Solitude

Cảnh như thị, nhân như thị

NN
Friday, March 21, 2014 Author: Trường An

(Quá lười đi tra để trích dẫn) Trong thực lục có đoạn Minh Mạng hỏi quần thần là tục lệ dựng cây nêu dựa trên điển tích nào, các quan trả lời là chẳng dựa theo gì hết => Chuyện cổ tích "Cây nêu ngày tết" đến thời gian đó cũng chưa có mặt.

Mà trong truyện có nhắc đến bắp ngô, một giống lương thực chỉ có từ thế kỷ 16, 17 trở đi. Thêm nữa. "con quỷ" được nhắc tới ở đây "bị đuổi ra biển".

=> Ai đó đã troll người Pháp bằng truyện này. =)) Các bạn Pháp cũng rất "ngây thơ" đi chép lại rồi truyền bá như thật luôn. =o=

---

TT__TT

Muốn tìm cuốn "An Account of Cochin-China" của Christoforo Borri với cuốn "A Description of the Kingdom of Tonqueen" của Samuel Baron. :(( Cuốn đầu đã được dịch rồi nhưng giờ mới biết là vừa dịch vừa cắt vừa sửa be bét, cắt sạch bách các phần nói về nghi lễ, tập tục, cắt luôn phần nói về chiến tranh (Mạc Trịnh Lê Nguyễn Chăm)... *ghi chú là từ giờ có đọc gì thì cũng tìm sách nước ngoài đọc, ứ tin bản dịch nữa =.=*

"Ghi chép của Borri và Baron thể hiện sự khác biệt rõ rệt của Đàng Trong và Đàng Ngoài. Theo Borri, người Đàng Trong có nền cai trị tốt, thân thiện và dễ tính, tò mò về những đất nước khác, chào đón người ngoại quốc, làm việc buôn bán và giao thương tốt, giàu có thịnh vượng, ngôn ngữ dễ học. Còn theo Baron, người Đàng Ngoài được cai trị tệ, không thân thiện và cáu kỉnh, chẳng tò mò gì với nước ngoài, nghi ngờ người ngoại quốc, vụng về trong buôn bán, nghèo khổ và đói khát, ngôn ngữ khó học."

"Công ty Đông Ấn Hà Lan thiết lập quan hệ buôn bán mạnh với Trịnh vào khoảng 1630s. Trịnh kiên quyết lôi kéo Hà Lan vào cuộc chiến với Nguyễn, và sự thù địch giữa người Tin lành Hà Lan cùng Công giáo Bồ Đào Nha cũng góp phần vào... Người Anh thiết lập quan hệ buôn bán với Đàng Ngoài vào 1672, nhưng thực tế không thành công. Khi người Anh đến, cuộc chiến giữa Trịnh Nguyễn đã kết thúc và chúa Trịnh cảm thấy chẳng còn ích lợi gì ở người châu Âu. Người Anh dựng thương quán của mình ở Đàng Ngoài đến khoảng 1690s, nhưng chẳng có gì ngoài thất vọng dành cho họ."

---

(Samuel Baron)

"Trước hết, kinh đô Thăng Long đã tỏ ra chật chội. Chợ họp mỗi tháng hai kỳ vào những ngày mồng một và ngày rầm, mỗi lần có phiên chợ người các nơi đổ về đông chật đường đi, muốn nhích lên độ một trăm bước phải mất đến nửa tiếng đồng hồ. Phố phường tụ họp theo nghề nghiệp. Các dinh thự xây cất bằng gỗ, trông bề ngoài tầm thường chứ không có gì nguy nga, tráng lệ. Nhà của thường dân bằng tre nứa. Những điều này phần đông được giáo sĩ Baldinotti xác nhận (1626) và giải thích: "Vì nhà bằng tre nứa nên Thăng Long hay bị hỏa hoạn, có lần thiêu rụi tới năm, sáu nghìn nóc nhà, song nhờ Kẻ chợ vốn có nhiều hồ ao nên dập tắt lửa dễ dàng và chỉ bốn, năm hôm sau nhà cửa lại dựng lên san sát như cũ."

Người dân Việt tầm vóc bé nhỏ, yếu ớt, tính tình nhu hoà, không nóng nẩy nhưng ưa ganh tị, lại độc ác, sống sượng, hay mê tín, dị đoan, hay khoác lác; dân tộc tầm thường, nghèo khốn mà lại khinh bỉ ngành giao thương, hiếu học chẳng phải vì ham hiểu biết mà vì muốn đạt mục đích ra làm quan; không ưa du lịch mà cũng không tin lời những người đã đi xa thấy rộng, tự cao, tự đại, cho rằng Việt Nam là nhất..."

"Giáo sĩ Amaral (1638) lại viết hơi khác: "Kẻ Chợ thường bị chiến tranh thiêu rụi nên lâu đài không xây cất bằng đá cho bền vững mà xây bằng gạch, gỗ, có bị thiêu đốt xây lại cũng dễ. Vì lo hỏa hoạn, trong thành chỉ có cung vua Lê, phủ Chúa nằm ở ngoài thành ".

---

Cố Giuliano Baldinotti người Ý, sinh ở Pistoria gần Florence là vị giáo sĩ dòng Tên (compagnie des Jésuites) thứ nhất đã đến truyền giáo ở Bắc Kỳ vào khoảng tháng 3 có tả xứ Bắc như sau này:

"Kinh đô Bắc Kỳ ở vào vĩ tuyến 21 độ. Lúc không có gió thổi thường vào hồi tháng sáu, thì khí hậu rất nóng. Kinh đô không có thành trì và cơ quan phòng thủ gì cả. Ngoài cung vua ra xây bằng đá từng tảng lớn và lợp ngói, thì các nhà cửa đều bằng tre lợp tranh và không có cửa sổ.

Trong thành phố có nhiều hồ ao để đến lúc có hỏa hoạn cho dễ chữa cháy. Có đám hỏa tai thiêu tới 5, 6 ngàn nóc nhà, nhưng chỉ bốn năm hôm sau lại dựng lại ngay. Thành phố chu vi độ 5, 6 dặm và dân cư thì đông vô kể. Gần thành phố có một con sông lớn thuyền bè có thể đi lại được. Sông đó chảy ra bể, ở chỗ cách kinh thành độ 18 dặm. Nước sông rất đục, nhưng ai cũng phải uống vì trong thành phố không có giếng và thùng chứa nước. Mỗi năm thường nước sông tràn bờ hai lần vào đầu tháng sáu và tháng 11 ngập đến nửa thành phố, nhưng nước lụt đó rất chóng rút ra."

===> Xác định luôn là Thăng Long thời ấy không có thành trì gì nhóe. Sau khi Trịnh Tùng đánh Mạc, triệt hạ hết thành thì không xây lại. Tây Sơn sau này xây được nửa cái thành trong.

Mà mềnh đang nghĩ "nhà cửa toàn bằng tre lợp tranh" thì có gì "giống Venice" như trong cái bài nì: Đông Kinh vàng son. Ờ mà, mỗi năm ngập nửa thành phố 2 lần thì "giống Venice" quá rồi. =))

Anh với Hà Lan rút hết vào đầu thế kỷ 18 ồi nhé. Đến năm 1773, nạn đói hoành hành, chúa Trịnh mới mở lại cửa buôn bán với TQ để đổi lấy gạo.

Do trình hoang tưởng quá nặng của những bài báo như này nên mới có sự tưởng bở ếu nhẹ chăng? =)) Người VN hông thích nghiên-cứu sử, chỉ thích xuyên-tạc sử bằng thủ đoạn cắt dán thêm bớt thôi à. =)) Bao lâu nay mềnh có thói quen hễ đọc "trích dẫn" là phải kiếm nguồn gốc để coi vì quá sợ "sử gia" nước nhà.

---

Vầngggg. Thế là thế quái nào mà triều đại mở cửa thông thương nhiều nhất, buôn bán thịnh vượng nhất lại trở thành triều đại "bế quan tỏa cảng" được vậy?

---

Minh Mệnh đặc biệt chú ý đến quân đội, nhung phục của Pháp, hỏi rất cặn kẽ và dựa theo Pháp chế tạo ra một loại ngù đeo hai vai cho các võ quan. Những viên quan này thường nói trộm sau lưng vua: "Chúng mình là sĩ quan của Pha lang cha".

Cái triều đình này... hài khó tả. =)) Mà thời này MM cũng đã áp dụng đủ thứ của-Tây như huân chương - được gọi là kỷ lục - để tặng cho chiến công.

---

Vua từng cùng với thị thần bàn việc học, nói rằng: “Trẫm từ khi làm thái tử, sau khi vấn an được nhàn rỗi, không làm việc gì, chỉ chăm xem sách. Phàm những sử Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, không bộ nào là không xem; nhưng tính trẫm không nhớ lâu, nên khi nói chuyện, nhớ đến việc cũ nhà Nguyên, nhà Minh, có khi nhớ việc mà quên tên người, trẫm hỏi các khanh, cũng không trả lời được, có lẽ chưa đọc chăng?”.

Quang lộc Tự khanh Phan Huy Thực tâu rằng: “Từ đời Lê trở lại, những người học thi cử chỉ đọc các sử Hán, Đường, Tống làm lối tắt thi cử”.

Vua nói: “Từ Nguyên, Minh cho đến Đại Thanh có đến 6, 7 trăm năm. Cứ nay mà xem thì từ Tống trở lên đã thành đời thái cổ rồi, mà kẻ học giả bỏ gần cầu xa là cớ làm sao?”. Lại quay hỏi Thiêm sự Lê Văn Đức. Lê Văn Đức đáp rằng: “Thần cũng chỉ học văn cử nghiệp mà thôi”. Vua lại nói: “Văn cử nghiệp làm lầm người ta đã lâu. Trẫm cho rằng văn chương vẫn không nhất định. Nay văn cử nghiệp chỉ câu nệ sáo cũ, lên mặt với nhau, đứng riêng phe phái, nhân phẩm lấy đấy làm cao thấp, khoa trường lấy đấy làm đỗ hỏng, học hành như thế, lạ gì nhân tài mỗi ngày một kém. Nhưng tập tục theo nhau, khó mà thay đổi. Vài năm nữa nên bàn thay đổi”.

---

Hôm nay nhận được cái comt này trong NMBT:

"Chị ơi, đọc xong mà như có cái gì tàn lụi trong lòng"

;_____;

T__T

Cái cảm giác ức chế thời kỳ viết nó mà mình không biết gọi sao cuối cùng cũng có người gọi ra được.

Nói chung là như lời đề của Minh Bột di ngư. Thời thịnh của Mạc Thiên Tứ mà những câu như thế này:

Cựu quốc hoang lương sự dĩ thù,
Ky nhân hải ngoại độc thừa phù.
Tự phi kinh cức quy chân chủ,
Cánh hướng yên ba học điếu đồ.
Thiên lý vãn triều quy túc lộ,
Bán khê xuân lục trưởng tân bồ.
Anh phong quan dữ tư nhiên tận,
Liêu quách giang thiên phiến nguyệt cô.

Tạm dịch:
Nước cũ tan tành việc đã lâu,
Bè côi vượt bể ngạo ba đào.
Mở đường gai góc theo vua thánh,
Hướng nẻo sông hồ học bạn câu.
Ngàn dặm sóng triều cò nghỉ cánh,
Nửa khe xuân biếc cỏ khoe màu.
Phong tư người trước nay đâu vắng,
Quạnh quẽ trời sông mảnh nguyệt đau.

Với lại:

Tư mỹ nhân hề diểu hà chi,
Hoài cố quốc hề đồ dẫn lĩnh.
Tri cán thực hề canh tường,
Cố tiêu y hề khâm ảnh.

---

Tổng kết lại về Lê Văn Duyệt:

- Về phe phái trong triều đình: Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường vốn thân thiết với nhau từ lâu, khi cùng ra làm quan ở Bắc Thành thì chắc càng thân. Đặng Trần Thường có lẽ cũng khá có ảnh hưởng với các quan miền Bắc (Nguyễn Du cũng do Đặng Trần Thường tiến cử, và bài Long Thành cầm giả ca có lẽ làm ở nhà họ Đặng). Ở phía bên kia, Lê Văn Duyệt và Lê Chất cũng là 1 phe - Và đáng kể hơn là Lê Văn Phong, em Lê Văn Duyệt, sau này là Phó Tổng trấn Bắc Thành bên cạnh Lê Chất.

Đến đời Minh Mạng, lại thấy chia nhóm Trịnh Hoài Đức - Lê Văn Duyệt. Trịnh Hoài Đức có về phe với Nguyễn Văn Thành không thì không rõ, nhưng trong vụ án của Đặng Trần Thường, Trịnh Hoài Đức đã có ý xử nhẹ cho Đặng. Khi Nguyễn Văn Thành tụ tập quan lại đồng liêu nói về chuyện lập thái tử, Trịnh Hoài Đức cũng có mặt, khuyên Nguyễn Văn Thành rằng không nên "tham công". Đáng kể hơn là còn có vụ án Hiệp Tổng trấn Gia Định Ngô Nhơn Tịnh bị vu cáo mà ốm bệnh chết - Ngô Nhơn Tịnh cùng trong nhóm Gia Định tam gia với Trịnh Hoài Đức, là anh em từ thời bần hàn với nhau.

Điểm rất dễ thấy là nhóm Lê Văn Duyệt dần dần chiếm giữ hết các vị trí quan trọng vào đầu thời Minh Mạng: Lê Văn Duyệt là Tổng trấn Gia Định, em Lê Văn Phong là Phó Tổng trấn Bắc Thành, Lê Chất làm Tổng trấn Bắc Thành. Minh Mạng sau này lại nghiêng về với nhóm Trịnh Hoài Đức, cố gắng níu kéo Trịnh Hoài Đức bằng mọi giá, ngay cả khi Trịnh muốn từ quan vì con mất chưa chôn được. Lê Chất và Lê Văn Duyệt nhiều lần bày tỏ sự khó chịu rõ ràng với Trịnh Hoài Đức.

Cái thế này bị phá vỡ vào 1825-1826, khi Lê Chất, Lê Văn Phong và Trịnh Hoài Đức lần lượt qua đời. Rồi sau này Minh Mạng cấm ngặt chuyện bè phái, phát hiện ai bè phái với nhau thì cho đi chăn vịt chung cùng nhau lập tức (Lâu lâu lại thấy hầm hừ "bênh nhau nghĩa là kéo bè với nhau đó phải không" dọa quần thần mất vía, làm quan thì không có bạn bè anh em gì hết).

- Về vụ án của Tống Thị Quyên: (Lần trước mình nhầm) Tống Thị Quyên vốn bị xử tử ở Gia Định, sau khi Lê Văn Duyệt trở về Gia Định từ chuyến đi "từ chức ép vua" - Nên Lê Văn Duyệt mới tâu lên Minh Mạng, rồi MM cũng bảo LVD xử Tống Thị Quyên - ở Gia Định. Tại sao vợ của hoàng tử Cảnh ở Gia Định thì không rõ, nhưng Gia Định lúc đó là "địa bàn" của Lê Văn Duyệt, vua muốn nhúng tay vào cũng không có cửa.

Không rõ Lê Văn Duyệt có ủng hộ việc lập Minh Mạng hay không, nhưng di chiếu của Gia Long đưa cho Lê Văn Duyệt giữ, khi lập thái tử, Gia Long lại gọi Trịnh Hoài Đức đến viết chiếu trước mặt các quan.

- Mấy cái tên trong vụ án Nguyễn Văn Thành cứ chập chờn bay lượn suốt quanh Lê Văn Duyệt. '_'




TCG
Saturday, March 15, 2014 Author: Trường An

Hiểu biết đầu tiên của mình về chính sách thuộc địa của Thiên Chúa giáo là từ bộ Shogun của James Clavell. Cuốn sách này, do 1 tác giả Mỹ viết, đã tóm lược hầu như đầy đủ các vấn đề trong quan hệ Âu - Á thời đầu thế kỷ 17 - Trong đó, có những vấn đề mà "nhà nước bảo hộ" trong công cuộc "khai sáng văn minh" sẽ không bao giờ nói ra.

Nếu theo dõi lịch sử quá mệt mỏi và chán thì nên đi đọc bộ này để tóm lược được những nét chính trong quan hệ quốc tế thời tiền thuộc địa. Không chỉ chính sách xâm chiếm thuộc địa, truyền đạo, mà còn cả quan hệ Tin lành - Thiên Chúa, quan hệ xã hội, cái nhìn tự nhiên...

"Mọi cái ở phía Đông con đường này là của Bồ Đào Nha, mọi cái ở phía Tây là của Tây Ba Nha. Pêđro Cabran đã tìm được Braxin năm 1500, cho nên bây giờ Braxin thuộc Bồ Đào Nha, văn hóa bản địa và những người cai trị hợp pháp bị tiêu diệt và Bồ Đào Nha trở nên giàu có với vàng bạc lấy từ các mỏ và cướp từ các đền nước đó. Phần còn lại của châu Mỹ phát hiện được cho đến nay là thuộc quyền sở hữu của Tây Ba Nha: Mehico, Peru, gần như toàn bộ lục địa phía Nam. Họ đã diệt dân tộc Ince, xóa bỏ nên văn hóa của dân tộc này, bắt hàng trăm nghìn người Inca làm nô lệ. Bọn 'conquistadors' có súng ống hiện đại, còn thổ dân thì chẳng có gì. Đi theo bọn 'conquistadors' là các tu sĩ. Chẳng bao lâu, các vua chúa của họ đã cải đạo và sự hằn thù cũng mòn mỏi đi. Thế rồi vua chúa này bị xui giục đánh vua chúa kia và vương quốc đó bị nuốt dần từng mảnh."

"Làm sao họ lại có thể cho mình những quyền như thế được?"

"Không đâu, họ không tự cho mình những quyền đó. Giáo hoàng cho họ những quyền đó, đích thân Giáo hoàng, người đại diện cho chúa Kito trên trái đất. Đánh đổi lấy việc truyền đạo."

"Giáo hoàng Alexander VI đã định ra đường phân ranh đầu tiên, năm 1493. Năm 1506, Giáo hoàng Giuliut II phê chuẩn những thay đổi trong Hiệp ước Toocđêxila do Bồ Đào Nha và Tây Ba Nha ký năm 1494, sửa lại đường ranh giới đôi chút. Giáo hoàng Clemen VII phê chuẩn Hiệp ước Xaragôxa năm 1529, chỉ mới cách đây có bảy mươi năm, vạch ra một đường thứ hai ở chỗ này." Ngón tay anh vạch một đường kinh tuyến trên cát, cắt qua mũi chót phía Nam của Nhật Bản. "Điều đó đem lại cho Bồ Đào Nha toàn quyền đối với nước các vị, đối với tất cả các nước này: từ Nhật Bản, Trung Hoa đến châu Phi - theo cách tôi đã nói. Để độc quyền bóc lột - Bằng mọi phương tiện - đánh đổi lấy việc truyền đạo Thiên Chúa."

Đường phân ranh đầu tiên do Giáo hoàng Alexander VI ban hành vào 4-5-1493: Link.

Columbus khám phá đường sang châu Á vào 1492, khiến quan hệ của Bồ Đào Nha, Tây Ba Nha - hai quốc gia khống chế thuộc địa ven biển ở châu Phi - lung lay. Hai quốc gia này, sau nhiều tranh cãi về việc phân chia lãnh thổ - đã kéo Giáo hoàng vào cuộc. Đến Hiệp ước Zaragoza năm 1529 Link, các nước Thiên Chúa giáo xem như đã chia xong thế giới.

Người Bồ Đào Nha phát hiện và chiếm giữ Malacca, con đường ngắn nhất để sang châu Á, vào năm 1511. Đến đầu thế kỷ 17, người Anh và Hà Lan cũng đã phát hiện ra con đường này. Và Hà Lan đánh bật Bồ Đào Nha khỏi Malacca vào 1641 - Chấm dứt sự hiện diện độc quyền của hai nước này ở châu Á, bắt đầu cho quá trình xâm chiếm - gây rối của Hà Lan, Anh, như sự kiện chiếm giữ Đài Loan, Macao, Côn Đảo.

Nước Pháp từ lâu đời vẫn tự hào là "Nước Pháp Công giáo" đến khoảng thời gian ấy mới thâm nhập vào châu Á. Năm 1527, quân đội Pháp dưới sự lãnh đạo của Charles III phá hủy Roma, khống chế Giáo hoàng Clement VII. Việc này khiến quan hệ của Giáo hội và Anh quốc đổ vỡ. Dẫn đến kết quả nước Anh tách khỏi Giáo hội, và cuộc chiến tranh Kháng cách lan khắp nơi.

Trong hầu hết thời gian trước thế kỷ 19, nước Pháp gặp rất nhiều cạnh tranh trên đường biển tới châu Á. Ban đầu, thủy thủ đoàn của Pháp bị Tây Ba Nha, Bồ Đào Nha ngăn chặn, bắt giữ. Thành phần được tự do đi tới các quốc gia châu Á là những người Pháp mang sứ mệnh truyền đạo, tức là những giáo sĩ Pháp đi trên những chuyến tàu Bồ Đào Nha. Nơi nước Pháp có liên hệ đầu tiên chính là Xiêm La, nhưng không có kết quả.

Từ đầu thế kỷ 17, Pháp lại gặp phải sự cạnh tranh của Hà Lan và Anh. Đến tận 1601, François Martin de Vitré là người Pháp đầu tiên mới tới được vùng Viễn Đông. Vua Henry IV liền cho lập công ty Đông Ấn Pháp và bắt đầu gửi đi vài chiếc tàu. Cuộc tranh chiếm đầu tiên giữa Pháp và Hà Lan ở Malacca vào 1619 có kết quả là sự thua trận cho người Pháp, nhưng Hà Lan cũng quyết định không đánh nhau với Pháp vì "Không có hy vọng lập được thuộc địa ở châu Á và Ấn Độ". Cuối thế kỷ 17, Pháp xung đột với Xiêm La và bị quốc gia này cấm cửa.

Năm 1685, Pháp bắt đầu can thiệp vào "thị trường truyền đạo" vốn là độc quyền của Bồ Đào Nha bằng cách gửi 5 giáo sĩ đến Trung Quốc. Các giáo sĩ Pháp, như đã thấy ở Ayutthaya và Việt Nam, tìm mọi cách can thiệp vào hệ thống chính trị.

Nhưng vì những cuộc chiến ở châu Mỹ và bản quốc, nước Pháp suy yếu, công ty Đông Ấn Pháp phá sản. Sau sự rối loạn thời Napoleon, nước Pháp ngập trong nợ nần và xung đột liên miên. Đến lúc này, châu Âu lại chuyển mình mạnh mẽ qua 2 cuộc CM khoa học kỹ thuật, đưa Pháp tham gia vào công cuộc đánh chiếm thuộc địa chung cùng các đế quốc.

Nước Pháp dùng cùng 1 cách thức với các nước Thiên Chúa giáo để xâm nhập vào châu Á: gửi các giáo sĩ đến truyền giáo. Trong lịch sử đối ngoại của Pháp với châu Á, các giáo sĩ luôn được gửi đi trước, đến các quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc, Xiêm La, Việt Nam... để rồi dẫn theo sau là các chuyến tàu.

Trong suốt khoảng thời gian thế kỷ 16-19, Giáo hội cùng các Giáo hoàng - trong cuộc tranh chấp triền miên giữa các quốc gia châu Âu - trở thành công cụ của quốc gia chiếm ưu thế. Những hiệp ước phân chia thuộc địa và lực lượng giáo sĩ đi cùng với quân chinh phạt hoặc "thực hiện nhiệm vụ quốc gia" là một hiện thực lâu đời.

Như hệ thống giáo sĩ ở Việt Nam sớm nhất hầu hết là người Bồ Đào Nha, Tây Ba Nha. Sự "thống nhất dưới Giáo hoàng" này chỉ bị phá vỡ khi có sự tranh chấp của các quốc gia đã tách khỏi Giáo hội như Anh và Hà Lan. Các vua chúa có lẽ vì thế sớm nhận ra nguy cơ từ đoàn người này, như chúa Hiền vào năm 1665 đã ban hành chỉ cấm đạo vì "nghe nói quốc gia này được đặt dưới sự cai trị của nhà vua Bồ Đào Nha" - Điều này rất đúng với hiện thực lịch sử. Người Bồ Đào Nha và Tây Ba Nha đã đến châu Á từ sớm, đoạt lấy các lãnh thổ "thuộc về" họ như Malacca, Philipine. Nhưng Hà Lan và Anh, sau này là Mỹ đến phá vỡ "thế cân bằng" này. Cuộc tranh chiếm diễn ra gay gắt trên mọi mặt biển.

Về những chuyến tàu Tây dương, Jonh Barrow từng mô tả:

Người chỉ huy của mỗi chiếc tàu Bồ Đào Nha, Tây Ba Nha, Hà Lan, vượt qua Mũi Hảo Vọng, cho phép mình cái quyền bắt giữ, chiếm hữu hay phá huỷ bất cứ tàu thuyền nào trên đường mình đi, dù có là thuyền Arab, Malay hay China. Chuyến hải hành tới phương Đông được ông ta coi như một chuyến săn biển, và dưới những mệnh lệnh cướp bóc, ông ta gây chiến với người bản địa hiền hoà như bọn vô đạo hay tà đạo. Những chiếc thuyền China nặng trĩu hàng hoá, lúc ấy trở thành mục tiêu dễ dàng để cướp. Người chủ thuyền hay chủ hàng bị ném xuống biển vì tội dị giáo khi không ngay lập tức quỳ xuống trước thánh giá. Và dù hoàn toàn vô tội hay phủ định những gì bị gán cho mình, sự cứng cỏi khiến ông sẽ không được lựa chọn. Với thái độ như thế, cuộc cướp bóc có hệ thống đã đẩy người China khiêm tốn khỏi đường buôn bán của họ. Và tôi xin lỗi phải nói rằng những người đi biển trước đây của đất nước chúng ta cũng không ngoại lệ trong hành động và thái độ ô nhục này; và trong vài trường hợp, đã phạm tội ác tàn nhẫn không thể chấp nhận hay biện hộ với những người vô tội.

(Việc này cũng đã được nhắc tới trong Shogun, người Tây dương dùng chiêu bài "dị giáo" để triệt hạ tất cả đối thủ, và những con tàu "săn biển" vẫn còn được nhắc tới rất nhiều đến ngày nay.

Ở VN, sau khi Anh chính thức tuyên chiến với TQ, ghi nhận sự quấy rối, tấn công các cảng biển, thậm chí tấn công cả quan tướng, quân đội trú phòng trong thời Thiệu Trị của các tàu Anh, Pháp.)


Dò lại danh sách "tử đạo" của giáo hội VN, trong thời Minh Mạng, không có ai bị giết trước 1833, các chính sách của nhà vua vẫn còn mang tính răn đe, dạy dỗ. Nhưng người Gia tô tham dự vào sự biến thành Phiên An, rồi sau đó theo thuyền về với Xiêm - Những cuộc truy bức bắt đầu.

(Cũng theo dữ liệu của giáo hội, Lê Văn Khôi đã muốn sử dụng linh mục để liên hệ với Xiêm và Anh quốc. Việc này sau đó bị khai ra sau khi thành bị hạ. Lúc này, mối quan tâm về Thiên Chúa giáo của nhà nước có lẽ đã đặt ngang với an ninh quốc gia.)

- 2 người (có lẽ cả Phú Hoài Nhân là 3) bị bắt ở Phiên An đều là người của Hội thừa sai Paris.

- Từ 1851 - 1861, các tu sĩ bị xử tử có 5 người Tây Ba Nha, 4 người Pháp.

- Những người bị giết vào thời chúa Trịnh ở khoảng 1745, đây là khoảng thời gian Nguyễn Hữu Cầu, Hoàng Công Chất nổi loạn ở vùng Sơn Nam, Hưng Yên, Hải Dương, phá tan phố Hiến. Có thể ngay từ lúc này, các thừa sai Thiên Chúa giáo đã liên quan với quân nổi dậy? Đến 1773, có nạn đói, sợ rối loạn, chúa Trịnh Sâm lại tiếp tục ra lệnh truy nã đạo trưởng.

(Mà đây là "nông dân khởi nghĩa" Nguyễn Hữu Cầu đấy hẻ: "Lúc ấy giặc cỏ ở Hải Dương thấy triều đình đương bận việc đánh dẹp mặt bắc, nhân cơ hội sơ hở, bèn quấy rối cướp bóc các lộ Hồng Châu, Khoái Châu, đi đến đâu vơ vét nhẵn nhụi đến đấy. Bắt được nhân dân, chúng đặt ra từng đẳng hạng để sách nhiễu phải chuộc, chúng treo người lên cần tre, đổ nước vào mũi, làm đủ mọi sự ác ngược, hoặc bỏ hạt thóc vào trong mắt rồi khâu lại, hoặc trong nhà giam có rắn, rết và đỉa để làm cho người ta phải khổ sở, thậm chí lấy giáo xiên trẻ con, dùng lửa thiêu phụ nữ, rất là thảm khốc. Dân sở tại kéo đến cửa khuyết kêu về việc nguy cấp, xin triều đình sai tướng đem quân đến để cứu vớt lấy dân.")


---

Nói thiệt là gặp mềnh với sự kiện 1833 thì mềnh cũng chửi. =0= Vào nước người ta gây chuyện rồi còn tỏ vẻ oan ức quái giề? Mợ nó chứ Gia Định tiêu đời (vì cuộc chiến với Xiêm mà "dân 10 phần còn 2,3 phần") bởi những thành phần thế này thì không muốn bóp cổ hết cũng uổng.

(Ngược đời là cái đứa đi gây chuyện bi giờ lại to mồm hơn hết đổ lỗi cho "nạn nhân" kia mới tài. =0= Hài nhất là vị "thánh" "bị bắt" ở trong thành Phiên An suốt 3 năm trời, "không trốn thoát được", "bị giết oan", "mấy đứa kia nó khai chứ tôi có làm gì đâu". Trong khi đến trẻ con đàn bà còn thòng dây trốn khỏi thành được. Thiệt là ăn cướp la làng.)

---

Cứ như NB, bóp cổ đuổi đi hết ráo ngay từ sớm, ban hành bushido cho học trong mấy trăm năm, thế là thần dân học gì thì học, đạo gì đạo, cứ nghe vua trước hết. Thế là từ 1 đất nước phân chia manh mún đánh nhao loạn xạ, loạn mấy trăm sứ quân tít mù, dân NB trở thành dân kỷ luật nhất thế giới.

Nhìn toàn cảnh, mấy trăm năm đóng cửa bế quan, nền cai trị chuyên chế khốc liệt có ích vô cùng với NB chứ không đùa. Dân NB không phải chịu nạn chiến tranh của mấy "sứ quân" rởm đời, rèn luyện tinh thần, kỷ luật thép, xây dựng định chế xã hội, văn hóa văn nghệ... Hơn hết là thống nhất đất nước manh mún sau Chiến quốc thành 1 tổng thể.

Những nhà cai trị của Mạc Phủ là những lãnh đạo xuất sắc, kể cả khi đối đầu với Tây dương, thật sự. =0= Người lãnh đạo giỏi phải hiểu đất nước mình thế nào.

---

Bài được viết hoàn toàn không với ý định đả kích tôn giáo (Mềnh cũng có nguyên ủy sâu xa với đạo ợ), mà là khía cạnh lịch sử - thế tục của đạo.




N
Monday, March 10, 2014 Author: Trường An

Có 1 sự thiệt là không đọc không biết viết gì, mà đọc xong rồi... càng không biết viết gì. TT^TT

Thấy cái tranh chỉ dẫn trang điểm kiểu thời Đường, táy máy lấy mặt mình thí nghiệm (vầng, cái gì cũng nên thử =)) ). Kết (hậu) quả là... đẹp theo kiểu rất đáng ngạc nhiên, thật sự á. =o= (dù mang cái mặt này thì không dám ra đường. =)) )

---

Sau này chắc những bài NN (nói nhảm) liên tiếp thế này sẽ viết thêm chứ không ghi bài mới nữa cho đỡ tốn chỗ.

Dò lại phần mấy bài sớ được dâng cho MM sau khi vua kêu gọi "tự do ngôn luận", bài thì "hiến kế" qua đánh Lưỡng Quảng, bài thì đốc thúc qua chiếm Lào, đánh Xiêm... cho thấy căn bệnh "ba chấm" của dân VN có từ xưa ồi. =.= Vui hơn nữa là có ông chỉ bảo MM lập thái tử thế này thế nọ (MM: chuyện nhà ta cần ngươi xen vào à?). MM bảo: ta đây kêu các ngươi hiến kế quốc thái dân sinh thì ứ có, bảo hiến kế trị thủy chờ mốc mỏ không có ai hó hé, toàn mấy thứ nhảm nhí điên khùng này là xao, là xao?

Cho nên sau này càng già MM càng xài nhiều cái câu "dân ngu ngoan lắm chuyện". =o=

Nhìn lại danh sách mấy tiến sĩ cử nhân thi đỗ, những ông "hay chữ" nọ kia thì thấy hầu như chẳng ai có thành tích đáng kể. Y choang lúc Tự Đức ra chiếu kêu gọi hiền tài giúp sức cải tổ đất nước - Im thin thít, và đã nói thì toàn nói nhảm. =o=

---

Thế Tổ rất ngợi khen ban cho tên Thật. Nguyên trước đó Thế Tổ bảo: "Phi nguyên có tên Hoa là lấy ý nghĩa ở 4 chữ "Đặc dĩ phương văn" (để truyền hương thơm) sao bằng tên Thật gồm cả phúc lẫn quả."

Năm 1828, Minh Mạng cho xây vườn Thiệu Phương trong cấm thành, nghĩa là "hương thơm truyền mãi". '_' Hóa ra Thiệu Trị chảy nước mắt nhắc đến cha lại nói đến vườn Thiệu Phương là vì thế à? '_'

Đọc thấy quan hệ con dâu - bố mẹ chồng này tốt lạ thường, trong khi Hồ Thị Hoa mới cưới MM được 1 năm thì qua đời. Nhìn lại thì HTH là con của thiếp thân thị vệ bên cạnh GL, từng đi từ ngày đầu sang Bangkok rồi ra Bắc xong mới qua đời, HTH với MM lại bằng tuổi nhau, dám 2 người là thanh mai trúc mã từ bé. '_' (HTH sinh ngày 30-11-1791 - một cặp ST-NM)

Hiền phi qua đời năm 1843, nghĩa là sau MM, nghĩa là cái câu chuyện thỏi vàng thỏi bạc gì đó chưa chắc đã có thật (mà phần nhiều "truyền thuyết" kiểu này là do người tưởng tượng thêm nếm ra). Nhưng giờ đọc lại câu nói "đến khi ta chết vẫn chỉ ra đi tay trắng" của Hiền phi, mới cảm thấy chua xót lạ thường. Sống cả đời bên cạnh mà không bằng một người đã chết.

---

Đọc mấy cái sớ của các quan cấm cửa Tây, tự dưng thay chữ "TQ" vào là... mọi thứ thành có lý. :)) Nào là "nó nhăm nhe xâm chiếm ta, gian ngoan giảo hoạt dối trá lắm trò, bây giờ nó vác súng tới tận nơi nã vào dân quân ta mà ta còn đi giao lưu mua bán với nó thì ta còn ra cái gì, tiền của dân ta vất vả làm ra sao lại đi làm lợi cho nó, để nó tiếp cận thì nguy hiểm lắm..." Vầng, hãy thay chữ vào chỗ trống. =))

Đó là bi chừ TQ còn là thị trường xuất khẩu lớn nhất, là chỗ cung ứng hàng hóa bự nhất, dân bi giờ đã được học hành, biết là nếu tách khỏi nó thì chỉ có húp cháo, mà đánh nó thì thua chắc. Chứ Tây ngày đó thì thiếu nó (dân) ta chẳng chết, (lúc đó) chưa chênh lệch bao nhiêu, nó gây hấn gây sự triền miên 7,8 năm mới tạch.

Mà uầy, nói chung là phản ứng của dân VN từ xưa đến nay nó thế. Lỡ TQ sau này biến thành đại cường quốc số 1 TG, lúc đó lại có các thành phần tân-tiến-yêu-nước trách cứ thành phần thủ-cựu-yêu-nước là ngày xưa anti nó, ngăn sông cấm chợ nó làm cái gì, phải để nó vào "phát triển VN" chớ. Còn thành phần chính-phủ-chậm-tiến thì khóc lóc, chúng tui mà "mở cửa" hơn nữa là bọn yêu-nước nó biểu tình, nó xài xể, nó chửi chúng tui bán nước, nó đòi lật đổ chúng tui. Và tầng lớp trí-thức-yêu-nước nâng cao tinh thần căm thù giặc bằng cách anti tất cả những gì liên quan đến "địch", cái gì của chúng nó cũng xấu cũng dở cũng tệ cũng không đáng ghé mắt tới, đứa nào ngo ngoe đi "học hỏi" cái gì của chúng nó là đồ bán nước, thiếu tinh thần dân tộc, thiếu tự trọng...

(Vầng, xin cứ tiếp tục trò chơi "thay chữ vào chỗ trống". =)) )




NN
Friday, March 7, 2014 Author: Trường An

Về Hồ Thị Hoa, mẹ Thiệu Trị: Năm Minh Mạng thứ 17, "tấn tặng là Tần phi". '__' Chắc ĐNLT ghi sai, những chỗ khác ghi là Thần phi. Nhưng tự dưng nhớ tới bài này:

Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần phi

Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng

Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình muôn thuở còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát.

Hồ Thị Hoa mất ngay sau khi sinh Thiệu Trị, mới 17 tuổi. Minh Mạng ngay sau khi lên ngôi sách phong bà làm Chiêu nghi, năm thứ 7 lại phong tặng cho cha mẹ bà, năm thứ 17 tấn tặng Tần phi, cho quan cầm cờ tiết, bưng sách đến tấn phong, năm thứ 19 lại cho xây đền thờ. Minh Mạng cả đời cũng không lập hoàng hậu (nên MM ghét Lê Chất vì thúc giục phong cho con gái làm hậu, cũng đã từng nói "chưa lựa hậu được trong đám phi tần"). (Chính MM cho húy chữ Hoa chứ không phải GL. Từ khi lên ngôi là cho đổi bất cứ chữ nào dính đến "Hoa".)

Đại Nam liệt truyện ghi:

Mẹ Minh Mạng, Thuận Thiên hoàng hậu đọc văn phong hoàng hậu:

"Nhân Hoàng đế lòng thương vợ cả, nên hậu ban ân lễ, cho thụy là Thuận Đức, phong là Thần phi, ở ngôi 21 năm mà trong cung vẫn dành hư vị đợi chờ, không phải là không có ý."

Thiệu Trị nói:

"Để trống chính cung, nết hiền được hoàng khảo ta vẫn tưởng nhớ đến."

"Tặng làm Thần phi để tỏ ra là vợ cả, cung Trường Thu ngôi chính còn để không, thụy là Thuận Đức để nêu làm mẫu nghi, nghĩa là gươm cũ trong lòng đã dự định."

Các quan bảo:

"Thánh Tổ Nhân hoàng đế ta ngự ngôi 21 năm, tuy vị hiệu trong cung chưa kịp truy xưng, mà nghĩ đến gươm xưa, lòng thánh đã định từ trước."


MM không lập hậu vì Hồ Thị Hoa, vậy nhóe. (Đây chính là hình mẫu vua ngôn tình trong đời thực. =)) Hơn nữa, MM đệp là điều không cần chứng minh. =)) )

---

Người xưa khi muốn làm chính trị (làm quan) đều phải học sử. Không chỉ là biết chiêu trò, cách thức xử lý nhân tình thế thái, đối phó với nhau, với nhân dân, mà còn phải học cả cách quản lý nhân sự, an ninh lương thực, địa lý, vị thế chính trị... Những phần sau này thì chỉ những người hiểu sâu sắc tình hình kinh tế xã hội thực tiễn mới lĩnh ngộ được - Nó phải dựa trên một hoàn cảnh tự nhiên xã hội lịch sử vô cùng cụ thể.

Cho nên (thật sự) chỉ những người giỏi chính trị mới giỏi phân tích lịch sử. Càng nghĩ càng thấy đúng.

Sử VN thiếu những cuốn "chính yếu" ghi chép kỹ càng, chỉ có sự kiện vắn tắt. Và hầu như được dạy trên một cái nền suôn đuột bằng phẳng. Nên thế thì chỉ thế thôi.

---

Trước nay mềnh vẫn đặc biệt ghét 1 ông "sĩ phu Bắc Hà", càng đọc càng cảm thấy ổng chỉ là 1 kẻ bất tài chém gió giỏi, bị hoang tưởng thể đặc biệt (không phải đọc về ổng). =)) Thi không đậu, được đặc cách làm quan thì tính thượng tôn pháp luật vứt vào thùng rác, được vua quý nên sử dụng thì chả làm được trò trống gì, thế rồi lại "bất mãn" - trong khi tất cả những gì ông giỏi là múa bút chém gió. Đến làm phản mà cũng không xong.

Có tài mà kiêu ngạo thì cũng bình thường. Bất tài mà được tâng lên thì... ngứa mắt.

---

Quên chép 1 chuyện: Thời GL (hay đầu MM), triều đình bảo Bình Định dâng "ống phun lửa làm bằng tre" => Đây chính là thứ "hỏa hổ" đặc biệt của TS. :))

---

Đọc về công cuộc trị thủy thời Nguyễn, nghe nhận xét "đắp đê là sai lầm của người xưa", "họ (bên Chân Lạp) đắp đê thấp ngăn nước tạm thời, hẳn ngày xưa ta cũng thế, rồi đê cứ dần dần cao lên, nhiều ra, thành như bậy giờ" - Nước bị ngăn lại giữa hai bờ thì càng chảy mạnh hơn, đến hạ lưu thì lãnh đủ. => Bên cạnh đắp đê phải khơi dòng cho sông chảy để phân lũ.

Như vậy, truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh ấy, kết cuộc phải là... Sơn Tinh Thủy Tinh yêu nhau mới đúng. =))

---

Tò mò tự dò xem thành Thăng Long bị đốt bao nhiêu lần, phát hiện ra chẳng "triều sau phá triều trước" gì hết, chỉ có các ông đánh nhau rồi đốt nhà nhau. =.= Nặng nhất là hồi Trịnh Tùng đánh Mạc Ngọc Liễn, phóng hỏa đốt sạch phố ngoài thành "khói bay ngút trời", Mạc Ngọc Liễn thì đốt bay cung điện "sạch không" còn gì, rồi Trịnh tiếp tục san bằng thành bên ngoài. => Lúc này thì TL thời Lê sơ tiêu không còn 1 hạt bụi ồi.

Mà nói chung thì Trần đốt Lý, Nguyên-Chiêm đốt Trần, Trịnh đốt Lê, cứ mỗi lần xây lại là nén xuống thành ra thế.


(1214) Ngày nọ Trần Tự Khánh phát binh đi cướp vàng bạc và tài vật ở trong phủ đường của các quan. Nhân đó mới đón Nguyễn Vương đi đến hành cung Lị Nhân. Rồi sai Lại Linh đốt cung thất ở kinh đô, gồm có 19 sở.

(1288) (Sau khi đánh Nguyên) Mùa hạ, tháng 4, Thượng hoàng ngự ở hành lang Thị Vệ (vì cung điện bấy giờ đã bị giặc đốt hết), đại xá thiên hạ.

(1371) Ngày 27, giặc ùa vào thành, đốt phá cung điện, cướp lấy con gái , ngọc lụa đem về.

Bấy giờ thái bình đã lâu ngày, thành quách biên cương không có phòng bị, giặc đến không có quân nào ngăn được. Chúng đốt trụi cung điện, nhà cửa. Thư tịch, sổ sách do vậy sạch không.

(1516) (Trần Cảo) Lúc ấy, thành đã thất thủ, xã tắc bỏ phế, dân chúng vào thành tranh nhau lấy vàng bạc, của báu, bạch đàn, xạ hương, lụa là tơ gai đầy trong dân gian; sách vở, hồ tiêu, hương liệu các thứ vứt bỏ trên đường phố cao đến 1,2 tấc, không thể kể xiết. Người mạnh khoẻ tranh cướp vàng bạc, có người lấy được đến ba, bốn trăm lạng, người yếu cũng được đến hơn hai trăm lạng. Cung khuyết, kho tàng do vậy mà hết sạch.

(1592) (Trịnh đánh Mạc) Ngày hôm ấy, quân Mạc xác chết gối lên nhau, lấp đầy hào rãnh, máu chảy trôi chày. Chém đến hơn mấy nghìn thủ cấp giặc, tướng Mạc bị chết đến mấy chục viên. Khí giới chất như núi. Cung điện, nhà cửa ở kinh thành tiêu điều sạch không.

(1623) Ngày 18, Trịnh Xuân tự đem quân lính, voi ngựa, súng đạn bản bộ dàn bày ở xứ Đình Ngang, sai bọn Điện quận công, Bàn quận công đem quân phá vào Nội phủ, cướp đoạt voi ngựa, vàng bạc, của cải, bức [20b] Vương dời ra ngoài thành, rồi phóng lửa đốt cháy tràn lan các xứ trong Kinh kỳ.

Xuân kinh sợ, rút quân ra ngoài thành, cướp lấy voi, ngựa, của báu, rồi nhân đó vung lửa đốt. Đô thành đại loạn.

(Mà nhân chuyện Dư địa chí của Nguyễn Trãi. Khi trước đọc thấy chúa Trịnh mới là người đem nghề làm giấy về, sau lại đọc thấy An Thái thời Lê sơ làm giấy, dẫn trong DĐC. Đi xem lại thì Nguyễn Trãi ghi "An Thái, chỉ chương", nghĩa là in trên giấy. Vầng, in với làm giấy giống nhau quá cơ.)

---

Phần về Thiệu Trị (1841-1847):

Việc nổi loạn của người Chân Lạp ở Trấn Tây có nguyên do là Minh Mạng giết oan công chúa Ngọc Biện của Chân Lạp. Quan ở Gia Định vì nguyên do gì đó vu cho Ngọc Biện mưu phản, Trương Minh Giảng không xét, cứ thế tâu lên, các quan ở dưới tiếp tục ép cho Ngọc Biện có tội phải giết. Trương Minh Giảng sau này mới bị Thiệu Trị trừng phạt (chưa kịp phạt đã chết).

(Những phần này mới thấy sử quan nhà Nguyễn công minh chán. Không che giấu sai lầm của toàn bộ (kể cả vua), mà mô tả phản ứng của Thiệu Trị khi nghe việc quân cấp bách là "ngồi thừ người ra", chỉ biết nguyền rủa chứ không có đối sách gì.)

Minh Mạng ôm đồm công việc, nên Thiệu Trị mới lên ngôi chả biết gì, cái gì cũng đi hỏi. =_=


Vả lại, tập quán của người Thổ, dù sống chết cũng phải nghe mệnh lệnh của người đầu mục.

Cây hương trầm Tây dương trồng tại sân điện Hoàng Phúc, vườn Thiệu Phương lại nở hoa, mùi thơm ngào ngạt khác thường. Vua sai Nội giám đem ra cho các quan xem và bảo các đại thần rằng: “Thứ hoa này, mùa xuân nở thơm, mùa thu cũng nở thơm, lúc nào cũng tiếp tục có hoa, đúng là nghĩa “Thiệu phương”."

Có người con trai tự xưng là con nhỏ của Anh duệ Hoàng thái tử (Tức thái tử Cảnh), nguỵ hiệu là Hoàng tôn, ở thành Nam Vang, họp tập những quân Xiêm, Lào, Kinh, Thổ, tới vài nghìn người. Nhiều kẻ vong mạng đến theo.

Khoa đạo là bọn Vũ Trọng Bình, Ngô Bỉnh Đức, Lê Di và Nguyễn Huy Lịch dâng sớ trình bày 8 việc:

5. Xin đừng cho người Tây dương giao thông đi lại vì phần nhiều họ hay dối trá.

Lại thông dụ cho các địa phương rằng: “Nước Phật Lan Tây mọi rợ, ngông cuồng, tội không đáng khoan xá, nếu chúng lại đến, không cứ là thuyền buôn hay thuyền quân, các phận cửa biển nơi sở tại lập tức phải đuổi đi, không được cho chúng bỏ neo."

Tổng đốc Sơn - Hưng - Tuyên Nguyễn Đăng Giai dâng sớ nói: “Người Tây dương phần nhiều gian giảo, đem tà giáo mê hoặc người ta. Nay việc Đà Nẵng đã như thế, xin từ nay, những thuyền công phái ra ngoài biển đều nên đình chỉ. Đạo trưởng Gia tô nếu bị bắt để xét xử thì nhất thiết theo pháp luật xử trí, không thể khoan túng cho chút nào”.

Đến đời Tự Đức - 1848:

Trước đây, vua sắc sai Đào Trí Phú gửi mua hàng hoá phương Tây. Đến đây, tàu buôn người Tây phương tên là E Đoa chở hàng hoá sang đậu ở cửa biển Đà Nẵng tỉnh Quảng Nam sai Hộ bộ Tả tham tri là Tôn Thất Thường đến nơi khoản tiếp. E Đoa chở sang những vật hạng gửi mua trị giá bạc 166.267 thuẫn (Thuẫn: là đơn vị Hà Lan, mỗi thuẫn hơn một tiên linh (Shilling) 7 biện sĩ (penny)), các quan chính khanh ở sáu bộ là bọn Trương Đăng Quế, Hà Duy Phiên, Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Thiếp, Nguyễn Đăng Giai, Phan Thanh Giản cùng dâng sớ can, lời rất khẩn thiết (nói: ngọc cung ngọc cầu của muôn nước, ngọc lụa của 4 phương, chỉ nghe thấy tiếng là đem đến cống hiến, chứ chưa nghe thấy cùng nước ngoài mà buôn bán bao giờ. Năm ngoái tầu Tây dương vô cớ xâm phạm vào thuyền của nước ta, làm cho quân sĩ bị chết, xa gần sợ hãi ngờ vực, quan và dân ở trong ngoài đều đem lòng bực giận. Thế mà nay ta lại buôn bán với họ, thì các nước láng giềng bảo ta ra sao?... Từ sau đừng chở hàng sang nữa lại sinh ra không tiện. Khiến cho người Tây dương không thể dòm ngó vào khe nào được. Trong để thoả lòng trông mong của thần dân. Ngoài để dứt sự dòm ngó của nước khác, để cho vững mạnh gốc nước mà yên nơi bờ biển.)

---

Hú hú hú, đọc xong ồi!!!!!!!!!!!!




Chép vụn 10
Thursday, March 6, 2014 Author: Trường An

1839-1840

Bắt đầu vào công cuộc "chạy đua vũ trang", chỉ tiếc là không đúng thời điểm. T^T Năm 1839, MM phái người sang tận châu Âu tham quan, đến khi họ trở về thì vua chết mất rồi. Mà dù MM sống thêm được chục năm nữa thì vẫn lỡ mất cuộc CM công nghiệp lần 2 - mà cái này mới quan trọng. (Ờ mà biết đâu MM sẽ học được cái gì từ sứ giả đi Tây về báo cáo? Dù vậy thì MM hâm mộ khoa học Tây nhưng ghét văn hóa Tây. =_= Tây thời đó thì cũng ba chấm lắm cơ.)

Còn người trong nước thì... Ngay khi thấy Anh đánh Thanh, đã đua nhau dâng sớ bảo đóng cửa lại, khỏi giao lưu với nó nữa. MM bảo ta còn phải mua vũ khí, đi thăm dò địch, đi rèn luyện... mới át được đi. Thiệu Trị rụt rè đấu không được với đám quan này. (Những thợ thuyền, quan lại bộ Công của MM bị bỏ uổng phí quá đi, cả mấy đứa trẻ được học tiếng nước ngoài. T^T)


Chạy thử thuyền máy hơi nước mới đóng ở sông Hương. Vua ngự ra xem, thùng nước vỡ, chảy, máy hơi không chuyển động, bọn đốc công chuyên biện đều phải xích giam, lại liên luỵ cả đến bộ Công Nguyễn Trung Mậu, Ngô Kim Lân bị khiển trách là tâu càn, rồi được tha. (Trước đấy bọn Nguyễn Trung Mậu coi làm thuyền ấy đã xong đem việc chuyển động đúng cách thức. Tâu vào đến nay vì xe chuyển vận từ sở thợ đến bến sông, khi đi đường bị lay động, thùng nước phá vỡ, để máy hơi không chuyển, cho nên bị khiển trách).

Vua đi chơi cầu sông Nhị Hà, xem thí nghiệm thuyền máy hơi, thấy máy móc linh động, chạy đi nhanh nhẹ, thưởng đốc công Phó giám đốc Hoàng Văn Lịch, Vũ Huy Trinh, mỗi người một nhẫn pha lê bịt vàng, một đồng Phi long đại kim tiền, lại gia hàm cho Giám đốc, thêm hai cấp, thưởng khắp cả đốc công và lính thợ 1.000 quan tiền. Bảo rằng: trước kia bọn ngươi làm lỡ việc, hầu mắc phải tội. Nay đã hết lòng hết sức làm cho đến thành công, cho nên khen thưởng không tiếc. Vả lại thuyền ấy mua ở nước Tây cũng sao không được. Chung muốn thợ thuyền nước ta học biết máy móc khôn khéo, cho nên không kể nhọc tốn mà thôi.

Chế tạo thêm một chiếc thuyền lớn, máy chạy bằng hơi nước, tính tiền hết 11.000 quan có lẻ. Vua bảo bộ Hộ: “Trẫm muốn những người làm thợ nước ta đều học tập máy móc được tinh xảo, cho nên không tính đến sự tổn phí”.

Làm cái tàu bằng hơi nước hạng trung kiểu mới. Sai Chưởng vệ là Đoàn Kim, Chánh phó giám đốc là Lê Văn Quý, Lê Văn Xuyên chiểu theo thể chế cách thức tàu chạy hơi nước hạng to mới mua về, châm chước mà làm (thân tàu dài 5 trượng 4 thước, ngang 9 thước, sâu 4 thước 3 tấc 6 phân. Nồi chứa nước dài 6 thước 5 tấc, ngang 5 thước, cao 4 thước 1 tấc, trục bánh xe guồng 2 bên làm dài thêm 2 thước. Tay guồng 12 cái vẫn làm bằng sắt, duy ván tay lái làm bằng gỗ lim dài 3 thước 3 tấc, mặt 9 tấc, 2 đầu trục bánh xe guồng làm thêm mỗi bên một cái đỡ trục bằng đồng. Còn ống còi cùng ống khói cùng cột đồng trung tâm cái guồng và cái nắp nồi chứa nước, hoặc làm bằng sắt, hoặc làm bằng đồng, tuỳ tiện mà làm. Ván thân tàu hoặc gỗ tử gỗ đỗ (Gỗ tử, gỗ đỗ: chưa rõ đích xác là thứ gỗ gì, nhưng cũng có thể là loại gỗ thị, gỗ bàng.) cũng được, ván chỉ dày 8 phân). Còn tàu chạy hơi nước hạng trung cũ để làm tàu vận tải tầm thường gọi là ô thuyền [tàu đen].

Đặt tên cho 3 tàu thuỷ chạy bằng hơi nước: tàu lớn gọi là tàu Yên Phi, tàu hạng trung gọi là tàu Vân Phi, tàu nhỏ gọi là tàu Vũ Phi, đều khắc chữ thếp vàng ở đằng sau lái, cho có danh hiệu. Tàu Yên Phi khi mới mua ở Tây dương về, máy móc nhiều chỗ han gỉ, nồi sắt cũng rò nước, chạy thử chưa được nhanh lẹ. Đã sai đốc công sức thợ tháo ra xem xét, mài giũa từng cái, sửa chữa chỉnh đốn, lại lắp vào như cũ. Cho cùng thuyền hiệu Bình hải ra biển chạy thử, từ cửa biển Thuận An đến đồn Đà Nẵng, đi về 2 lần, tàu chạy máy hơi nước đều chạy nhanh hơn. (Thuyền Bình hải vẫn có tiếng là nhanh lẹ).

Đúc 2 cỗ súng lớn Chấn hải. Sai ty có trách nhiệm theo đúng cách thức của Tây dương mà làm (1 cỗ chất bằng gang, trong lòng đường kính 2 tấc, 2 phân ; 1 cỗ chất bằng đồng, trong lòng đường kính 1 tấc 9 phân). Khi đúc xong đem thí nghiệm, đều được cứng tốt. Vua cho là thứ súng lớn ấy dùng về thủy chiến rất đắc lực, lại sai đúc thêm 30 cỗ chất bằng đồng nữa.

Đúc 15 cỗ súng “Xung tiêu” bằng đồng. (Lòng súng bắn đạn ra đường kính 5 tấc 4 phân, lòng súng để nạp thuốc đường kính 3 tấc, có 10 cỗ. Lòng súng bắn đạn ra đường kính 5 tấc, lòng súng để nạp thuốc đường kính 2 tấc 8 phân, có 5 cỗ). Lại chế 30 cái thước đo, để thí nghiệm thuốc súng đều theo cách thức của Tây dương.

Vua nghe nói địa phương Đại Tây Dương vốn có tiếng là nơi đô hội, sai Tư vụ Trần Viết Xương, Thư lại Tôn Thất Thường mang theo người thông ngôn cùng ngồi vào thuyền Thuỵ Long đến Giang Lưu Ba, rồi do phái viên chuyển đáp nhờ sang thuyền Tây Dương mà đi, năm sau thì về. Phàm đến nơi nào, mắt trông thấy, tai nghe thấy cái gì đều ghi tường tận về tâu, để biết rõ phong vật phương xa; nhân tiện tìm mua một vài thứ hàng Tây Dương đem về dâng. Rồi cho rằng chuyến đi này biển khơi qua vượt xa xăm, hậu thưởng cho áo quần, bạc lạng và tiền lương bổng có thứ bậc mỗi người một khác.

Vua xem bản vẽ về Thiên tượng của Tây Dương, bảo viên quản lý Khâm thiên giám là Trương Đăng Quế: “Bản vẽ của người Tây Dương cho Thiên Hà là sông thật, thì thực là nói bậy sai lầm. Sông Ngân Hán ngang trời là do nhiều vì sao tụ họp liền nhau, trông có ánh sáng rờ rỡ, có hình như con sông, chứ đâu có lý là sông thật ư?”.

Vua đem trận đồ thuỷ chiến của Tây Dương cho Trương Đăng Quế xem và bảo rằng: phép thuỷ chiến, nếu giặc chiếm được đầu gió, tất nhiên thừa thế đuổi đánh ta, thì thuyền ta giả cách thua, nhân đó buông dây, trở buồm dần dần chạy gié ra, rồi sau súng ống của ta mới thừa sơ hở mà bắn đánh lại được. Nếu ta chiếm được đầu gió, thì nên đuổi theo từ từ, đừng bức bách chúng vội quá, thì chúng không đánh trả lại mình được. Những điều tương tự như vậy đều có thể suy ra. Những lúc rỗi việc công, khanh nên xem kỹ bản đồ này, tham bác châm chước để làm phép thao diễn thuỷ quân.

Vua thường xem quyển “Tây dương ký sự”, bảo các quan rằng: Sách Tây có nói: “Đời vua Nghiêu bị nạn nước lên to, vua nước ấy lấy một chiếc thuyền lớn đem hết thảy nhân dân chim muông trong nước lánh lên ở trên đỉnh ngọn núi cao”. Lại nói: “Trong khi nước to, trong nước chỉ còn bảy người, sau sinh sản ngày một nhiều, đều là con cháu bảy ông tổ ấy”. Cái thuyết ấy thực không có bằng chứng. Lại nói: “Trong nước có một vị vua, sai người trong nước xây một cái tháp lên trời cao không biết mấy nghìn muôn trượng, toan lên chơi cung phủ của trời để xem xét cảnh giới trên trời. Trời sợ sai Thiên quan xuống làm thay đổi tiếng nói đi, để không thể sai gọi được nhau, cho nên cái tháp ấy không thành. Nay các xứ trong nước ấy, tiếng nói phong tục khác nhau, là bởi cớ đó”. Thuyết này lại càng vô lý. Lại nói: “Người ta sinh ra trong khoảng trời đất, vốn xưa có một phái, vì ở riêng ra từng nước, cho nên phong tục khác nhau. Vì vậy người các nước đến buôn bán, người nước đó đều gọi là anh em”. Lại còn: "vua nước đó ra đứng ở đường phố cho người nước cầm tay và hôn trong bảy ngày mới thôi”. Đó cũng là cái tục hủ lậu quá lắm. Và quyển sách đó đều viết bằng chữ Hán, tất là người nước Thanh theo đạo Tây dương làm ra. Trong đó viện dẫn Kinh truyện, lời, nghĩa, lung tung lại không thành câu cú gì. Đọc quyển sách ấy cố nhiên không có gì đáng kể, chỉ sợ sau này có nhà văn Trung Quốc nào lưu lạc bất đắc chí đến ở nước đó rồi làm sách cho nước đó, thì đạo ấy sẽ thịnh hành, làm mê hoặc cho đời rất lớn vậy. Cũng như đạo Phật, kỳ thuỷ cũng chưa lan mạnh, đến sau các nhà văn sĩ phiên dịch rộng kinh Phật ra, lòng người bèn dần dần xu hướng, cũng giống như thế đó. Nay nên đặt điều cấm cho nghiêm để ngăn chặn đi.

Phái viên đi việc công từ nước ngoài về, đem cây tường vi ở Tây dương về dâng, sai phát cho các tỉnh mỗi tỉnh 10 cây để trồng ở trước sân hành cung.



Vua bảo bộ Binh rằng: voi ở Cam Lộ rất thuần và thông minh, so sánh còn hơn voi nước Chân Lạp và nước Xiêm, xét ra việc đánh bắt dùng voi nhỏ lại là đắc lực, mà đánh ở rừng núi càng thích hợp vì voi to thân hình nặng nề, xông pha hiểm trở rất khó, thực không bằng voi nhỏ nhanh nhẹn. Từ sau có phân phát cho các tỉnh, nên dùng voi nhỏ, còn voi lớn chỉ để ở Kinh chầu hầu được thôi. Lại nói rằng ngụy Tây Sơn đánh nhau với quân Tàu, phần nhiều dùng voi, ngựa. Tàu sợ voi trông thấy liền rụt lại cho nên phải thua, nước Tiểu Tây đánh nhau với nước Hồng Mao, cũng dùng voi xông vào giết chết, sau người nước Hồng Mao dùng cành tre để chắn voi không dám tiến, chờ cho hơi mệt, lấy giáo nhỏ đâm vào mũi voi, voi hoặc lăn ra chết, hoặc chạy về giày xéo, quân lính lại tự tan vỡ. Nhân xem đấy, đánh bằng voi được hay thua là ở người khéo dùng hay không khéo dùng mà thôi.

Đến nay vua xem sổ tổng cộng thuế lệ năm trước do bộ Hộ dâng lên, thấy tiền thuế 6 tỉnh Nam Kỳ so với 13 năm trở về trước tăng đến gấp 3, nên rất khen.

Lại sai Nội các soạn đưa ra một bộ sách nói về hình vẽ địa cầu của Tây dương, giao cho phụng giữ.

Đến khi về, cùng quần thần bàn cách thức xây dựng, hỏi Phan Huy Thực rằng: trẫm nghe phần mộ nhà Lê trước không đắp nấm, không trồng cây, không muốn người đời sau biết chỗ chôn, có chăng? Thực thưa rằng: nhà Lê trước có làm lăng tẩm, dựng cột mốc, bia đá, đến lúc suy, dần dần phải để đồi bại; phần mộ họ Trịnh thì ở dưới xây gạch đá kiên cố, mà mặt trên không đắp nấm. Vua cười bảo rằng: “Sao phải ngờ sợ mà giấu giếm như thế”. Hà Duy Phiên nhân đấy tâu nói: năm trước thần từ Ninh Bình về qua Thanh Hoa, thấy 1 ngôi mộ cũ cách sông mới đào độ 3, 4 trượng, ở mặt trên bằng phẳng, bên cạnh có bia đá khắc rằng lăng vua mỗ nhà Lê. Vua vì thế thương lắm, bèn sai bộ Lễ tư đi các địa phương hỏi khắp lăng các vua từ nhà Lê trở về trước, sửa lễ cáo yết, chỗ nào đồi bại thì đắp lại.

Sai phát thứ bông của Tây Dương chứa ở kho chia giao phủ Thừa Thiên, tỉnh Quảng Trị thuê dân dệt vải (phủ Thừa Thiên 4.000 cân, tỉnh Quảng Trị 2.000 cân, Mỗi tấm hết 4 cân bông, lấy mỗi tấm dài 30 thước, rộng 6 tấc 5 phân làm mức).

Lại mật dụ các quan địa phương 6 tỉnh Nam Kỳ: “Dân các hạt có nhiều người lầm theo tả đạo Gia Tô, năm trước giặc Khôi làm loạn, bọn chúng phụ hoạ với giặc, ngầm ngấm giao thông với nhau, không phải một việc mà thôi. Kịp khi giặc Khôi bị tan vỡ tiêu diệt, thì chúng châu đầu chịu giết, hoặc tản mát trốn tránh, hoặc bội bạn sang theo nước Xiêm, coi sự bỏ nước của cha mẹ như bỏ cái giầy rách.

Tháng 11, sai dò tìm những di cảo văn chương của người bản quốc. Dụ rằng: “Nước Đại Nam ta vốn có tiếng là một nước văn hiến, danh thần, văn sĩ đời nào cũng không thiếu người, trong đó chắc cũng có nhiều văn trước thuật. Nhưng từ trước tới giờ không biên chép góp nhặt thành ra mất mát không còn dấu tích gì. Vậy truyền dụ cho các quan thượng ty cho hỏi tìm khắp trong hạt, phàm quan lại, học trò và thường dân, nhà ai còn giữ được những tác phẩm như thơ, vịnh, minh, ký, từ, phú, bất luận đã lâu hay gần đây, nếu muốn đem dâng thì tất ban khen ngợi; nếu họ không muốn nộp quan thì mượn về sao chép ra, dâng lên ngự lãm, sẽ giao cho bộ Lễ hợp với viện Hàn lâm chọn lựa: bản nào hay thời soạn đóng lại thành sách, đặt tên là “Nam thổ anh hoa lục”, khắc thành bản in để làm tỏ rõ việc tốt đẹp tôn chuộng văn học của triều thịnh trị”.

Vua bảo Tham tri bộ Binh là Lê Văn Đức rằng: “Gần đây nghe nói nước Thanh đánh nhau với nước Hồng Mao đã 5, 6 tháng mà chưa thắng được. Kể ra nước Thanh đường đường một nước lớn, thiên hạ trông vào mà lúc trước thất tín để gây chiến, sau lại đánh lâu làm cho mỏi quân mà nuôi giặc, còn ra sự thể gì nữa? Tuy việc ở nước kia mà trẫm cũng không thể quên nghĩ trong bụng được. Vì nước ta tiếp giáp với nước Thanh, từ trước đến nay của cải hàng hoá trăm thứ đổi chác lưu thông. Nay nước Hồng Mao làm ngăn trở, thì đường biển không thông, những thứ dân gian thường dùng như thuốc bắc, chè tầu, mua vào đâu được. Thế thì đã thiệt cho người buôn lại thiệt cho dân nữa”.

Vua nói: “Người nước Thanh hèn yếu, ta đã biết rồi. Năm trước nước Hồng Mao ở các hòn đảo thuộc tỉnh Quảng Đông, mà chẳng nghe thấy người nhà Thanh vạch ra một kế gì, đem một cái thuyền nào ra biển để đánh. Nay nó lại đến, người nhà Thanh thế không chống được tất phải đổ lỗi cho Lâm Tắc Từ gây việc để làm cớ nói rồi lại cùng Hồng Mao họp chợ thôi”.

Vua bảo viện Cơ mật rằng: “Nay nghe nước Anh Cát Lợi cùng nước Thanh gây hiềm khích, xảy ra chiến tranh, mà nước ta tiếp liền với cõi nước Thanh, từ trước đến giờ tàu ngoại quốc cũng thường đến đậu ở vụng Trà Sơn tỉnh Quảng Nam, cần nên trước khi có việc gia tâm tuần xét để việc phòng bị bờ biển được vững chắc. Vậy nên truyền dụ cho tỉnh thần Quảng Nam sức ngay cho Lương Văn Liễu cùng viên coi đồn Đà Nẵng liệu phái người biết việc ngày thường đem kính thiên lý ngồi vào chiếc thuyền nhanh nhẹ ra ngoài biển khơi trông nhòm. Nếu thấy chiến thuyền kiểu Tây dương chỉ độ 1, 2 chiếc, tất phải thân đến hỏi rõ tình hình, theo lệ trước mà làm. Nếu thấy chiến thuyền đến 3, 4 chiếc trở lên, lập tức báo cho tỉnh biết, tỉnh thần thượng khẩn làm tờ sớ đệ tâu. Và phải phái 1 viên quản vệ, cơ đem lính tỉnh 500 hay 600 tên đến ngay hội đồng với biền binh trú phòng 2 thành An Hải, Điện Hải, hợp sức lại để phòng hộ, không được để chậm một khắc nào”.




Chép vụn 9
Thursday, March 6, 2014 Author: Trường An

Trước đọc sử cứ thắc mắc mãi là nhắc đến vùng Thanh Hóa, Nghệ An là nói "thổ mục", thậm chí Sơn Tây, Ninh Bình, Bắc Ninh... cũng có - Vậy bọn họ đi đâu hết rồi? Bây giờ đọc thấy MM cho chia hết các động, sách ra thành xã, thôn, cho theo tục người Kinh. Ngay cả ở Biên Hòa cũng cho người trên núi xuống làm ruộng (vì dân Gia Định "lười" không làm), chia đặt huyện, xã. Cho nên bây giờ chỉ trên núi cao xa xa mới có "người dân tộc".

Mà hụ hụ, e rằng "phố cổ HN" cũng đến đời Nguyễn mới được quy hoạch:

"Ngoài thành tỉnh Hà Nội thất hỏa, cháy lan hơn 1.400 nhà, có người bị thương chết. Vua sai lấy tiền thóc phát chẩn. Nhân dụ bộ Công rằng: Ngoài thành Hà Nội dân cư đông đúc, đường sá cong hẹp, cửa nhà liền nhau, cho nên thường gặp hỏa hoạn, nếu bắt làm nhà ngói cả, thì người giàu nghèo không đều nhau, thế khó bắt ép, duy nhân sau khi bị hỏa tai này, lường đo địa thế, chia vạch cửa nhà cho có thứ tự mới giữ được không lo. Vậy sai Tổng đốc Đặng Văn Thiêm trù tính. Thiêm bèn xem địa thế, mở đường sá, nghiêm sức các hộ phố dự bị đồ chứa nước, đồ cứu hỏa, lại chọn đất lập đền thờ Hỏa thần, sai dân sở tại mùa xuân mùa thu cầu cúng, đem công việc tâu lên. Vua cho lời tâu là phải."

"Đường sá cong hẹp" nhóe (nếu nhớ tới nguồn gốc khu phố là do các ngành nghề tự nhóm họp lại sống chung). Đến khi Pháp vào đã thấy đường thẳng băng, chia hàng chia dãy. (Hóa ra khu phố mà mềnh bảo "chỉ có con đường là cổ" thì đường cũng chả cổ à? =_=)


Những máy móc cơ khí bắt đầu đi vào thực tế. Nhưng ở VN thì không có công trường nào to lớn mà thực hiện "công nghiệp hóa".


Làm xe máy cưa ván gỗ (bắt chước kiểu mẫu Tây dương làm ra). Vua thưởng cho thợ 100 quan tiền.

Làm xe máy xẻ gỗ ở thác dài thôn Dương Hoà, nguồn Tả Trạch. Sai bộ Binh bắt một quản vệ, 300 biền binh khơi đường nước chảy, đắp bờ đê, tuỳ thế mà làm, công việc làm xong, cắm gỗ làm cưa, máy móc nhanh nhẹ, xẻ thành tấm ván, cũng được bằng phẳng, thưởng cho Phó giám đốc chế ra là bọn Vũ Huy Trinh 100 lạng bạc. Vua bảo bộ Công rằng: “Xe máy này so với công người không hơn không kém lắm, nhưng đằng kia là sức người, mà đây thì tự nhiên, thì hơn kém có thể thấy được”.

Vua bảo rằng: “Trẫm nghĩ đê công ở Bắc Kỳ, khi bắt đầu cũng nhân nước lụt, bồi đắp nhỏ thôi, về sau thế nước ngày lên to phải theo mà đắp cao dày hơn, đến nay bèn không thể bỏ được, sợ hạt thành ấy ngày nay như thế, thì hơn vài mươi năm nữa, thế cũng không khác gì công đê Bắc Kỳ, nay phải trù nghĩ trước làm thế nào, có thể bảo vệ được việc nông, mà nhân dân khỏi phải sự khổ đắp đê, mới là tốt”.

Thị vệ Lê Nguyên học được cách làm máy, lấy máy của nước Tây dùng để hút nước tưới ruộng rất tiện, chế ra đem dâng, gặp khi trời nóng lắm, nước ruộng khô cạn, vua sai bộ Công đốc thúc ngay chế tạo máy ấy có 3 cái, đưa cho phủ Thừa Thiên chia tưới đồng ruộng, bảo nếu có thành hiệu, nên cho dân đó theo cách thức mà làm.

Lại lấy nhiều hình người bồi bằng giấy của nước Thanh, nước Tây mặc áo đẹp vào làm giống hình bát tiên, lại chế máy móc luân chuyển, khiến cho các thứ người giấy voi ngựa tự chạy tự động được.

Sai Vũ khố đóng thuyền máy hơi nước (theo kiểu thuyền Tây dương mà làm) thưởng cho đốc công, thợ làm việc 100 quan tiền.

Xây đắp bờ phía tây sông tả Hộ thành (từ cửa đến thành ngoài đài Trấn Bình) và bắc cầu dài ở chỗ bến phố Đông Hội, gọi là cầu Đông Hội (nguyên cầu Thanh Tước trước vì mục nát bỏ đi, đến nay lại bắc mà đổi tên ấy, khoảng giữa cầu ấy đặt ván gỗ có máy, phàm thuyền bè đi lại thì nhắc lên, sau khi qua rồi, lại hạ xuống, lấy 20 người dân phụ cận canh giữ). Sai thự Tiền quân là Phạm Hữu Tâm trông coi việc ấy. Đến khi cầu làm xong, vua khen là kiểu mới, làm khéo, thưởng cho bọn chỉ bảo, đốc công tiền, bạc, áo, quần; còn biền binh và thợ cùng phu dịch, thưởng cho tiền gạo lương tháng.

Vua cùng bộ Binh Trương Đăng Quế ban về phép thuỷ chiến, dụ rằng: "Trong nước tuy yên, không nên quên việc đánh trận, binh chế triều ta, đánh trận bằng voi, đánh trận trên bộ, đều đã am hiểu, duy đánh trận ở dưới nước, vẫn chưa tập quen, trẫm thường hỏi phái viên đi công cán ở ngoại quốc về, đều nói các nước phương Tây, duy có nước Hồng Mao và Ma-li-côn là giỏi về thuỷ chiến, khi lái thuyền đi, hoặc phải ngược gió, hoặc được xuôi gió, không khi nào là không nhanh chóng, tuỳ cơ ứng biến, lanh lợi vô cùng, thực nên bắt chước. Kìa như thi thư để dạy học trò, võ Kinh để dạy quân đội, từ trước đều thế, riêng đánh trận ở dưới nước, chưa có sách làm ra cho người học tập, trẫm cũng biết qua một vài phương pháp phương Tây, muốn các ngươi tính nghĩ kỹ càng, làm thành quyển thành pho, cho binh lính ngày đêm học tập, phàm nghe tiếng trống thì tiến, không vì thế địch rất mạnh mà tạm tính rút lui, nghe tiếng chiêng thì lùi, dù thế địch tan vỡ, cũng không được tham lợi mà khinh tiến, và khi đoàn thuyền tiến lui, hoặc nhanh như chim bay, hoặc chậm như cua bò, nhưng không khi nào không có phép để cho nghiêm chỉnh, kẻ làm binh lính chỉ biết sợ tướng, không sợ giặc, đi nhanh không dám quá, đi chậm cũng tự cố, khi tiến khi lùi, đều như nối liền nhau, mới là được việc..."

Lại từng bảo các quan hầu rằng: "Ngày nay các nước phương Tây, lớn nhỏ ở xen nhau, mà đều giữ được bờ cõi, không cắn nuốt lẫn nhau, các nước ấy phần nhiều theo đạo Gia Tô, nghe nói truyền lại, ngày xưa đạo chủ là Chi-thu (Giê-xu) có thề ước rằng: phàm các nước anh em ở phương Tây, nếu có người mưu tính, thì các nước cùng đánh, từ Chi-thu đến nay đã 1840 năm, các nước đều giữ lời ước ấy, cho nên không lấn đánh nhau. Nhưng trẫm thường nghe ngày xưa, vua nước Hồng Mao ở phương Tây không có con trai, chỉ sinh được người con gái, gả cho vua nước Pha-nha, nguyên tục ở phương ây, dù tôn quý làm vua một nước cũng chỉ lấy một vợ, không có vợ lẽ, người con gái ấy đã về nước Pha-nha, về sau vua nước Hồng Mao chết, người trong nước nói: “Vua ta chỉ có một con gái, tức là con trai, nên làm vua trong nước, bèn yêu cầu với nước Pha-nha đón về lập làm vua”. Lâu rồi vua nước Pha-nha ở một mình không thích, bèn bỏ nước ấy đi sang nước Hồng Mao, người vợ nhân trao cho làm chức quan to cùng ở với nhau. Vợ lại nói dỗi dỗ chồng đem hết đồ bản, quan lại, tài vật nước Pha-nha phụ thuộc về nước Hồng Mao, người chồng cũng nghe, người trong nước cũng đều thuận theo, đều làm tôi tớ nước Hồng Mao, cung dâng cống phú. Khi vua nước Pha-nha đã chết, người vợ vẫn còn, người nước Pha-nha cũng cam làm thần dân, không ai làm phản. Đến khi vợ vua nước Pha-nha chết, nước Hồng Mao không khống chế được nữa, lại làm nước láng giềng hoà hảo như xưa. Kể thì người ở phương Tây xem đến chế tạo đồ vật, phần nhiều có ý khéo, ngỡ là bậc đại trí, sao xử đoán việc lớn lại mờ mịt không biết phải trái, chẳng những ông vua nước ấy đắm mê về vợ, cả nước cũng không biết nên chăng chút nào, đem nhau làm con tin với nước láng giềng, sao mà ngu thế? Nói là lời thề ước của đạo chủ cũng là nói dối. Xem ra lẽ phải ở đời, chia lâu tất phải hợp, giả sử trời sinh ra bậc vua anh hùng hào kiệt, mưu thần xét đoán, sáng suốt mở mang bờ cõi, biết đâu chẳng hỗn hợp các nước khác lại làm một, chỉ vì khí vận chưa đến, cho nên còn như thế mà thôi. Thử xem đời Xuân Thu, Chiến Quốc, các nước chư hầu thay nhau hùng trưởng, đều giữ đất đai, rồi sau rút lại vẫn là một há chẳng phải cũng là lẽ đấy ư?”.

(Hự, bác kể chuyện gì thế? >__< Nhưng nói thế này thì đúng thật MM biết cái "hiệp ước" của các nước Thiên Chúa giáo về "đồng lòng hợp sức" chia sẻ thuộc địa.)


Vua bảo rằng vì con cháu dựng sản nghiệp, cũng là thường tình của người ta, không thể nào khỏi, nhưng tiền của cũng như nước suối, nên lưu thông mà không nên ứ đọng, người mưu tính cho con cháu, để cho tiền của khó tụ dễ tan, không bằng để cho phúc có của không hết, người xưa nói: “Để cho con vàng đỏ đầy hòm, sao bằng để cho con một pho sách, nếu chưa thể như thế được, muốn lấy tiền của để cho người sau thì bỏ vàng bạc ra, mua nhiều ruộng đất, cũng không ngại, vẫn có thể làm của cho con cháu ngày sau, việc gì phải chứa nhiều vàng chôn, chỉ là tiền của ứ đọng, khi có con cháu không hiền, cũng không giữ được, há chẳng phải chỉ giữ tiền cho nhọc, rút cục vẫn không có, chẳng là ngu quá ư?

Ngự sử đạo Ninh - Thái là Nguyễn Văn Đạt, dâng sớ xin sưu tập các truyện ký phong vật đời trước làm ra, xem xét sửa lại thành sách, và chính thể của bộ, viện, đều biên chép thành pho. Lại xin đầu bài thi chuyên lấy Kinh Truyện và tập văn của các nhà ghi chép trong Nam sử làm câu hỏi chính, Bắc sử làm dẫn giải phụ thêm, ngõ hầu lời nói việc làm thuở trước của nước ta, không đến nỗi mất, mà sĩ tử đều có thực dụng.

Vua bảo rằng: "Sưu tập truyện ký phong vật đời trước làm ra, thực là việc hay, về văn hiến, trẫm vẫn thích nghe, đã sắc cho các địa phương đi khắp tìm hỏi, lại sai các nha đem tất cả thể lệ, phân từng loại, biên chép thành tập, để rõ chính thể trị nước của đời thịnh, nhưng các việc ấy, vốn không phải là hằng năm, hằng tháng có thể làm được, chậm đến 10 năm không hại gì, huống chi nay việc cần phải làm, vẫn phải cố gắng, lần lượt cử hành, đối với việc có thể hoãn được, chưa có thì giờ mà thôi. Còn như đầu bài thi, xin hỏi về Nam sử, xét ra Sử ký về đời trước của nước Việt ta, phần nhiều không chép đúng, lầm lẫn còn nhiều, còn phải 1 phen sửa lại, mới rõ là sử đúng, nếu vội vàng làm đầu bài cho học trò thi, cũng chưa là thích hợp. Vậy sai bộ Lễ xét kỹ bàn lại, tâu lên."

Vua sai bộ Hộ bàn, cho là sáu tỉnh Nam Kỳ là nơi đất cát màu mỡ, sản xuất ra thóc gạo, từ Bình Thuận trở ra Bắc, dân phần nhiều nhờ có thóc gạo ấy để ăn, nghị trước của quan Kinh lược sứ là lấy việc buôn bán thóc gạo, có quan hệ tới ăn dùng, đời sống của dân so với buôn bán thứ khác chuyên làm nghề buôn có khác, cho nên thu thuế, miễn thuế khác nhau, nay nếu nhất khái đánh thuế, thì buôn bán thóc gạo, thế tất ngày một ít, đó là muốn nặng về việc cấm buôn bán, mà hầu như lại làm khổ dân, xin phàm thuyền ở sông mang chở thóc gạo thì không cứ nhà nông chuyên chở, dù buôn bán cũng được miễn thuế, nhưng thuyền ấy tuy chở thóc gạo mà xét ra có nhiều hàng hoá để buôn, thì chiểu lệ thu thuế, còn thì theo như lời xin của quan tỉnh. Vua theo lời bàn ấy.



Cứ theo án ấy định, không kể tội của hắn, thân thuộc đã phải tội lây, và đem việc Lê Văn Hán cùng với giặc Khôi làm phản, thì một nhà anh em thân thuộc cũng nên phải tội chết, hiện nay chỉ cứ tên giặc Lê Văn Hán và người ở cùng một nhà là bọn Lê Văn Nguyên, Lê Văn Thiện phải xử chém mà thôi, còn người không ở cùng nhà thì hãy tạm giam cấm, các đàn bà con gái và trẻ con đều tha không phải tra bắt. Lê Văn Duyệt cũng tha chém xác cho xương khô được toàn, còn như con của tên giặc Lê Văn Hán là Lê Văn Sơn cũng còn giam cấm, thực đã quá nhờ điển lệ khoan hồng, mấy lần xét án mùa thu đình nghị và pháp quan lại đều cho là bọn Lê Văn Yên theo luật nên phải tội lây và xin xử chém, nhưng trẫm cũng chưa nỡ quyết vội, không ngờ bọn tù trong ngục lại muốn suy tôn Lê Văn Sơn, mưu theo vết xe cũ của giặc Khôi như thế, ác nghịch ngập trời, tội không tha được. Nay đình thần tâu lên, thực do ở lòng công phẫn công tâm, nếu trẫm lại tạm bợ dung cho kẻ gian, giả sử ngày sau lại sinh biến khác thì người sẽ cho trẫm là thế nào? Cho nên không thể không theo lời xin ấy, Lê Văn Yên chuẩn cho tự chết, Lê Văn Tề, Lê Văn Phúc, Lê Văn Thận, Lê Văn An, Lê Hào, Lê Văn Sầm, Lê Văn Doanh đều chém ngay, còn con của Lê Văn Yên là Lê Văn Diễn, Lê Văn Minh, con của Lê Văn Tề là Lê Văn Hợp, Lê Văn Dũng tạm tha cho tội chết, phát đi an trí ở Cao Bằng, đợi khi trưởng thành, do địa phương xét, quả là yên phận giữ phép, hay hoặc có tình trạng hung ác khác, cứ thực tâu bày, đợi Chỉ.

=> Cuối cùng MM cũng "phải" thừa nhận là nương tay với nhà LVD, án từ 1835 đến 1838 còn chưa chịu xử, có đứa trong tù nổi loạn nên mới phải quyết. Cứ kiên trì giam cho đến đời Thiệu Trị thì có phải đã được tha rồi không. =-=





Copyright © Trường An. All rights reserved.