Solitude

Cảnh như thị, nhân như thị

Thơ Gia Long
Trường An February 5th, 2012

Những bài thơ này được ghi trên đồ sứ men lam do Gia Long ký kiểu ở Trung Quốc vào năm Canh Ngọ (1810).

Bài 1: Tô kiểu "nhất thi nhất họa". Một mặt vẽ cảnh rừng núi trùng điệp, hùng vĩ. Quanh lối mòn có vài tiều phu gánh củi trở về, kèm bài thơ đề vịnh:

"Nguồn tham, đò dục suốt chăng mang,
Bao nã đem mình ẩn núi Thương
Lưng vận búa trăng, chơi đủng đỉnh,
Chân chầy ngàn tuyết, bước xênh xang.
Tấc tài dài vắn, tay thu thập,
Một gánh giang sơn, sức đảm đang.
Dù nhẫn mai ngơi vào thạch thất,
Đành đành bắt chước thói chàng Vương."

Quý hạ vọng hậu, đề ở Thúy Liên đường
(Viết ở Thúy Liên đường, sau ngày rằm tháng 6)

Chú thích:

- Núi Thương: Nơi ẩn của bốn cao sĩ (Tứ hạo) dưới thời Tần. Sau Hán Cao tổ có cho sứ đến mời về triều nhưng từ chối.
- Thạch thất: Sau khi diệt Tần, Hán Cao tổ Lưu Bang cho xây một tòa nhà bằng đá, trong đó có ghi lời thề: Con cháu các công thần đời đời được nối nghiệp làm chư hầu của nhà hán.
- Chàng Vương: Tức Vương Duy, tự Ma Cật. Một thi bá đời Đường, làm quan tới chức Thượng thư. Ông vẽ rất đẹp, được đời tôn làm tổ sư của Nam Tông họa phái. Hâm mộ đạo Phật, về già ăn chay tu thiền.



Bài 2: Cùng kiểu thức với tô trên. Vẽ cảnh sông hồ bát ngát, trời nước mênh mông. Ngoài xa có vài ba chiếc thuyền chài lênh đênh. Trên bờ là một xóm chài, ven núi non chất ngất. Thơ đề vịnh:

"Xanh xanh chiếc lá nổi dòng La,
Khơi lộng năm hồ mặc thích ta.
Ngợi khúc Thương Lang, vang nhịp bảy,
Ra tay thủ đoạn tóm giềng ba.
Sông đào mảng tưởng nguồn cơn thẳm,
Ngày bạc nào hay tuổi tác già.
Chớ sợ trầm lôi, vui chí Thuấn,
Ngao du bốn biển lấy làm nhà."

Quý hạ vọng hậu, đề ở Thúy Liên đường
(Viết ở Thúy Liên đường, sau ngày rằm tháng 6)

Chú thích:

- Thương Lang: Được ghi vào điển tích với câu nổi tiếng trong sách Mạnh Tử, bài Nhụ tử ca: "Nước Thương Lang trong chừ, khá đem giặt mũ ta. Nước Thương Lang đục chừ, khá đem rửa chân ta."
- Ngày bạc: Tức bạch nhật, từ dùng để chỉ thời gian. Ví dụ: "Lân la ngày bạc qua hồi xuân xanh" - Phan Trần.
- Bài thơ bị mất 2 chữ đầu câu 8, do người dịch thêm vào chữ "ngao du".

Bài 3:

"Lân la chiếu đất liền màn trời
Thong thả rừng đào mặc thích chơi
Ghẹo nguyệt nghêu ngao ba chặp địch
Nhúng sương chỉ vẫy một tay roi
Xang ca Ninh Thích khoan khoan dắng
Tưởng trận Điền Đan khích khích cười
Dò hỏi chúng chàng nào bói thử
Thưa rằng chúa Hán có tin bài."

Quý hạ vọng hậu, đề ở Thúy Liên đường
(Viết ở Thúy Liên đường, sau ngày rằm tháng 6)

Chú thích:

Ninh Thích ▼

Điền Đan ▼



Thơ được ghi trên đồ sứ ký kiểu ngự dụng, hẳn đây là bộ "ngư, tiều, canh, mục". Tài liệu được Trần Đình Sơn (đồng thời là nhà sưu tập cổ vật) viết trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 139 vào năm 1994 và cung cấp cho Doanh nhân Sài Gòn vào Tết 2009 bài về trâu.

(Nhiều người nghi những bài thơ này của Đặng Đức Siêu, Nguyễn Văn Thành hay Nguyễn Phúc Thăng. Nhưng nếu những bài này làm vào sau tháng 6 năm 1810, thì tháng 1 năm đó, mẹ Nguyễn Văn Thành vừa mất, ông đã về quê chịu tang đến năm sau mới lên Kinh; Đặng Đức Siêu qua đời vào tháng 2 cùng năm. Không hiểu vì lý do gì (ngoại trừ cố sống cố chết không muốn Gia Long biết làm thơ ( =)) )) mà những bài này được gán cho Nguyễn Phúc Thăng - người còn nhỏ hơn Gia Long mấy tháng tuổi và theo cuộc sống của ông ấy thì khó mà có cái khẩu khí này? Nhìn ngược nhìn xuôi không còn ai, vậy thì cứ coi đây là thơ của Gia Long đi. Dù sao, việc đem thơ của mình đi ký kiểu đồ sứ vốn là truyền thống đã có từ thời chúa Minh Nguyễn Phúc Chu.)



2 Responses
Pinky

Đã bấm nút Like rùi mà vẫn phải vào cảm ơn bạn Ast 1 cái vì đã sưu tầm được 3 bài thơ hay quá, mình cực thích những giai điệu phảng phất khẩu khí ngạo nghễ ung dung như thế này. Tặng hoa cho bạn Ast nhé, hoa nè :rose: :rose: :rose:

Trường An

Công nhận nhé, mấy người muốn-dìm-hàng không muốn đây là thơ GL vì chúng hay quá. '__' Viết về ngư tiều canh mục thì cũng nhan nhản cả rồi, nhưng viết về tiều phu đi chặt cây gánh củi mà thành "Tấc tài dài vắn, tay thu thập, Một gánh giang sơn, sức đảm đang."; người đánh cá mà thành "ngợi khúc Thương Lang, vang nhịp bảy"... độc đáo mà ngạo khí ngất trời thế này, trong thời ấy có được bao nhiêu người? Thơ văn Đặng Đức Siêu giàu cảm xúc mà hơi rườm rà cầu kỳ, Nguyễn Văn Thành thì hơi khuôn phép, văn thơ của mấy người Bắc Hà này nọ kia thì than mây khóc gió là hay, có ngông cũng chẳng có lực, có chí mà không có khí. Nghĩ mãi không ra còn ai khác có thể làm mấy bài thơ này (p/s: thơ sặc mùi Bảo Bình =)) ).

Tớ đi tìm lại bài về mũ mão kia, lại không tìm thấy mà vớ được cái cuốntạp chí xưa lắc, đúng là có duyên. :D

Leave a Reply

(required)

(required)

:) :blush: :D :( :(( ;)) :banh: ;) ::) =)) :)) b-) :meo1: :meo2: :meo3: :meo4: :meo5: :meo6: :meo7: :meo8: :meo9: :meo10: :meo11: more »

Bộ gõ tiếng Việt đã được bật. Bạn có thể gõ tiếng Việt không cần phần mềm trong máy.
RSS feed for comments on this post.


Copyright © Trường An. All rights reserved.