Phụng ngưng hoạt động và lui về ẩn trốn ở Hương Cảng.

Sau cuộc tấn công Đà Nẵng của liên quân Pháp - Tây Ba Nha năm 1858, giám mục Retord muốn đưa ra "một ông vua theo đạo Thiên Chúa dưới sự bảo trợ của nước Pháp" và nghĩ đến Phụng. Phụng nhận lời trở về Bắc Kỳ giữa năm 1861 và phất cờ nhà Lê, tuyên cáo:

    "Vì cảnh lầm than của dân ta và vì hoàn cảnh của gia đình ta, ta quyết định phải trả thù cho chính đáng để rửa nỗi nhục phải chịu biết bao đau khổ, để cho đạo Thiên Chúa được truyền bá khắp nơi ở Bắc Kỳ và để cho dân chúng sống trở lại thái bình và hạnh phúc."

Trung sĩ Charles Duval bí mật đến Bắc Kỳ vào năm 1862 và tiếp xúc với Phụng nhằm mục đích đẩy mạnh cuộc nội chiến để gây áp lực với Tự Đức. Với sự giúp đỡ của Duval, Phụng tung ra được các cuộc tấn công trong nhiều tỉnh ở Bắc Kỳ liên kết với những bọn giặc cướp. Những cuộc bạo động ở Bắc Kỳ ngày càng trầm trọng, triều đình Huế rốt cuộc đành phải ký hiệp ước đình chiến với Pháp và Tây Ba Nha ngày 5-6-1862.

Lập tức, Tự Đức sai Nguyễn Tri Phương dẹp loạn ở miền Bắc. Về phần mình, C.Duval coi khinh bất kể tương lai cá nhân của Phụng và hài lòng với sự thành công của sứ mạng mình, đã rời Bắc Kỳ ngày 17-7-1863. Việc ra đi này nguy hại cho cuộc nổi loạn của Phụng. Trong năm 1864, đồng đảng của Phụng nơi này nơi khác bị quan đội của Nguyễn Tri Phương đánh tan; Lê Duy Phụng bị bắt và giết ở Huế.

Khi đến Hà Nội năm 1873, F.Garnier cũng cố gắng liên lạc với đồ đảng nhà Lê. Giám mục Puginier phản đối mạnh dự tính như thế; Louvet giải thích thái độ ấy như sau:

    "Giám mục Puginier lo sợ rất đúng các hậu quả của một dự tính như thế, nên khuyên Garnier đừng nhẹ dạ lao vào một cuộc phiêu lưu đầy nguy hiểm ấy và, theo lời khuyên, viên chỉ huy trưởng viết thư cho đô đốc nói rằng chắc chắn đảng đồ của triều cũ không còn gốc rễ trong nước và tốt hơn hết là, về quan điểm quyền lợi của nước Pháp, cố gắng thương nghị với triều đình hiện nay."

Sau cái chết của Garnier, một số giáo dân trước đã đi theo y, nay ra làm giặc cướp và lại nổi loạn nhân danh triều cũ. Cũng vậy, Hồ Văn Vạn, một giáo dân và là sĩ quan cũ trong quân đội Garnier, tiếp tục chiến đấu với quân của triều đình ngoài khơi tỉnh Hải Dương, cũng yêu cầu, nhưng không nhận được, sự tiếp viện của Thống đốc Sài Gòn. Vạn bị một dân quân Trung Hoa bắt vào tháng giêng năm 1875.

Cũng trong tháng giêng năm 1875, Tự Đức ban bố một đạo dụ xác nhận rằng những người tự xưng hậu duệ nhà Lê chỉ là kẻ cướp hoặc bọn giặc vô danh, không có mối liên hệ nào với hoàng tộc cũ, vốn được nhà vua "kính trọng" và "bảo vệ".

Những cuộc dấy loạn, hầu như từng thời kỳ và với những kẻ lãnh đạo khác nhau, tự xưng làm hậu thuẫn cho triều Lê, không hề được người Pháp lưu ý. Ở Huế, Philastre tỏ ra nghiêm khắc với các nhóm này:

    "Ở Bắc Kỳ, nhóm dân chúng xấu nết, dao động, lo sợ, chỉ mong chờ những dịp náo loạn. Họ tìm một hậu duệ nhà Lê để lập lại ngai vàng của cha ông, và giáo dân đặc biệt tha thiết với mộng ước này, luôn luôn sẵn sàng đưa ra một tín đồ mang họ Lê. Người quan trọng cuối cùng, trở thành hậu duệ nhà Lê cho hợp thời cơ, tên là Fong hay Phong gì đó; tôi biết y, trước đây, là đầy tớ của mấy thừa sai bị đuổi khỏi Bắc Kỳ trong các năm 1856-1857.

    "Thực ra dưới chiêu bài phục hưng quốc gia, mỗi người tự kiến tạo cho thân thế mình. Không có gì nghiêm chỉnh, mà chỉ là lộn xộn và rắc rối."

Ông Turc, lãnh sự Pháp tại Hải Phòng, mỉa mai:

    "Giả thiết liên quan đến sự có mặt của một người tự xưng hậu duệ nhà Lê giữa các nhóm ngày càng nhiều ở Hà Nội. Quan chức Huế không từ bỏ được ý nghĩ rằng chúng ta muốn thừa cơ hội này để lật đổ Tự Đức và đặt con cháu nhà Lê dưới sự bảo trợ của chúng ta.

    "Tuy nhiên, tôi đã làm nhiều hơn những gì trước kia tôi không tính làm, để bảo vệ họ chống bọn làm loạn, bởi vì tôi đã đảm nhận nhiệm vụ trang bị một chiếc tàu buôn thành tàu chiến."

Turc coi thường những ngờ vực của quan chức. Chúng ta phải nói rằng những ngờ vực đó đều có thể biện minh. Sự tham gia của giáo dân vào những cuộc nổi loạn ấy, và từ những năm 1850, các sáng kiến của giáo dân để nắm quyền chỉ huy, buộc triều đình Huế phải coi việc đó có tầm quan trọng đặc biệt; lại nữa, chính là sự liên kết những cuộc vận động ấy với những chương trình chiếm hữu thuộc địa đã buộc Tự Đức phải nhượng ba tỉnh của Nam Kỳ năm 1862, từ đó dẫn đến công cuộc thuộc địa hoàn toàn đất nước bởi người Pháp.


(Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847-1885 - Yoshiharu Tsuboi)




Về giai thoại “Cây đèn treo ngược…”
Saturday, September 3, 2011 Author: Trường An

Trong lịch sử Việt Nam xuất hiện khá nhiều giai thoại có tính lịch sử. Đó là những tập truyền, là lời truyền khẩu về một câu chuyện đã xảy ra từ trước, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác rồi dần dần in sâu vào tâm trí mọi người, cuối cùng cũng được ai đó ghi lại bằng văn tự.

Điều đó làm cho tập truyền đáng tin hơn và khi đọc nó, người đọc không cần phải kiểm chứng xem điều đó có thật hay không. Ở đây chúng tôi muốn đề cập đến một giai thoại đã được lưu truyền theo kiểu như thế. Câu chuyện liên quan đến chuyến đi Pháp của sứ bộ của nhà Nguyễn vào năm 1863 do Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Ngụy Khách Đản dẫn đầu.

Cách đây 66 năm, trên tờ tap chí Trung Bắc Chủ Nhật, số ra ngày 17.10.1943, nhà văn Đào Trinh Nhất (1950-1951), người chuyên viết về lịch sử, ký sự, đã có bài báo đề cập đến đoàn Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ sau khi đi Pháp về đã kể những “chuyện lạ nước ngoài” như:
Đèn thắp không dầu, ngọn lửa chúc xuống (đèn điện), giếng nước vọt lên cao (nước phun trong công viên) v.v." Vua kinh dị giao cho đình thần bàn. Các quan bàn xong tâu:

- “Quy luật tự nhiên là nước chẩy xuống, lửa bốc lên cao, trái lại là nghịch thường, không đúng sự thật. Bọn Phan Thanh Giản bị họ bầy trò quỷ thuật làm cho quáng mắt”. (theo Trung Bắc Chủ Nhật, 17.0.1943).

Để tìm hiểu về những điều nhà văn Đào Trinh Nhất đã thuật, mà còn đến hiện nay, nhiều người tin rằng nó có thật (vì có lý!), ta thủ đọc một phần nội dung tập Tây Hành Nhật Ký (Nhật ký đi Tây – NKĐT) do Phạm Phú Thứ viết, Phan Thanh Giản và Ngụy Khắc Đản duyệt lại.

Nội dung nhật ký ghi chép việc từng ngày trong chuyến công du sang châu Âu. Đoàn khởi hành ngày 27.6.1863 trên chiếc tàu Européen, đi qua Poulu Con-dor, Tân-ga-ba (Singapore), Sumatra, Tích-Lan, Aden, Ai-Cập, Jérusalem, La-Mã, Corse… Ngày 13.9.1863 đến Paris sau khi qua Toulon và Marseille. Ngày mồng 5.11.1863 phái đoàn vào triều kiến hoàng đế Napoléon III ở điện Tuileries.

Từ 10.11.1863 đến 22.11.1863 đi thăm Tây-Ban Nha rồi lên đường về, qua Ý-Đại-Lợi. Ngày 2.12.1863, Trương Vĩnh Ký (thông ngôn của sứ bộ) yết kiến Giáo hoàng ở Roma. Ngày 18.3.1864 phái đoàn về tớ Sài Gòn, 28.3 đến Huế, ba hôm sau Phạm Phú Thứ dâng Tây Hành Nhật Ký lên vua tự Đức.

Trong nhật ký này, tác giả ghi chép rất tỉ mỉ những điều mắt thấy tai nghe từng ngày từng giờ. Tuy chuyến du chỉ gần 9 tháng, nhưng tập sách cho ta một cái nhìn khá đầy đủ về cả địa lý, chính trị, kinh tế, tôn giáo, phong tục. Những nơi đoàn đã đi qua. Bản thân Phạm Phú Thứ không theo tây học, nhưng nhật ký của ông tường tận không khác gì một người theo Tây học. Có lẽ ông là người duy nhất đã thực hiện đúng ý muốn của Minh Mạng. Ngay từ năm 1823, nhà vua đã phán: “Các bản nhật về việc đi sứ chỉ thấy ghi tên đất và số dặm đường, còn tình hình dân, công việc nước không từng nới đến. Sắc cho Bộ Lễ từ nay truyền chỉ cho sứ thần phải hỏi han dân tình được sung sướng hay bị đau khổ, trong nước có tai biến hay có điềm lành thì ghi chép rõ ràng, có tên đất, số dặm đường đã có trong sách, có thể khảo cứu được” (Theo Minh Mạng chính yếu, sđd, tr 56)

Chúng tôi trích một vài đoạn có liên quan đến giai thoai lịch sử nói trên:
Trong thời gian ở Pháp, sứ bộ cư trú tại khách sạn Marseille, nhật ký mô tả: “Quán bảy tầng, gồm có trăm phòng, bàn ghế, màn trướng phần lớn đều dùng gấm, đoạn để trang trí. Ban đêm thắp đèn khí sáng hơn đèn dầu hoặc đèn nến (có nhà máy khí, lấy than đốt thành khí rồi chứa lại để bán khắp nơi); cây đèn ở các nhà đều trống ở giữa và thông ngầm với ống sắt; ống sắt dẫn khí phân phối cho các nơi để thắp đèn; ngọn đèn nhỏ, nhưng ánh sáng trắng nhơ ngọc). Người phục dịch trong quán có hơn sáu chục, chia nhau làm đủ mọi việc phục vụ cung cấp…” (NKĐT, sđ, tr 130)

Mô tả quan cảnh đèn đường có đoạn:
Ngày mồng sáu… Đêm ấy, giờ Tuất, người ta lại mời ra đường xem đèn: hai bên vệ đường, trồng cách khoảng liên tiếp những cột sắt (cột cách nhau ba hoặc bốn tượng cao năm, sáu thước), trên cột mắc đèn pha lê thắp bằng khí đốt. Ở các cửa hàng buôn bán, mỗi gian đều có đèn treo thắp sáng; phía trong cửa kính, bày la liệt các thứ hàng. Có nơi ở ngoài sân, người ta làm những ống sắt cong và đặt lên trên giá gỗ. Người ta cũng bắt ống pha lê để làm những biển hiệu ngoài cổng, có khi người ta lại đặt ngang trên cổng những ông pha lê để hơi bốc cháy…” (NKĐT, sđd, tr 148)

Đề cập đến cảnh phun nước trong công viên, nhật ký viết:
Đường sá bằng phẳng như đá mài (…) Nơi nào cũng có bồn hoa; trong thành cũng như ngoài thành điều có vườn hoa: cứ vài dãy phố thì chừa một khoảnh đất để trồng cỏ có hoa và đặt máy phun nước, bên cạnh bày ghế dựa và ghế dài, người ta nói ở những nơi đông người, phải có chỗ du ngoạn để cho nơi đó được thoáng khí…” (sđd, tr 142)
(Trong một đoạn khác, Phạm Phú Thứ cũng tỏ ra rất hiểu kỹ thuật chụp và rửa ảnh của người Pháp, mặc dù lúc đó lần đầu tiên họ được chụp hình!)

Qua những đoạn trích trên, ta thấy Phạm Phú Thứ là những người rất am hiểu những cảnh tượng mà ông đã trông thấy tại Pháp. Ông biết sở dĩ đèn chiếu sáng được là do khí đốt, một loại khí chế tạo từ than đá chỉ được phát minh từ cuối thế kỷ XVIII ở châu Âu, mà trong sách ông ghi lại bằng tên gọi “khí đăng”.

Về cảnh nước phun ngược tại các công viên, ông cũng chép lại rất rõ là họ đã đặt máy phun nước.
Cũng cần phải nói thêm, giai thoại trên kể rằng, phái đoàn đã thấy đã mô tả cây đèn treo ngược, tức là cây đèn bóng tròn phát sáng bằng sợi dây tóc, tiếc rằng tác giả “sáng tác” trong giai thoại trên đã quên một điều rất quan trọng: khi sứ bộ sang Pháp (1863-1864) thì nhà vật lý Thomas Edison (1947-1931) chỉ có 16 tuổi, phải đợi thêm 16 năm nữa (1879) Edison mới sáng chế ra bóng đèn điện!

Còn chuyện “ngược đời” nước phun lên từ đất thì như đã dẫn ở trên, Phạm Phú Thứ đã khẳng định là do có máy phun nước, hơn nữa ta cần lưu ý một điều là kể từ đời Khang Hy (1662-1729), nghĩa là gần 200 năm trước, Trung Quốc đã có những bể phun nước phun trong ngự viên do các giáo sĩ phương tây kiến tạo, và suốt từ cuối thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 19, sứ thần nước ta vẫn thường đi sứ Trung Quốc, chẳng lẽ không một ai thấy nước phun, phải đợi phái đoàn Phan Thanh Giản sang Tây mới biết?!
Ai cũng biết Phạm Phú Thứ là một trong những nhân vật chủ trương cách tân dưới thời nhà Nguyễn, là người rất say mê khoa học kỹ thuật. Trong phần giới thiệu tiểu sử của ông, dịch giả Quang Uyển đã cho biết:
Khoa hoc kỹ thuật đã trở thành nguồn cảm hứng dồi dào, tạo ra nét độc đáo trong thơ ông, thổi một luồng sinh khí mới vào văn chương nước nhà nửa sau thế kỷ XIX” (NKĐT, tr 38). Trong thời gian từ năm 1874 đến 1880, khi giữ chức Thự Tổng đốc Hải Yên kiêm Tổng lý Thương chính đại thần, ông đã thực hiện được một số cải cách như mở trường dạy chữ Tây cho Nha Thương chính Hải Thương chính Hải Dương, mỗi tháng cấp một quan tiền và một phương gạo cho cho những người đi học. Đồng thời, ông cho dựng lại nhà xuất bản Hải Học Đường (có từ đời Gia Long nhưng đã đóng cửa); cho in lại một số sách dịch sang chữ Hán về khoa học và kỹ thuật do các giáo sĩ phương Tây viết như: Bác vật tân biên (về khoa học); Khai môi yếu pháp(khai mỏ); Hàng hải kim châm(cách đi biển); Vạn quốc pháp (giao dịch với ngoại quốc)

Sách Đại Nam Thực Lực chép:
Tháng 5 nhuận, 1876, Nha Thương chính Hải Dương dịch Phép diễn tập súng Tây dân lên”.
Tự ông đã dịch Từng chính di quy về kinh nghiệm quản lý hành chính và dự tính cho in những sách: Địa cầu thuyết lược; Cách vật nhập môn… Ngoài Tây Hành Nhật Ký có:  Giá Viên Toàn Tập (gồm 26 quyển, một nửa là thơ chữ Hán, phần còn lại là phú, biểu, luận, ký, minh… đề cập nhiều lĩnh vực khác nhau như khoa học, kỹ thuật, hành chính…) Tây Phù Thi Thảo, Liệt triều thông hệ nên phả toản yếu, Bắc quốc lịch triều thông hệ niên thứ, Bản triều liệt thánh sơ lược toát yếu.

Tất cả những điều đó cho thấy, không riêng gì Phạm Phú Thứ mà có lẽ đối với triều đình Huế lúc đó, việc người châu Âu sử dụng đèn khí đốt cũng như đặt máy phun nước tại các công viên không có gì là “ghê gớm” cả, thế nhưng triều đình (cũng gồm những vị quan đồng thời được đào tạo như ông) cho là phái đoàn đã bị người Pháp “bày trò quỷ thuật làm cho quáng mắt”!

Bàn về sự sai lạc của giai thoại, trong tập “Phương pháp sử” LM Nguyễn Phương đã viết như sau:
Tập truyền thường sai lạc bằng những cách sau đây:
Hoặc vì phóng đại tô điểm một nhân vật cho thành một người siêu phàm, hay là vẽ vời một sự việc cho có màu sắc huyền bí;
Hoặc là vì tập trung những nét thâu thập được ở nhiều người để dồn vào trên một người, hay là ở nhiều chuyện để đúc lại thành một chuyện;
Hoặc là lẫn lộn, đem những nét của đời sống người này ghép vào đời sống người khác, hay là những chi tiết của chuyện này đặt vào nội dung chuyện khác;
Hoặc là vì trước không có mà sau thêm vào, như khi đã cho một người là anh hùng thì bất cứ gì cũng nghĩ rằng vị anh hùng đó có thể làm được tất cả;
Hoặc là vì giải thích cho có lý, như khi cắt nghĩa tên của chính vị anh hùng hay là các địa danh khác hiểu…”
(Phương pháp sử, sđđ. Tr 137);

Đó là những lý do giải thích vì sao phần lớn nội dung của các giai thoại đều trở nên sai lạc.
Giai thoại lịch sử thường hay được kể lại để làm tăng thêm “sự hấp dẫn” liên quan đến một sự kiện lịch sử nào đó, nhưng khi sử dụng cũng cần cẩn thận, vì hầu hết được tạo ra không dựa trên một nền tảng hoặc một cơ sở khoa học nào…

Theo Kiến thức ngày nay




NGUYỄN TRƯỜNG TỘ con người và sự thật
Saturday, September 3, 2011 Author: Trường An

Nguyễn Trường Tộ ít được người biết đến, cho tới khi tờ Nam Phong khởi đăng bài của các ông Sở Cuồng Lê Dư, Lê Thước, Nguyễn Trọng Thuật, đã biến Nguyễn Trường Tộ một người vô danh trở nên một nhân vật lịch sử. Tiếp đến, ông Từ Ngọc Nguyễn Lân đã viết và cho nhà xuất bản Viễn Đệ xuất bản vào năm 1941 ở Huế cuốn “Nguyễn Trường Tộ”. Giai đoạn này, ông Đào Đăng Vĩ dịch ít bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ cho đăng ở báo "La Patrie Annamite", không biết ông đã tìm thấy ở đâu hay ai đã cung cấp cho ông những bản điều trần đó để ông dịch. Tiếp đó, ông Vĩ đã viết và cho xuất bản cuốn “Nguyễn Trường Tộ et Son Temps”.

Hai mươi năm sau, năm 1961, ông Đặng Huy Vận và Chương Thâu đã viết chung và cho xuất bản cuốn “Những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ cuối thế kỷ 19”. Thời gian này, tập san “Nghiên cứu Lịch sử” cũng cho đăng một số bài của các ông Văn Tân Hoàng Văn Nọn, Hoàng Nam, Hồ Hữu Phước, Đặng Huy Vận, Chương Thâu và bà Phạm Thị Minh Lệ,…

Trong thời gian này, ở trong Nam không có quyển sách nào viết về Nguyễn Trường Tộ được xuất bản, nhưng có nhiều bài viết tôn vinh Nguyễn Trường Tộ trên các tạp chí Văn Đàn và Văn Hoá Á Châu,… Ngoài ra Tinh Việt Văn Đoàn còn thành lập “Hội phát triển tinh thần Nguyễn Trường Tộ”. Còn trên tạp chí Trình Bầy của chủ nhiệm Thế Nguyên Trần Gia Thoại có đăng một bài ca ngợi Nguyễn Trường Tộ là bài “Nội dung các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ” của sử gia Nguyễn Khắc Ngữ đăng trong số 33-35, từ tháng 12 năm 1971 đến tháng 2 năm 1972.

Đến năm 1988, Lm Trương Bá Cần cho xuất bản cuốn “Nguyễn Trường Tộ - con người và di cảo” ( tập I). Đây là cuốn sách đầy đủ nhất từ trước tới nay. Năm 1991, Trung Tâm Nghiên Cứu Hán Nôm thành phố Hồ Chí Minh cho tái bản cuốn “Nguyễn Trường Tộ - con người và di cảo” (Tập I – con người) của linh mục Trương Bá Cần. Đến năm 1992, Trung Tâm Hán Nôm thành phố Hồ Chí Minh cho ra cuốn “Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước” do nhiều người viết. Ở hải ngoại, năm 1998 nhóm Giao Điểm cho ra mắt quyển “Nguyễn Trường Tộ - thực chất con người và di thảo”.

Đọc bản tiểu sử của ông Tộ, do ông Lê Thước công bố: “Ông bị bệnh chết trẻ, ông có học nhưng không được đi thi vì là người Gia Tô, ông có tài mà không được trọng dụng, vì thế mà ai không chạnh lòng thương cảm.” Những bài viết về ông đa số là đã dành cho ông nhiều thiện cảm. Nhưng có một số người đã ca tụng, tôn vinh ông quá lố, như ông Lê Thước đã cho rằng: “Tư tưởng của người , học thức của người vượt quá xa người đương thời mấy vạn lần”; ông Nguyễn Trọng Thuật đánh giá: “Nguyễn Trường Tộ ngang với Khang Hữu Vi của Tàu”; còn ông Từ Ngọc Nguyễn Lân cho rằng: “Người Việt Nam sáng suốt nhất trong thời kỳ lịch sử rối ren nhất trong lịch sử Việt Nam, một nhà đại học vấn, đại kiến thức, đại tư tưởng và đại nghị luận. Một người như thế đáng được cả quốc dân tôn sùng, tượng đồng bia đá kể còn ít.” Có người còn cho rằng: “Ông là bậc kỳ tài, có những tư tưởng tân tiến và một tấm lòng sâu nặng vì nước vì dân”. Có người lại hỏi: “Tại sao vua quan thời Tự Đức không biết nghe theo Nguyễn Trường Tộ, nếu không bổ nhiệm ông làm thủ tướng toàn quyền như hiệp sĩ Toà Thánh Ngô Đình Diệm sau này thì cũng phải mời ông vào ngôi vị cố vấn khoa học kỹ thuật tối cao cho vua quan triều đình”…

Đa số người viết đề cao vai trò canh tân của Nguyễn Trường Tộ thì nội dung trong bài phải đả, phải công kích, mạt sát triều đình Tự Đức như phản động, ngu dốt, phong kiến, bảo thủ, cổ hủ,… không chịu nghe lời canh tân của Nguyễn Trường Tộ nên mới mất nước vào tay thực dân Pháp. Có người còn viết bịa ra là phái đoàn Phan Thanh Giản đi sứ sang Pháp, lúc trở về có tường trình cho vua Tự Đức biết văn minh của nước Pháp như “lấy nước ở tường ra”, “đèn cháy ngược” thế mà vua Tự Đức còn u mê không chịu nghe lời ông Nguyễn Trường Tộ mà canh tân đất nước. Luận cứ này còn đem cả vào trường học giảng dạy cho học sinh nữa.

Vua Tự Đức chết năm 1883, ông Phạm Phú Thứ chết năm 1882, ông Nguyễn Trường Tộ chết năm 1871. Tất cả những vị nêu trên cũng như trên toàn cầu, vào giai đoạn đó, chưa có ai biết hình thù cái bóng đèn điện nó ra sao. Cái bóng điện được thắp sáng lần đầu tiên ở trên trái đất này là ở trong phòng thí nghiệm của ông Thomas Edison, vào ngày 19 tháng 10 năm 1879, cháy liên tục đến ngày 21 tháng 10 năm 1879, ông cho tăng voltage, nó tắt liền (At 1:30PM on October 21, Edison decided to increase the voltage. Not until then did the bulb burned out). Phải qua giai đoạn thiết lập nhà máy làm bóng điện, nhà máy phát điện, trạm biến điện, cột điện, contact, dây chuyền điện…Đến cuối thế kỷ, các thành phố Mỹ và Châu Âu mới được thắp sáng khắp thành phố và tư gia vào ban đêm. Như vậy, thời ông Phan Thanh Giản, ông Nguyễn Trường Tộ làm gì có đèn cháy ngược? Điều này chỉ là tuyên truyền láo thôi.



NGUYỄN TRƯỜNG TỘ, ÔNG LÀ AI?

Về năm sinh của ông Nguyễn Trường Tộ, Lm Trương Bá Cần đã viết như sau: “Về năm sinh của ông Nguyễn Trường Tộ thì theo Lê Thước trong bài trong bài Nguyễn Trường Tộ tiên sinh, tiểu sử đăng trong Nam Phong số 102 và hầu hết các tác giả tiếp sau đó đều nói Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1828, Minh Mạng năm thứ 9. Riêng Nguyễn Trường Cửu, con trai Nguyễn Trường Tộ, trong sự tích ông Nguyễn Trường Tộ, không nói năm sinh, nhưng nói mất ngày 10 tháng 10 năm Tự Đức 24… thọ 41 tuổi.

Hiện nay chúng ta không có đủ tài liệu để xác định một cách chắc chắn về năm sinh của Nguyễn Trường Tộ. Nhưng nếu ông năm Tự Đức 24, tức năm 1871, và thọ 41 tuổi, thì năm sinh phải là 1830 chứ không thể là 1828. Ngày mất, là tuổi thọ của một người, thường được gia đình truyền đạt một cách chuẩn xác. Trong bài tiểu sử của ông Tộ do ông Lê Thước công bố là năm 1860 ông Tộ đã 33 tuổi. Trong bài viết của ông Đinh Văn Chấp có cho biết ông Tộ sinh năm 1818 và chết lúc 43 tuổi.

Ông Tộ mất lúc ông Nguyễn Trường Cửu vừa được 18 tháng, còn quá nhỏ, chưa thể nào đàm thoại chuyện trò gì với bố được, và lúc lấy vợ có thể ông Tộ nói bớt tuổi để cho người phối ngẫu vui là ông chồng còn trẻ thì sao? Cho nên ông Tộ sinh năm 1828 hay 1830 tôi cũng chưa tin, có thể tuổi ông còn cao hơn nữa. Trước năm 1858, ông Tộ đã là linh mục. Ông Nguyễn Hoàng sinh năm 1839, mãi đến năm 1868, tức 29 tuổi mới được thụ phong linh mục. Căn cứ vào đó, có thể ông Tộ sinh năm 1828 hay 1827, hay 1826 chứ khó có thể ông Tộ sinh năm 1830 được.

Trong Việt Nam tự điển, Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ ghi năm sinh của ông Nguyễn Trường Tộ là năm 1827. Trong Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Từ Điển của giáo sư Trịnh Văn Thanh, giáo sư sinh ngữ trường Jean Jaques Rousseau và Leuret ở Saigon, đã bỏ ra 10 năm để hòan thành tác phẩm và nhờ sinh ngữ, có thể ông đọc được tài liệu của Hội Truyền Giáo hay ở đâu đó, mới biết được năm sanh của Nguyễn Trường Tộ là năm 1818. Năm sanh này có vẻ hợp lý , vì lẽ sau đây:

- Trong Di Thảo số 6, ông Tộ viết: Nhân vì chân tôi bị tê bại sắp thành kẻ phế nhân, nằm ngửa ra mà viết, tinh thần buồn bã rối loạn, tự biết nói năng không thứ tự.

- Trong Di Thảo số 7, ông Tộ cho biết: Tôi hiện nay bị bệnh tê thấp chưa khỏi

- Trong Di Thảo số 8, ông Tộ viết: Tôi trước đây bị ốm nằm ở Gia Định, điều dưỡng đã gần hai năm, nay 10 phần đã giảm 5, 6

Những điều ông Tộ cho chúng ta biết ngày nay y khoa gọi là bệnh phong thấp cấp tính, tiếng Pháp gọi là rhumatisme articulaire aigue, tiếng Anh là acute articular rheumatism. Bệnh phong thấp hay tê thấp thường xẩy ra ở người lớn tuổi, khoảng 45 trở lên. Nếu không có thuốc chữa thì tim sẽ yếu dần, đi đến chỗ chết trong khoảng 10 năm. Như vậy ông Tộ bị tê thấp từ cuối năm 1863 hay đầu năm 1864 và ông Tộ qua đời năm 1871, nghĩa là sau 7 năm bị bệnh. Căn cứ vào bệnh lý của ông Nguyễn Trường Tộ, ông Tộ mất vào năm 53 tuổi, nghĩa là năm sanh của ông Tộ là năm 1818 là có lý hơn.

Trong tờ trình của Tỉnh Thần Nghệ An của ba ông Hoàng Tá Viêm, Ngụy Khắc Đản, Trần Nhượng đăng trong cuốn “Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo” năm 1988, Lm Trương Bá Cần, trang 478 và quyển tái bản năm 1991, nơi trang 189, đây là tờ trình lên vua Tự Đức của tỉnh thần Nghệ An, do lệnh của vua hỏi thăm tung tích của Hậu, Tộ. Sau khi tiếp chuyện với giám mục Ngô Gia Hậu (Gauthier), ba ông Hoàng Tá Viêm, Ngụy Khắc Đảm và Trần Nhượng đã viết tờ trình lên vua Tự Đức như sau:

- Lại nói tên Trường Tộ biết khá nhiều về tình thế nước ta, nay lại là đệ nhất thông ngôn cho giám đốc Tây, chỉ vẽ mọi việc thông dịch, xử lý trong các giấy tờ qua lại đều do y cả (quyển tái bản 1988, trang 478).

- Lại nói tên Trường biết khá nhiều tình thế nước ta, nay là đệ nhất thông ngôn cho giám đốc Tây, chỉ vẽ mọi việc thông dịch, xử lý các giấy tờ qua lại đều do y cả (quyển tái bản năm 1991, trang 189). Tên Trường Tộ này còn là tên Trường, bỏ đi chữ Tộ.

Thần hỏi: Gia Hậu đề cập đến Trường Tộ là người như thế nào vậy?

Đáp: Tên Trường Tộ trước là linh mục. Từ khi thuyền Tây đến Gia Định thì phần kém đạo hạnh, lệch lạc ra ngoài phạm vi đạo trưởng, năng lui tới Tây soát tìm vui (quyển xuất bản năm 1991, trang 189) như trên bỏ đi chữ Tộ.

Tờ trình này viết vào ngày 26-4-1870. Giám mục Ngô Gia Hậu (Gauthier) có thể không ưa Tộ, không còn trọng dụng ông Tộ nữa nên tiết lộ cho triều đình ta những gì trước đã được giữ kín từ lâu về ông Tộ, gọi ông Tộ là kiến trúc sư, có trí nhớ lạ thường, có tài năng lỗi lạc… Bây giờ ông Tộ làm việc cho pháp ngạch thông ngôn lên đến hạng nhất, lại là cựu linh mục kém đạo hạnh, là người phản bội tráo trở khi giám mục Hậu nói: "Gia Hậu nhân y nói người Tây tráo trở nên lấy câu này mà gọi người đa đoan đó tên là Trường”.

Lại nói: Y đã vốn theo tả đạo, làm đạo trưởng, chẳng biết gì mà bàn lếu láo đến công việc thật là không phải (trang 189-478). Trước giám mục Hậu đánh bóng cho ông Tộ là kiến trúc sư, có trí nhớ lạ thường, có tài năng lỗi lạc. Đến năm 1870, Nguyễn Trường Tộ được giám mục Hậu cho biết là linh mục kém đạo đức, là thông ngôn cho Pháp, chẳng biết gí mà nghị bàn lếu láo đến công việc thật là không phải, kẻ tráo trở…

Người ta cũng ngạc nhiên rằng một người làm việc cẩn trọng như Lm Trương Bá Cần mà chỉ mới ba năm sau ông đã sửa đổi lịch sử. Ông cố che giấu chức vụ linh mục cho Nguyễn Trường Tộ, không biết có ẩn ý gì? Ông viết: “Giáo sĩ (tức là bác sĩ Hernaiz) không phải là một linh mục hay giáo sĩ tu sĩ mà chỉ là một nhân sĩ tôn giáo nên gọi là giáo sĩ, như Nguyễn Trường Tộ cũng được gọi là giáo sĩ. Người giáo hữu đều có nhiệm vụ tông đồ truyền đạo, lôi kéo được nhiều người ngu ngốc theo đạo thì được giấy ban khen.” Như vậy thì tất cả giáo dân đều được gọi là giáo sĩ không thể phân biệt là trí thức mới được gọi là giáo sĩ, như vậy là sai. Các cụ ta gọi ông đạo trưởng Nguyễn Trường Tộ là giáo sĩ để phân biệt hai chữ tu sĩ cho các tôn giáo khác là có ẩn ý trong đó có giáo dở , gươm giáo và giáo gian, cũng như ở phương tây người ta gọi Jesuit là thầy tu Dòng Tên, vì những công tác họ làm lưu manh lươn lẹo nên sau này Tự Điển có thêm nghĩa chữ Jesuit như sau: “Người hay mưu đồ, người hay mập mờ nước đôi, người đạo đức giả, người giảo quyệt”.

Vì Nguyễn Trường Tộ là đạo trưởng tức linh mục từ trước năm 1858 nên ông phải có thời gian vào học chủng viện. Vì thế bản lý lịch, tiểu sử viết về Nguyễn Trường Tộ của ông Lê Thước và Nguyễn Trường Cửu là giả mạo ngụy tạo vào đầu thế kỷ 20 mà thôi.



LINH MỤC NGUYỄN TRƯỜNG TỘ LÀ NGƯỜI YÊU NƯỚC?

Linh mục Nguyễn Trường Tộ là người Gia-Tô, lúc sanh ra được đem ra nhà thờ để chịu phép rửa tội (baptême). Ghi tên vào sổ đạo của giáo xứ, địa phận để được gia nhập một quốc gia mới là quốc gia Vatican. Nước Vatican bao giờ cũng ở trên quốc gia trên trần thế, nơi đã sinh ra chỉ là tạm bợ. Mà nước Vatican là đồng minh với nuớc Pháp nên ông ta đã về cộng tác, làm việc với người Pháp. Cho nên linh mục Trương Bá Cần đã không ngượng ngùng khi viết: Đầu năm 1861, Nguyễn Trường Tộ trở về Saigon (làm việc cho Pháp) với hoài bão lớn là đem những hiểu biết thu nhập được của mình để giúp đất nước (?) canh tân, tự cường tự lực ngõ hầu tránh được hoạ mất nước” (NTT, tập I, trang 220. Ở vị thế đó, rất khó mà xét định được ông Tộ có là người yêu nước nồng nàn không? Còn với đại khối phi Gia-Tô, lòng yêu nước được chứng tỏ khi có ngoại xâm là lăn xả vào cuộc kháng chiến để đánh quân ngoại xâm để bảo vệ đất nước, hoặc cầm kiếm cầm súng, hoặc cầm bút như cụ Nguyễn Đình Chiểu, cụ Phan Văn Trị, hoặc lao động yểm trợ chiến trường… Giặc đến nhà đàn bà còn phải đánh huống hồ là nam nhi.

Tác giả bài thơ nổi tiếng “HỒ TRƯỜNG” là ông Nguyễn Bá Trác cũng bôn ba nơi hải ngoại để tìm đường phục quốc. Nhưng về sau tuyệt vọng phải về nước làm việc cho Pháp. Nguyễn Thái Bạt, người đã du học ở Nhật, đã từng cùng với cụ Phan Bội Châu dựng bia kỷ niệm ông Asaba Sakitaro ân nhân cách mạng Việt Nam. Ông đã tuyệt tích không ai biết tin tức gì cả. Về sau, được biết ông đã đổi tên là Nguyễn Phong Di làm việc ở toà khâm sứ Huế (Hồi Ký Đặng Thái Mai, trang 236). Cả ba người làm việc với Pháp, không biết lòng yêu nước của Nguyễn Trường Tộ có thể so sánh với hai ông Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt được không?

Nếu Nguyễn Trường Tộ mà viết điều trần gửi lên vua Tự Đức trước năm 1858, nghĩa là trước khi đi Hồng Kông đọc tân thư của Tàu thì ông là người có tư tưởng canh tân tôi phải kính phục, và như thế đích thực ông là người yêu nước khỏi phải bàn cãi, không phải thắc mắc nghi ngờ gì nữa.

Trước Nguyễn Trường Tộ có ông Vũ Duy Khuê thời vua Minh Mạng đã đề nghị mở các hải cảng cho người ngoại quốc vào buôn bán và cho tự do tôn giáo. Vua Minh Mạng đồng ý cho người ngoại quốc vào tự do buôn bán. Còn về tôn giáo, vua Minh Mạng cử một phái đoàn sang Pháp điều đình. Phái đoàn chỉ được vài bộ trưởng tiếp, còn các giáo sĩ trong Hội Truyền Giáo thì chống đối, tố cáo vua Minh Mạng tàn ác, vô nhân đạo. Họ trông mong chính phủ Pháp đem chiến hạm qua biểu dương ở biển Đông. Phái đoàn trở về Việt Nam thì vua Minh Mạng đã mất, vua Thiệu Trị lên thay. Năm 1847, Lapierre và Rigault de Genouilley đem chiến thuyền đến Đà Nẵng bắn đắm 5 thuyền đồng của ta. Trong “Dương Sự Thuỷ Mạt” có cho biết tên 5 tầu đó là: Kim Đằng, Phấn Bằng, Linh Phụng, Thọ Hạc, Vân Bằng. Đến thời Tự Đức, năm 1851, ông Phạm Phú Thứ qua Macao, sang Hàng Phố, đến Quảng Châu đã tận mắt nhìn thấy hàng hoá của Tây phương tràn ngập, bày la liệt và thuyền máy nhiều tầng của Tây phương chạy trên sông. Lẽ dĩ nhiên đi chuyến này về có tường trình cho vua Tự Đức những điều đã thấy. Năm 1856, khi làm việc ở Nghệ An, ông đã hướng dẫn cho thợ đóng một chiếc tầu vận tải đường biển kiểu mới và một chiếc tầu đồng đặt tên là Thủy Nhạc. Ông đã thi hành thuyết tri hành hợp nhất, ông đã được vua Tự Đức khen thưởng bốn lần.

Ngoài ra còn các bản điều trần của các ông Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Nghĩa, Lê Danh Đề, Nguyễn Tiến Thọ, Hoàng văn Tuyển, Trần Tiễn Thành,…

Về các vấn đề cấp bách như cách thức tuyển người, định cư dân chúng, phân chia ruộng đất, việc miễn giảm thuế, luyện tập quân sĩ, dùng đồ nội hoá, khai thác mỏ, đúc súng,… vua Tự Đức ban hành dụ ruộng đất không được bỏ hoang, cho phép Chu Triệu Kỳ người Trung Hoa khai thác mỏ vàng An Bảo ở Thái Nguyên,… Vua Tự Đức còn là vị vua thông minh ham tìm hiểu, ông đã nhờ các thương gia Tàu mua sách báo. Ông thường đọc báo ngoại quốc viết bằng chữ Hán như Hong Kong Daily Press, Pekin Gazette và có thể các sách tân thư của Tàu. Vì thế, sau này, ông Phạm Phú Thứ lập nhà in, nhà xuất bản Hải Học Đường in một số tân thư của Tàu như:

- Bác Vật Tân Biên (khảo cứu về các môn khoa học tự nhiên)

- Khai Môn Yếu Pháp (phương pháp khai mỏ)

- Hàng Hải Kim Châm (kỹ thuật đi biển)

- Vạn Quốc Công Pháp (công pháp các nước)

- Và cuốn Tây Hành Nhật Ký ( nhật ký đi Tây của ông)

Ông còn định in các cuốn: Địa cầu Thuyết Lực, Danh Hoàn Chi Lược, Cách Vật Nhập Môn thì bị triệu về kinh, công việc bị bỏ dở và sau đó ông mất ngày 5-2-1882.

Theo sách ông Chương Thâu trang 14 cho biết từ lúc vua Tự Đức lên ngôi cho đến năm 1862, đã có 40 vụ dân chúng nổi loạn và các vụ nổi loạn này phần nhiều do sự xúi giục của bàn tay lông lá. Bản báo cáo ngày 3-6-1859 trong châu bản triều Tự Đức, trang 51, cho biết trên rừng thì dân thiểu số hoành hành, cướp của giết người và trong làng xã thì dân theo đạo Gia Tô nổi lên làm loạn, ngoài biển thì tàu Pháp và thuyền Tầu Ô đánh phá. Thù trong giặc ngoài, triều đình chỉ còn có con đường tái lập an ninh và lo chống đỡ, đâu có thì giờ lo đến việc canh tân xứ sở nữa. Kể từ tháng 4 năm 1863, khi các bản điều trần của ông Nguyễn Trường Tộ gửi lên, vua Tự Đức có lẽ đã đọc các tân thư của Tàu rồi nên đã phê: Nguyễn Trường Tộ quá tin những điều y đề nghị… tại sao lại thúc giục nhiều thế, khi mà các phương pháp cũ của Trẫm đã rất đủ để điều khiển quốc gia rồi” ( Lịch sử Việt Nam quyển 2, trang 62)

Muốn thực hiện các dự án lớn có tính cách lâu dài thì đất nước phải có an ninh, phải có tài chánh, phải có người có khả năng chuyên môn, mà người nắm vững vấn đề đó là vua Tự Đức. Một người ngoại quốc, tiến sĩ Yoshihary Tsuboi, sau khi đọc các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ đã phê bình: Nguyễn Trường Tộ đề nghị đi vay tiền của các thương gia Hương Cảng, nhưng không bao giờ ông đề nghị một giải pháp nào tạo ra các nguồn kinh phí thật sự (Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847-1885, trang 277- Nguyên tác: L’empire Vietnamien face à la Frace et à la Chine 1847-1885 do Nguyễn Đình Đầu dịch ra Việt ngữ). Hiện nay các nước đi vay tiền của ngoại quốc để phát triển quốc gia, các quốc gia này còn được hưởng lợi nhờ cuộc chiến Việt Nam, thế mà nay tiền lời còn không trả nổi, chưa nói đến trả vào vốn, đó là Thái Lan, Đại Hàn, Nam Dương, Mã Lai Á, các nước đó đang trên đường đi đến phá sản. Nói thì dễ, làm mới khó. Trong bài viết của tiến sĩ Vĩnh Sinh có đăng trong sách này đã trưng dẫn nhà đại tư tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ đã mượn ý và đạo văn của Từ Kế Dư trong “Doanh Hoàn Chi Lục” và Ngụy Nguyên trong “Hải Quốc Đồ Chi”.

Tháng tư năm 1863, Nguyễn Trường Tộ bắt đầu gửi bản điều trần đầu tiên “Thiên hạ đại thế luận” đề nghị triều đình ta hoà với Pháp: Sự thế hiện nay chỉ có hoà. Hoà thì trên không cưỡng lại ý Trời, dưới có thể làm cho dân đỡ khổ, chấm dứt được sự dòm ngó của bọn gian nghịch, ngăn chặn được sự tranh giành của nước ngoài, thật là hay không kể xiết.

Nhiều người ca tụng ông Nguyễn Trường Tộ là người thông minh lạ thường, là bậc kỳ tài trong thiên hạ mà ông làm thông ngôn cho Charner lại không biết Charner khẳng định: “Nếu chúng ta đứng vững ở đất Nam Kỳ và tạo ra đây một trung tâm buôn bán quan trọng thì chúng ta không thể chiếm lấy Saigon mà thôi. Quyền lợi của chúng ta đòi hỏi phải bành trướng giao dịch ra toàn Nam Kỳ, một xứ gồm những tỉnh phì nhiêu nhất, giầu nhất của vương quốc này” (Phạm Phú Thứ với tư tưởng canh tân, trang 75). Ông làm việc cho Pháp ở Sài Gòn từ năm 1861 há không biết ngày 5 tháng 5, 1862, phái đoàn của Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Sài Gòn ký một hiệp ước hòa bình và hữu nghị với Pháp và Tây Ban Nha? Trong hiệp ước này có một điều khoản quan trọng là: "Triều đình nước Nam không được tự ý cắt đất giảng hoà với bất cứ nước nào nếu chưa được Pháp ưng thuận.” Đây chắc là ông cố vấn cho Pháp để chặt đứt những đề nghị của ông có trong điều trần sau này: “Dùng ngoại giao với Anh để nhờ Anh đánh Pháp” “Nhờ kẻ khác để ly gián họ” “Nhờ người khác để đánh họ”. Như vậy, nếu triều đình nhượng cho Anh hay Mỹ hay Đức hải cảng Đà Nẵng để dùng họ đánh Pháp đâu còn thực hiện nữa mà ông cứ viết điều trần làm gì. Đúng như giám mục Gauthier gọi, ông là tên tráo trở. Chưa đủ quân số, chưa đủ phuơng tiện để dứt điểm thành phố Huế, ngày 10 tháng 6 năm 1859, Pháp đã nhờ một ngưới Trung Hoa tên là Lý Thuận Nhất đưa một bức thư cầu hòa cho triều đình vua Tự Đức. Triều thần họp bàn, đa số chủ trương hòa, có người còn chủ trương hòa vô điều kiện như Lê Chí Tín, Đoàn Thọ, Tôn Thất Thường, Tôn Thất Dao và Nguyễn Hào. Kết qủa là triều đình ta đã đồng ý ký Hiệp Ước Hòa Bình Và Hữu Nghị vào ngày 5 tháng 6 năm 1862 tại Sài Gòn. Như vậy đến tháng 4 năm 1863 ông mới viết điều trần đề nghị hòa với Pháp nghĩa là làm sao, trong khi triều đình Tự Đức đã chủ trương từ lâu rồi và đã ký Hiệp Ước Hòa Bình với Pháp và Tây Ban Nha ngày 5 tháng 6 năm 1862, trước đó một năm rồi.

Ông Tộ đề nghị nhà vua nên dùng giám mục, linh mục Pháp giúp canh tân đất nước. Vua Tự Đức đã phê: “Liệu có giúp được không?” Trong Di Thảo 12, ông Tộ báo tin giám mục Gauthier có thể nhận giúp đi Pháp thuê thợ thày và mua máy móc để mở trường huấn luyện về nghề nghiệp. Vua Tự Đức đã mời giám mục Gauthier cùng Nguyễn Trường Tộ về Huế, đón rước có lọng che như các quan lớn trong triều đình. Theo đề nghị của giám mục nên cho một số giáo sĩ biết ngoại ngữ sang Pháp học một năm để giúp dạy ứng dụng. Nguyễn Trường Tộ đề nghị Nguyễn Huấn, Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều , Nguyễn Lâu,… Tất cả đề xuất của Nguyễn Trường Tộ đều được triều đình nghe theo.

Đến Pháp, ông Tộ không áp dụng kế hoạch ngoại giao, vào toà đại sứ Anh hay Đức để vận động họ đánh Pháp cứu nước mà chỉ đi liên lạc với hội khai thác mỏ. Ông không chịu đi gặp lãnh tụ đảng đối lập ở Pháp để thực thi kế họach như ông đã viết, làm áp lực với Pháp. Được dịp để thi thố tài năng cứu nước, ông không làm, tri hành không hợp nhất, thành ra chỉ là thằng nói phét thôi. Ông bảo nhờ giám mục, linh mục để canh tân đất nước thì vua Tự Đức đã thực thi, nhờ giám mục Gauthier và ông mở trường dạy nghề. Kết quả ra sao? Ông đem về được hai linh mục: Lm Thông (Montrousies) và Lm Đông (Renault) để làm giáo sư và truyền đạo hợp pháp. Giáo sĩ Hernatz điếc nặng, đến Việt Nam mấy ngày rồi về Pháp. Đem về chỉ có ba giáo sư, cả thảy chỉ còn lại hai người thì mở trường cái gì? Ông cổ võ nên hoà với Pháp là thượng sách, ông đang ở bên Pháp, thống đốc La Grandière đem quân lấy luôn ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Ở Pháp, ông viết nhăng viết cuội bản “Tế cấp bát điều” gửi về, ông không một lời phản đối hay có văn thư phản đối chính phủ Pháp, bộ Ngọai giao Pháp về việc Pháp đã phản bội hòa ước ký ngày 5-6-1862, ngang nhiên chiếm ba tỉnh miền tây Nam Kỳ. Lòng yêu nước của ông để đâu và ông có là người yêu nước không?

Trong Nguyễn Trường Tộ, Tập I, trang 67, Lm Trương Bá Cần cho biết trong Di Thảo số 51, ông Tộ cho biết: “Hiện còn ba bốn tập trình bầy sự việc, xin đợi 6 tháng gửi lên”. Như thế là Nguyễn Trường Tộ còn viết thêm ba bản văn nữa, văn bản số 54 đang dở dang… và từ trần ngày 22-11-1871. Bây giờ có tới 58 bản điều trần cơ. Vậy bản dư ai là người viết?

Trong “Thiên hạ đại thế luận”, ông Tộ viết: “Hơn nữa ở Âu Châu việc võ bị chỉ có nước Pháp là đứng hạng nhất, hùng mạnh nhất không thua ai cả. Họ lại có tính khẳng khái, hiếu chiến, với uy phong của một quân đội có xe sắt.” Đây có thể là bản điều trần giả, có thể người ở thế kỷ 20 cho thêm vào hai chữ “xe sắt”. Chiếc xe sắt đầu tiên được thế giới biết đến là do Anh chế tạo vào năm 1914, thời ông Nguyễn Trường Tộ làm gì có động cơ nổ, thì Pháp làm gì mà có xe sắt? Nên biết rằng những văn bản của Nguyễn Trường Tộ mà chúng ta có hiện nay đều là những bản được sao chép lại (Nguyễn trường Tộ của Trương Bá Cần trang 105). Trong sách của Chương Thâu, trang 18, còn cho biết có rất nhiều bản điều trần quan trọng. Bản điều trần số 55 còn đưa Nguyễn Trường Tộ thành nhà tiên tri “nhưng nước ta có một nước mạnh như vậy ở bên cạnh cũng rất đáng lo” ý chỉ đại chiến thứ hai, quân đội Nhật sang chiếm nước ta. Nhưng thời đó nước Nhật đã có cái gì chứng tỏ là canh tân đâu? Ông Tộ chết năm 1871, năm 1872 nước Nhật mới bắt đầu làm đường xe lửa Tokyo-Osaka và năm 1871 phái đoàn lãnh đạo thượng tầng của Nhật gồm 50 người đi tham quan ở Tây phương 1 năm 10 tháng để học hỏi hầu về nước thực hiện kế hoạch canh tân. Lúc bấy giờ nước Nhật đã có cái gì chứng tỏ canh tân thành công đâu mà ông Tộ biết trước được nước Nhật mạnh? Bản điều trần này có thể được viết ra vào năm 1941, thời ông Từ Ngọc Nguyễn Lân, ở gần có cha Cadière, đang ra sức đánh bóng nhân vật Nguyễn Trường Tộ, và lúc này quân Nhật đã có mặt ở Việt Nam.

Ba mươi năm sau, năm 1971, ông Đào Đăng Vỹ viết trong Bách Khoa số 359 ngày 15-12-1971 một bài viết: “Xã hội Nguyễn Trường Tộ và xã hội Y Đằng Bác Văn” để đính chính về việc Y Đằng Bác Văn và Nguyễn Trường Tộ gặp nhau chỉ là truyền thuyết do các cụ kể lại không có gì chính xác và cho biết hòan cảnh nước Việt lúc bấy giờ thì dầu không bị xâm chiếm cũng khó tiến bộ mau chóng và hùng mạnh như Nhật Bản được. Ông Vĩnh Sinh cũng chứng minh Y Đằng Bác Văn và Nguyễn Trường Tộ không thể gặp nhau được, như vậy câu nói sau đây cũng chỉ là đồ ngụy tạo: “Kể tài trí thì ông hơn tôi nhiều, nhưng cứ tình thế hai nước ta, thì tôi sẽ thành công dễ dàng mà ông sẽ hòa tòan thất bại.” Ngòai ra cũng nên nhớ rằng mấy bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ gửi lên vua Tự Đức cũng chỉ có mấy người được đọc như Trần Tiễn Thành, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Tri Phương,… đâu có phổ biến ra ngoài cho dân chúng được đọc đâu; thế mà sau này nhiều bài viết đã tán hươu tán vượn là “những đề nghị canh tân của Nguyễn Trường Tộ ít gây được ảnh hưởng rộng lớn trong nhân dân vì thiếu một tầng lớp tư sản trong xã hội,” v.v…

Ngày nay bao nhiêu người Việt ở hải ngoại gửi đề nghị về cho nhà nước Việt Nam, người ở ngoài cuộc có ai được đọc, được biết đâu?



NGUYỄN TRƯỜNG TỘ HỤT LÀM VUA


Pháp đánh Đà Nẵng, ông Tộ hẳn đã được hứa hẹn của các giám mục Pellerin và Gauthier về tương lai sẽ được đóng vai trò quan trọng nào đó. Chủ trương của Pháp là đánh chiếm Huế, lật đổ triều Nguyễn để thiết lập tân trào. Sử dụng các thầy tu, kẻ giảng để thiết lập một guồng máy hành chánh với sự trợ lực của 600,000 (sáu trăm ngàn) giáo dân Gia Tô. Giám mục Pellerin còn thuyết trình cho Ủy Ban Cochinchine (Ủy Ban Nghiên cứu về Nam Bộ), giám mục nói rằng: “Chỉ cần tấn công bất kỳ một chỗ nào trên đất An Nam thì người Gia Tô ở đấy cũng sẽ ngả theo quân đội Pháp để chống lại các quan lại An Nam”. Khi Rigault de Genouilly tấn công Đà Nẵng không thấy giáo dân đâu cả như lời giám mục Pellerin đã thuyết trình. Quân Pháp lên bộ bị quân dân ta chặn đánh thiệt hại nhiều. Trong “Dương Sự Thuỷ Mạt” có ghi: “Nguyễn Tri Phương cho đắp luỹ từ bờ biển đến ngoài luỹ Phúc Ninh-Thạc Giản, đào hố hình chữ “phẩm’, cắm chông nhọn, phủ cát rơm lên trên, một mặt cho quân mai phục bên ngoài thành Điện Hải. Quân Tây Dương chia ba ngã tiến đến, phục binh ta vùng dậy đánh, quân Tây sụp hố, bị quân ta bắn phải tháo chạy. Các quân sĩ đều được thưởng tiền, mỗi người 100 quan”. Tháng 9 năm 1858, quân và dân Quảng Nam dùng sọt tre, thùng gỗ chứa đất, đá lấp sông Vĩnh Điện để ngăn chặn đường tiến của giặc vào kinh đô. Rigault de Genouilly có 800 quân gồm 300 quân Tagals (lính đánh thuê Phi Luật Tân) từ chối hành quân chờ ngày hồi hương, chỉ còn 500 quân phòng thủ. Tháng 10 năm 1858, ông Tộ cùng giám mục Gauthier đến Đà Nẵng gặp quân Pháp, ở đây có giám mục Pellerin, linh mục Croc, có tên Việt là cố Hoà biết tiếng Việt, áp lực quân Pháp tấn công Huế cho chóng dứt điểm (Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, trang 22). Rigault de Genouilly hiểu rõ tình hình không thể tấn công được nên đã từ chối, vả lại có lẽ ông mất cảm tình với các giáo sĩ người Pháp cho tin không chính xác. Ngoài ra Rigault de Genouilly có chủ trương hợp lý : “Không thể lật đổ vua hiện tại để đưa một người Gia Tô lên cai trị dân chúng không theo đạo có tỉ lệ 200/1” (Paris Xuân 96 của Nguyên Vũ, trang 194). Nguyễn Trường Tộ đã cởi áo linh mục, có thể đóng vai hiệp sĩ Toà Thánh lên lãnh đạo Việt Nam thay vua Tự Đức nhưng đã không được như ý; cởi áo linh mục, Nguyễn Trường Tộ chỉ còn được giáo dân gọi là Thầy Lân mà thôi.

Về làm việc với Pháp, ông Nguyễn Trường Tộ cũng nghĩ sẽ được đóng một chức vụ quan trọng nào đó. Nhưng Pháp đã không tin dùng, chỉ cho chức vụ thông ngôn nên ông bất mãn. Ông hụt làm vua, hụt làm tể tướng nên quay ra viết mấy bản điều trần để chứng tỏ mình là người yêu nước, để làm thân với vua quan trong triều đình để giữ mạng sống, có thế thôi!

Như nhận xét của Trần Tiễn Thành sau đây: “Cái khoản này năm trước y cũng đã trìng bầy chưa tiện thi hành, nay lại đề cập, viện dẫn lý thế hiện tại và điển cố biện thuyết, chẳng qua chỉ là muốn tỏ ra có lòng vì mình mà thôi. Nhưng bác đi vì thời sự khó thực hành, đó là ý kiến đã được thương nghị cùng thần Nguyễn Tri Phương, thần Phạm Phú Thứ, tất cả đồng ý như vậy” (Nguyễn Trường Tộ tập I, Trang 65-66) và viết mấy bản điều trần để lấy lòng vua quan nhà Nguyễn như “Biểu tạ ơn vua” (NTT, trang 282), “Ngôi vua là quí , chức quan là trọng” (NTT, trang 174), “Tâm sự với Trần Tiễn Thành” (NTT, trang 170), “Lại tâm sự với Trần Tiễn Thành” (NTT, trang 184).



[Khi đọc xong bài “Nguyễn Trường Tộ học ở đâu” của học giả Đào Duy Anh và phần ghi chú của toà soạn Đông Dương Thời Báo (Houston, Texas), người đã từng hướng dẫn ông Nguyễn Tấn Dũng và ông Lê Minh Hương đi ăn phở ở Mỹ, đã than: Tiền nhân đã lừa chúng ta và chúng ta bị tiền nhân lừa.]

Đông Dương Thời Báo







Copyright © Trường An. All rights reserved.