Tôi (and Tớ): thường có một biến dạng của Tôi là TUI - đặc biệt trong tiếng Nam bộ, theo luật hoán chuyển âm giữa [u][ô], như trong ‘Kung-Fu’Công Phu: Quan thoại Gong/Cung (bow), Quảng Đông Ung/Ông, tùng/tong = tùng chinh/tòng chinh, thúi/thối..
Nhiều tự điển, đặc biệt vài cuốn đầu tiên, như cuốn Annamite-Portuguese-Latin của Alexandre de Rhodes [3], cho rằng ‘tôi đòi’, ‘đầy tớ’, ‘tôi tớ’, xuất phát từ Tôi và Tớ. Điều này hoàn toàn phù hợp với phát âm ngày nay trong tiếng Hẹ và Quảng Đông từ [Toi] {儓}. Phiên âm Quan Thoại cho [toi] có 2 cách: [tai-2] và [dai-4], có nghĩa ‘tôi đòi’, hay ‘đầy tớ’, rất giống với Quan thoại [tai dai]. Thật ra ’Tớ’ có âm rất gần với từ [tsut] hay [su] trong tiếng Hẹ, và [zeot] hay [syu] Quảng Đông viết là豎 hay 卒, cả hai có nghiã ‘tôi đòi’. Tuy vậy, nguồn gốc gần hơn là từ [Tub] trong tiếng Hmong có nghiã ’Tớ’, “b’ là dấu chỉ âm cao giống như với dấu sắc trong tiếng Việt. Trong tiếng Tày-Nùng, “Khỏi” tương đương với ‘Tôi” với cả hai nghĩa: Tôi và đầy tớ.
Tự điển Alexandre de Rhodes có ghi chú là ‘Tớ’ thường được dùng khi giận dữ: ‘Tớ đã làm chi ngươi’. Ngươi chỉ một người có địa vị hay quan hệ thấp hơn người phát biểu câu trên, Tớ, nói trong trạng thái giận dữ.
[tseoi] 余 trong tiếng Quảng Đông hiện nay có thể có cùng nguồn gốc với ‘Tôi’, dùng phát biểu chính thức trong quan hệ hàng ngày. Phát âm [tseoi] trong tiếng Hẹ và Ngô (Triết Giang) đọc [Y] {[I]}, rầt gần với đại từ đơn âm cho ngôi thứ ba trong tiếng Phổ thông và tiếng Việt (coi bảng I). Để ý trong tiếng Mường, ‘Tôi’ đọc như ‘Thôi’ với âm hơi.
Mỗ: ngày nay Mỗ ít được dùng thay cho tôi như trước.. Mỗ có thể liên hệ với [mau] trong tiếng Quảng Đông. Tự điển Huình Tịnh Paulus Của [4] liệt kê某 [mou] có nghĩa là ‘min, tôi’ (I), hoặc ‘tên nọ, tên kia’ chỉ trống khi không rõ tên họ. Âm [mou] Quan thoại có nghĩa “nào đó, một vài”. Chữ kép [mo lian] 磨 练, với [mo] rầt gần với âm [mỗ] có nghĩa rèn, luyện sắt/tính tình, thường dịch qua tiếng Việt là ‘tôi luyện’, cho thấy có lúc trong quá khứ ‘Mỗ’ và ‘Tôi’ được dùng thay đổi qua lại lẫn nhau
Để ý có nhiều chữ mới được tái tạo vào thế kỷ 20, thí dụ [ma luyện] chữ này được cho rằng có nguồn gốc Hán Việt, tương đương với từ Quan Thoại [mo lian] mà không biết đến liên hệ Quảng Đông-Việt giữa ‘Tôi’ và ‘Mỗ. Trong đoạn ‘những tương đồng qua khoảng cách' trong bài [2], chúng tôi có nói về những từ ngữ giống nhau dù ở hai địa điểm rất xa nhau, Mỗ cũng gần với chữ ‘Moi’ trong tiếng Pháp.
Mình: trong tiếng Mường và vài nơi ở miền Trung, đọc là [Miềnh]. Hồi thế kỷ 17, đọc là [Mềnh] hay [Min] [3]. Mình cũng gần với [mi] 微 của Hẹ, [mei] Quảng Đông, và cả tiếng Anh [me]. Cơ bản, Mình dùng cho (thân mình) [23]. Dần dần, cách dùng thay đổi. Trong Tự điển Alexandre de Rhodes [3], Mình được cho là cách xưng hô của người có điạ vị cao hơn người kia.
Ngày nay, có vẻ như Mình được dùng cho những liên hệ thân mật. Đôi khi nó được dùng như đại danh từ ngôi thứ hai, chẳng hạn như giữa vợ chồng: Mình ơi, mình ở đâu.
Mình cũng có cùng nguồn gốc với [Ming] và [*minqu] trong tiếng Mon-Khmer.
Ta/Tao: Rất chắc chắn là cả hai ‘Ta’ và ‘Tao’ có liên hệ mật thiết với những phương ngữ trong ngữ hệ Mon-Khmer. Người Miến Điện gọi 'tôi' bằng [Tjano] hoặc [Tjama], tuỳ theo người nói là nam hay nữ. [Tjano] và [Tjama] cũng khá gần với ‘Ta‘. Chữ chính trong tiếng Champa cho đại danh từ ngôi thứ nhất là [Tahlă]. Cũng vậy, ‘Ta‘ có âm tương đương với Hẹ [Tsa] 咱 , Quảng Đông [Zaa] và [Saa] [5], Phúc Kiến [Sa] 洒, đều có nghĩa là Ta/Tao. Trong một tiểu chi Quảng Đông, [Zaa] 咱 đọc là [gau] tương ứng với âm [Câu] của Tày-Nùng chỉ ‘Ta‘ hoặc ‘Tao‘, Boong Câu = Bọn Tao.
Theo Hayes [6], ‘tao’ rất gần với tiếng Mon-Khmer [saqu]. Rất có thể ‘Tao’ là một tiếng bao gồm cả hai âm ‘Ta’ (hay Tôi) và tiếng Đa Đảo ‘Au’ cho Ta/Tao” (coi bảng I).
Qua: ‘Qua’ có thể là một đại danh từ ít được biết trong tiếng Việt, từ này thường bị hiểu lầm như là một từ Nam Bộ. Thật ra, có nhiều từ cùng gốc ở nhiều nơi cách xa nhau. Trước nhất trong tiếng Mưòng là ‘Qua’ hay ‘Wa’ cho đại danh từ ngôi thứ nhất ‘Tôi/chúng tôi/Ta‘, nhưng thông thường hơn là dùng để chỉ ‘Chúng tôi/chúng ta‘
Tương tự tiếng Phúc Kiến/Hải Nam, [gua] để chỉ ‘Tôi‘. Tiếng Nhật có vẻ hợp cả 2 “Wa” và ‘Ta’ = Watashi vào một chữ dùng cho đại danh từ ngôi thứ nhất. Và cuối cùng ‘Qua’ cũng có các từ cùng gốc trong hệ ngôn ngữ Mon-Khmer [6]: *aku, *nqua, *iqua, *inquan, vv…
Một đại danh từ ngôi thứ nhất khá phổ thông trong tiếng Việt là ‘Anh’, thường dùng khi người nói là anh lớn hay người lớn tuổi, có thể có liên hệ nguồn gốc với từ [?ənh] hay [ănh] hay [?inh] trong Mon-Khmer để chỉ ‘Tôi‘, [enh] trong tiếng Mường, ‘Ani’ trong tiếng Nhật, hay xa hơn nữa, ‘aîné’ trong tiếng Pháp.
Trong tiếng Mường, từ thường dùng cho Ta/Tao là [Ho], có cùng nguồn gốc với tiếng Phúc Kiến là [Hou] 予, Tày-Nùng là [Hây]. [Ho] Mường có cùng âm với tiếng [o] Quảng Đông, cũng là một phát âm khác của [ngo] 我 mà tiếng Phổ Thông (Trung Hoa) là [Wo] cho ‘Ta/Tao’ [15]. ‘O’ trong tiếng Việt có hai nghĩa ‘bà cô’ (aunt) hay cô gái (miss), cũng có thể từ chữ [o] này của Quảng Đông.
... Đại từ ngôi thứ hai cho thấy ảnh hưởng văn hóa rất mạnh trong liên hệ bà con thân thuộc và hệ thống xưng hô theo nguyên tắc kính trọng trên dưới, in hệt như trong tiếng Môn-Khmer hay những ngôn ngữ khác trong vùng. Giống như đại danh từ Ta/Tao, có thể dùng bất cứ danh từ nào chỉ người bà con hay người khác với người nói, như đã trình bày ở trên: Anh/Em, Ông/Bà, Cô/Chú, ông Nội/ông Ngoại, bà Nội/bà Ngoại [8] v.v….
Theo Gilbert và Hang [7], tiếng Khmer có tới 17 chữ dùng cho ngôi thứ hai, tuỳ theo liên hệ gia đình, họ hàng và vị trí trong xã hội. Trong số các từ, tiếng dành cho cha là [bpaa], cho chú là [bpuu]. Cả hai tiếng Khmer và tiếng Việt giống nhau, không những về nghĩa mà còn được dùng rất rộng [2], [Bhpaa] nghĩa là cha và [Bpuu] nghĩa là ‘Chú' theo nghĩa rộng không chỉ để gọi em ruột của cha, còn chỉ một người đàn ông (có liên hệ họ hàng hay không) lớn tuổi gần bằng cha mình.
Anh trai của cha gọi là bác, có thể từ chữ ‘Ba’. Cha và Chú cũng có liên hệ như vậy, hoặc [Bpaa] và [Bpuu] như trong tiếng Khmer. Để ý Bác và Cậu rất giống với [Baak] và [Kau] trong tiếng Quảng Đông, trong khi ‘Chú’ có thể là do sự gộp chung các âm [Bpuu] Cambodia, [chek] Phuc Kien và [shu] Quan Thoai. (shu] 叔 (tương đương với ‘Thúc’ trong tiếng Nôm, và [suk] trong tiếng Quảng Đông và Hẹ.)
Vợ của Chú, gọi là ‘Thím’ tuơng đương với âm [tsim] Hẹ, và [chim] 嬸Mân Nam. ‘Cô’ bắt nguồn từ [ku] Chiết Giang, hay [kou] {姑} Phúc Kiến, trong khi ‘Dì’ laị bắt nguồn từ [yi] 姨 Quan thoại, Hẹ, Quảng Đông và Phúc Kiến [I]. Vợ của cậu, ‘Mợ’, có nguồn gốc từ [kau-mou] [13].
Hệ xưng hô dựa vào liên hệ gia đình và vị trí trong xã hội của tiếng Việt cũng có vài sự giống nhau với các đại danh từ trong tiếng Quảng Đông cũng như tiếng Mường. Có một ngoại lệ, đó là [Nei] (Ni) Quảng Đông, hay [Da] Mường, dùng rất … thoải mái cho ngôi thứ hai, dù lớn hay nhỏ, địa vị cao hay thấp cũng đều dùng được cả.
Có lẽ các từ phổ thông nhất để gọi trong tiếng Việt, dùng để chỉ sự kình trọng là “Ông/Bà”. Ông, có hai nghĩa: Một nguời đàn ông, hay ông nội/ngoại, có liên hệ gốc với tiếng Champa [Ông], [Ù] trong tiếng Miến Điện, hay trong tiếng Thái [Ong] để tôn kính các địa vị tuyệt đối như nhà vua hay các bậc tu hành. Trái lại, Bà, để gọi Mẹ, phụ nữ trọng tuổi, hoặc tỏ sự kính trọng, ví dụ như trong [iBu] (Indonesian), [poo ying] Thai, [Ba] Miến Điện, [Bawng] Khmer, và rất nhiều phưong ngữ ở Hoa Nam có cùng âm [Pu] hay [Bu], hay thừong thấy nhất, [Bo] (ví dụ [lao bo] để gọi vợ).
Tiếng Việt cổ có đại danh từ chung cho cả nam hay nữ, [Bạu] [3] sau này biến từ thành ‘bậu bạn’ hay ‘bạn’ ngày nay dùng cho bạn bè hay người quen biết sàn sàn bằng tuổi nhau. Bạn, thật ra có liên hệ với tiếng Khmer [bouung] và Quảng Đông [pang] 朋. Từ đôi ‘Anh em’ (như trong ‘người anh em’), bắt nguồn từ tiếng Trung Hoa [xiong di] (huynh đệ), nghĩa là anh hay em ruột [8].
Một đại danh từ ngôi thứ hai dùng cho nguời kém hơn trong địa vị xã hội là ‘Mày', có thể bắt nguồn từ ‘Bây’ (Bay, [3]), vì cả hai [M] và [B] đều là âm môi. Tự điển Alexandre de Rhodes [3] ghi chú là từ ‘Bay’ không được dùng so với từ ‘Anh em'. ‘Mày’ rất gần với ‘Mi’, có thể là biến dạng của [Mi] của tiếng Hẹ hay tiếng Việt [Min/Mình] vốn dùng để chỉ ngôi thứ nhất (Bảng I)
Về âm, EM [21], rất gần về âm với ‘Ủn’ Mường, và ‘Imoto’ Nhật cho em gái. ‘Em’ cũng có thể liên hệ với ‘Enh’ (Mường) chỉ người nam lớn tuổi hơn, hay [?ənh] trong tiếng Mon-Khmer. Về nghĩa, ‘Em’ bắt nguồn từ ‘em bé’ hay ngừoi còn trẻ, tương đưong với tiếng Thái [awn]. ‘Em’ cũng cùng gốc với [eN] trong tiếng Mân Nam (Phúc Kiến), [ei] Hán-Nhật, [er] Quan Thoại [5] [11] [12]. Chị, cùng gốc với [*tsi] hay [*ci(q)] hay [*ji(q)] trong tiếng Mon-Khmer [6], và [tsi] Ngô-Triết Giang, [chia] hay [che] trong tiếng Mân Nam (Phúc Kiến) [5].
... Đại danh từ ngôi thứ ba được dùng nhiều và phổ thông nhất có lẽ là từ Nó, được dùng cho cả người (mọi giới tính) và thú vật, như chim, cá. Nó có cùng gốc với từ [Nả] Mường, [Nws] Hmong {đọc như [Neu]}, [Ne] Tongan, and [Nong] trong tiếng Hoa Phổ thông. Chữ [Nong] có thể là “tôi, anh/chị, anh ấy, chị ấy” trong tiếng Thượng Hải. Người P’u-Noi sống gần biên giới Lào-Việt, cũng dùng [No] [2] như tiếng Thượng Hải [Nong] và giống hệt âm tiếng Việt [Nó].
Hắn, có thể dùng gọi người không được mấy cảm tình hay chế nhạo. ‘Hắn’ có thể từ [Hang] 牼Quảng Đông, có nghĩa ‘đàn ông’. [Hang] rất gần với vài phương ngữ Việt như [Héng]. Hắn cũng gần với tiếng Quảng Đông [Heoi], và cũng có liên hệ với ‘Họ’, ngôi thứ ba số nhiều trong tiếng Viêt. Tiếng Muờng, trái lại, dùng ‘Ho’ (không có dấu Nặng) [16] cho Tôi/Tao. Môt tiếng Mường khác rất phổ thông để chỉ đại danh từ ngôi thứ ba là ‘Lũ’, giống như tiếng Việt ‘Bọn/Chúng’. ‘Lũ’ cũng có cùng âm với [lei] [5] 娌, tiếng Ngô (Triết Giang), có nghĩa cô ấy/cậu ấy, ph át âm nh ư [lei] trong ti ếng Qu ảng Đông [5]. Cũng là điều thú vị, vì ‘Lũ’ cũng giống âm tiếng Pháp ‘lui’, (bảng [1]), trong khi ‘Y’ và Hắn (hoặc [heoi] tiếng Quảng Đông) giống ‘Il’ trong tiếng Pháp hoặc He/Him trong tiếng Anh.
Kẻ và Gã có âm giống [Ke] và [Goat] trong tiếng Cambodian, và cùng gốc với [Kei], [Keoi] and [Gei] (其 渠) Quảng Đông. ‘Kẻ’ đồng thời cũng liên hệ với [Koj] Hmong (ngôi thứ hai) và [kow] Champa (ngôi thứ nhất). Kẻ, đọc là Ké trong tiếng Mường có âm giống [Ko ia] Rapanui (sắc dân Đa Đảo ở vùng đảo Easter Island) và [O KOya] Phúc Kiến, cùng dùng cho ngôi thứ ba ‘Ya’.
Thường Kẻ và Gã có ấy/đó đi kèm: Kẻ ấy, Gã đó. Tiếng Mường tương đương với ‘ấy’, hay ‘đấy’, là [đỉ]: Ông đấy (Việt)=> Ông đỉ (Mường); Bà ấy (Việt)=> Mễ đỉ (Mường). Xin lưu ý, âm Hỏi bên tiếng Mường là âm dấu Sắc bên tiếng Việt: đấy=> đỉ, tiếng => thiểng, nó=> nả, chúng=> chủng, đột phá=> đôt phả. Âm dấu Sắc tiếng Việt cũng tương đương với âm dấu Hỏi bên Tày-Nùng: đỏ chói => ‘đeng chỏi’ (Tày-Nùng), chúng => chủng.
Y và Va đọc là [Ya], rất phổ biến trong miền Nam. Cả hai có âm giống nhiều ngôn ngữ trong vùng. ‘Y’ từ: [yi] 伊, Quan thoại, [Y] Hẹ, [I] Phúc Kiến, [Ee] Hải Nam, [I] Hán- Hàn, [I] Mon-Khmer. ‘Y’ trong Quan thoại cũng có nghĩa là ‘ấy'.
‘Va’ thật ra là chữ quốc ngữ đánh vần sai vì muốn gộp cả 3 âm [W], [V], [Y] (hoặc [By] {[b]}) của các miền vào làm một chữ [V] duy nhất. ‘Bya’ rất thông dụng ở miền Nam, phát âm [Ya] hay [Bya] ([ba]). Phát âm [Ya] hay [ba] cho đại danh từ ngôi thứ ba tương ứng giống với [za] Hẹ, [Dia] hay [Ia], Mã Lai, [niya], Tagalog (Phi Luật Tân), [Eya], Sinhalese và [Ia], Đa đảo (Polynesian).
[Ta] 他 phổ biến nhất trong tiếng Trung Hoa theo nghĩa “bà ấy/ông ấy”, không có trong tiếng Việt, ngoại trừ ‘Tha Nhân’ với chữ ‘Tha’ thường bị tưởng lầm là chữ Hán-Việt, nhưng thật ra, có phát âm Phúc Kiến [tha], hoặc Ngô (Triết Giang) [Tha]. Tiếng Tày-Nùng có âm [Te] [14] [15], xuất phát từ [Ta] để chỉ “bà ấy/ông ấy”.
Cái, Kia, Ấy, Nầy, Nọ, Nớ: Cái thường được dùng trong tiếng Việt như mạo từ đếm [13]. Ví dụ: 1 cái bàn, 6 cái ghế…‘Cái’ thường được cho là chữ Nôm mượn từ Hán-Việt ‘Cá‘ có nguồn gốc từ tiếng Quan Thoại [Ge] 個. Thật ra, cả hai ‘Cá’ và ‘Cái’ có âm giống hệt từ tiếng Hẹ: [Ka] và [Kai], tương đương với Quan Thoại [Ge] [5] và Hán-Hàn [Kay] [5], là từ đếm bổ xung cho (này, ni) hay (nọ, kia, ấy).
Kia, Ấy, Nầy, Ni, Nọ, Nớ… đều có cùng môt âm với các phương ngữ Hoa Nam. Kia rất gần với其 [kia] Hẹ - cùng chữ giống như Kẻ và Gã. Ấy tương đương với ‘Y’ 伊, có cả hai nghĩa ‘ấy’ và ‘ông ấy/bà ấy’. (Ấy tương đương với Ái trong Tày/Nùng [15] [18]). Ấy cũng cùng âm và gốc vói Mon-Khmer [?a:y].
Nầy, Ni, Nọ, Nớ v.v... có cùng âm với nhiều từ Nam Trung Hoa mang nghĩa Nầy, Nọ. Thí dụ [nei] Quảng Đông & [ni] 呢 Hẹ nghĩa là cái này; và那 Hẹ & Quảng Đông [no], [naa] {cái kia}. Ngoài ra “Nầy (Ni)” and “Nọ (Nớ)” cũng giống như [nih] và [nuh] tiếng Cambodian cho cái này và cái kia.
... Như đã thấy, trong tiếng Việt không đại từ nào đứng một mình mà không có liên hệ với từ của các tiếng khác. Tất cả đều có ít nhất một liên hệ với từ trong ngôn ngữ khác hoặc có nguồn gốc giữa các ngôn ngữ và thổ ngữ tạo thành tiếng Việt ngày nay.
So sánh với các phương ngữ Trung Hoa, kể cả Quan thoại, đại danh từ cho ngôi thứ hai tiếng Việt - không có từ gọi chung chung như Ni/Nimen (you như trong tiếng Anh)- luôn có liên hệ gia tộc hay địa vị xã hội. Trong tiếng Việt, đại danh từ nhất là ngôi thứ nhất và thứ hai, luôn để ý đến vai vế trong gia đình hay ngoài xã hội, phản ảnh cấu trúc văn hoá sâu đậm và là di sản từ văn hóa cổ Mon-Khmer vốn không khác bao nhiêu với văn hoá của người Bách Việt ở miền mà bây-giờ-là-Nam-Trung-Hoa. Để ý là văn hóa Mon-Khmer đã hiện diện ở Trung quốc từ lâu đời, Mon-Khmer thường được biết dưới tên Địch-Khương (một trong bốn nhóm Trung Hoa gọi là Man-Di-Nhung-Địch), và truyền thuyết ghi lại vua Đại Vũ - nổi tiếng về trị thuỷ ở sông Hoàng Hà - người thành lập ra nhà Hạ, là người gốc Bách Việt, được coi là từ bộ tộc Khương [2].
Đại Danh Từ Tiếng Việt
Vietsciences-Nguyễn Đức Hiệp, Trần Thị Vĩnh Tường
(Chuyển ngữ từ bài tiếng Anh của V. U Nguyen)