Solitude

Cảnh như thị, nhân như thị

Hồi 54: Thi án
Saturday, November 3, 2012 Author: Trường An

Mộc trung nguyên hữu hỏa,
Nguyên hỏa phục hoàn sinh.
Nhược vị mộc vô hỏa,
Toàn toại hà do manh?

Buổi chiều hôm ấy, gió đã cuốn hất đám lá thu rơi rụng trên nền đất vào những vòng xoáy nho nhỏ trước khi đem chúng tung xuống mặt nước. Sen trên hồ đã tàn, nhìn rõ những cành rễ lập lờ trong nước. Trong không khí thoang thoảng vị đắng của mưa đang tới, nhưng nàng không cảm nhận được. Sau ba ngày đêm liền ngồi bên hồ, thân người nàng gần như tê bại, trí óc mập mờ loáng thoáng như cảnh sắc phản chiếu trên mặt hồ kia.

Ta bỏ cuộc, gạt tay qua mắt đã mờ đi, nàng chống tay đứng lên. Trong ba ngày này, nàng vẫn ăn uống đầy đủ, nghỉ ngơi cách quãng, thi thoảng đứng dậy để giãn xương cốt. Nhưng hóa ra tập trung tâm trí vào một việc, cố gắng làm ‘cái việc ngu ngốc’ thanh tẩy trí não lại khó khăn và tiêu tốn nhiều sức lực đến thế. Việc ngu ngốc, nàng lắc đầu xua đi cơn chuếnh choáng. Chẳng có ý nghĩa gì khi tìm kiếm thứ nào đó trên một mặt hồ.

Ý nghĩ vừa tới đấy, nàng đã hoa mắt chóng mặt, gần như ngã sấp xuống. Thân thể đột nhiên bải hoải vô lực đến không thể nhấc tay lên nổi, nàng ngẩng đầu nhìn bầu trời, thốt nhiên nghĩ tới bầu trời trên mặt nước kia. Khoảng không gian đầy gió, mù bụi cỏ, tràn trề ánh sáng và làn hơi, không hề giống như thứ nàng đã nhìn thấy ba ngày liền. Quả thật là một việc ngu ngốc, khi nàng chăm chăm nhìn vào thứ ảnh tượng nhỏ bé xiêu lạc nọ. Nghĩ tới đấy, có thể vì mắt đã mỏi, lệ nóng chợt tràn khỏi đuôi mắt nàng, lăn vào tóc mai.

Một vòng tay ấm áp nhanh chóng đỡ nàng lên, đưa vào trong nhà.

Có tiếng cười, cũng có thể là tiếng thở dài, mỏng như gió thổi bên tai nàng. Người đó xoa tóc nàng, cười hay thở dài khe khẽ:

Hiểu chứ, đó là một giấc mơ. Một giấc mơ trường tồn là giấc mơ vĩnh viễn không bao giờ thành sự thật.

Cũng có thể, nàng đã chỉ nghe câu nói ấy trong mơ. Khi nàng tỉnh thức, ngài ta đã rời đi, chỉ để lại trên bàn một bức tranh còn thơm mùi mực. Tranh vẽ nàng của buổi chiều ngày hôm ấy, và bài thơ đề bên cạnh.

Nàng đem tranh về, treo trong phòng riêng, không hỏi lại ý nghĩa của nó. Ngài ta cũng dường như đã quên mất mà không bao giờ hỏi. Sau này, nàng rời khỏi Thương Trúc trang, không đem theo bức tranh. Khi trở về, nàng cũng ít khi nhìn tới nó.

Những năm tháng sau này trượt đi trong những mảng màu loang chập chờn như ánh nắng soi trong giấc mộng. Muôn vàn màu sắc trôi qua, hòa tan, loãng mờ, biến mất, bị thay thế và quên lãng. Thi thoảng, những đường nét thanh thanh màu mực đen kia trở lại, như thể một bóng hình dưới đáy nước, một thứ phác nền cho sắc màu trôi trên nó. Nàng thi thoảng vẫn nhớ về nó, tuy không mấy khi nhìn tới. Rồi nàng nghĩ, hẳn bức tranh trong trí nhớ của nàng đã có chút sai khác so với thứ trong hiện thực.

Như là, nàng đã thấy hình bóng của bức họa trên khung cảnh trước mặt, qua những chấn song. Bên kia chấn song, khung cảnh chẳng có hồ cũng chẳng có trời xanh. Gió đang nổi, đem sương mù buổi sớm chưa kịp tan tản mát vào mây xám. Tre trúc mọc dày làm tấm rào chắn tự nhiên cho bãi đất cỏ bời bời. Trong làn sương, cành lá phơ phất, đôi lần lộ rõ một đôi đầu lâu còn nguyên tóc cắm vào bụi tre. Cỏ trong bãi đất dày, tốt tươi kỳ lạ tuy thường xuyên bị xéo đạp. Mùi tanh nồng như bám vào bụi cây ngọn cỏ, luẩn quẩn giữa bãi đất rộng. Mấy cọc gỗ đóng trên đất đã thẫm đen màu mưa nắng, khó có thể nhận ra những vệt vương loang lổ. Người đang đem mấy sợi thừng mới đến, quấn vào thân cọc. Ở khoảng cách này, nàng chỉ nhìn được vài vệt người đen đen.

Chưa đến giờ giải tù ra pháp trường. Hôm nay các quan lớn đến xem xử trảm trọng phạm, giờ hành hình được lùi lại vào lúc trời sáng rõ. Lúc này nàng mới nghe tiếng xích sắt va chạm loảng xoảng từ sân sau của nhà giam. Cai ngục vừa kéo vừa lôi mấy người tù ra sân, chuẩn bị đeo gông vào. Nàng nghe tiếng nói rất quen vọng tới: “Không cần!”.

“Người của vương tộc cũng phải có chút ít mặt mũi.” Nguyễn Phúc Nhuận đến coi sóc việc giải tù sáng này, bất nhẫn lên tiếng, gạt cái gông đang được ướm trên cổ Nguyễn Phúc Huệ sang bên. Nguyễn Phúc Huệ mím môi, thậm chí chẳng đưa mắt nhìn qua. Bất chợt, ánh mắt gã dừng lại ở nơi mà Như Yên cũng đang đăm đăm nhìn tới.

Trước cổng nhà giam đang mở rộng dẫn ra pháp trường, trên con đường lầy cơn mưa đêm trước, đứa trẻ mặc áo tang đứng ôm bài vị ngơ ngác ngẩng đầu nhìn trời. Đám phụ nữ và trẻ nhỏ hơn đã tụ tập về phía trong cửa ngóng vào, cắn khăn khóc lóc, chẳng ai để ý đến nó. Thằng bé chừng hơn năm, sáu tuổi dường như vẫn chưa nhận ra địa điểm mình đang đứng, chỉ dõi đôi mắt to nhìn bầu trời xám mây, bụi nước mờ lất phất như mưa ngâu. Đến khi bị tiếng kêu khóc làm kinh động, nó mới giật mình nhìn về phía cửa ngục. Nguyễn Phúc Huệ khoanh tay áo giấu sợi xích sắt, bước về phía thằng bé.

Nàng không nghe được lời họ nói, cũng chẳng nhìn rõ hai cha con giữa đám đông vòng trong vòng ngoài. Thấy Nguyễn Phúc Huệ và đám tù nhân phía sau, người ngoài cửa xô tới, kêu khóc ầm ĩ, lính canh lại phải dàn hàng gạt ra. Nguyễn Phúc Nhuận đã gia ân cởi xích chân cho Nguyễn Phúc Huệ, lính canh lại giáo mác sẵn sàng bao vây xung quanh.

Loáng thoáng sau đám người, chỉ thấy Nguyễn Phúc Huệ vỗ đầu đứa bé trước khi đứng lên. Thằng bé níu tay cha nó, liền bị lính gạt ra, đẩy Nguyễn Phúc Huệ vào. Từ phía sân trong, hai hàng lính vệ chạy ra sắp hàng đều tăm tắp, chờ đến lúc giải tù phạm. Một chiếc cồng lớn cũng được khiêng sẵn ra sân chờ lệnh.

Tay vẫn khoanh trong áo, Nguyễn Phúc Huệ men theo hành lang trở về vị trí chờ đợi. Nhờ vậy, gã nhìn thấy nàng trong song cửa. Nàng cũng đứng yên, không có ý tránh mặt gã.

“Cô cô…” Khóe miệng Nguyễn Phúc Huệ giật khẽ, không rõ là loại biểu cảm gì. Tiếng nói của gã khàn khàn. Dù ra pháp trường, tóc gã đã được búi buộc gọn gàng, vẫn mặc thường phục chứ không phải áo tù. Gương mặt hốc hác khiến đôi mắt sâu tối, gã nhìn nàng mà không để lộ chút sắc thái, dù là căm ghét hay giận dữ. Thậm chí câu nói sau của gã còn thoáng vẻ mai mỉa. “Vẫn chưa đến lượt cô cô sao?”

“Sắp rồi.” Nàng nói mà không chớp mắt. Đôi môi Nguyễn Phúc Huệ nhoành thành một nụ cười.

“Chiêm Dao Luật từng trách ta quá tin người, nhưng cũng lại quá đa nghi.” Gã nói qua hàm răng nghiến chặt, nhưng vẫn chẳng phải là giận dữ hay căm ghét. Như Yên liền chớp mắt.

“Tin người hay nghi người? Thật ra chỉ là nhìn thấy lợi trước mắt của người mà không nghĩ tới chính con người, sử dụng người mà không đặt tâm vào người, dùng người mà không hiểu người. Chỉ nhìn thấy bề nổi hợp ý mình mà gán cho người tất cả những gì mình nghĩ.” Nàng lắc đầu. “Nên kẻ đáng tin thì không tin, kẻ không nên tin lại dùng. Mà tất cả kẻ xung quanh cũng chẳng ai tin công tử, thật lòng đối đãi với công tử, chẳng qua thuyền chìm thì cùng chết. Mỗi kẻ tìm tới vì mục đích của riêng mình, không kéo được họ theo thì làm việc lớn sao được?”

“Cám ơn cô cô.” Nguyễn Phúc Huệ nhíu mày, gật gật đầu. “Nếu có kiếp sau, ta sẽ ghi nhớ.”

Lính gác thúc vào lưng giục giã, Nguyễn Phúc Huệ liền bước đi. Được vài bước, gã ngoái đầu nhìn lại.

“Thật sự ta chỉ không tin có kẻ muốn tự hủy diệt mình, hóa ra là ta lầm.” Lời nói khàn khàn lại nghe như có tiếng cười trong cổ. “Ta vốn đánh giá cao cô cô, hóa ra ta cũng lầm nốt. Chẳng có chí hướng, cũng chẳng có tham vọng, chỉ là chó săn cho người. Chẳng muốn khẳng định mình, chỉ đem kẻ khác hóa thành ‘phản tặc’ đồng nhất mà lót chân cho mình.”

Như Yên hé miệng như định nói, rồi lại im lặng. Nghe tiếng gọi, lính vội kéo Nguyễn Phúc Huệ đi thẳng. Tù phạm bị dẫn giải ra giữa hai hàng xích sắt, tay bị trói vào cùng một dây. Quan giải phạm nhân cưỡi ngựa đi cạnh. Nhà tù không xa pháp trường, tiếng thanh la, chiêng trống gọi dẹp đường vẫn vang động.

Nàng nhìn thấy đứa bé kia lần nữa, khi nó bị đẩy dạt sang bên, vẫn ôm khư khư bài vị trong tay. Đôi mắt nó vẫn ngơ ngác khi luôn miệng gọi người cha bị giải đi qua, người chú bám chặt lấy tay anh mà vấp nối đi theo. Tù phạm lần này là thế gia vọng tộc hay quan tướng, người tới pháp trường xem xử trảm đông gấp mấy lần bình thường. Thoáng chốc, bóng áo trắng nhỏ bé nọ đã lẫn hẳn trong đám đông xô về phía những bụi tre gai.

Các quan tới gần như cùng lúc, tiếng chiêng trống càng ồn ào. Võng lọng ngựa xe ngoài bãi trông như thể một đám hội.

Những chiếc xe kéo phủ vải kín được đẩy tới sau cùng, bánh xe lăn lọc cọc, cũng chẳng có vẻ vội vã nôn nóng như đám người xung quanh.

Đám tù phạm được dẫn ra xa, cánh cửa nhà giam khép lại, trả sự yên ắng về cho khu nhà. Nắng đã lên sáng rõ, soi tỏ dấu chân trên sân đất.

Nàng đóng cửa sổ, khép cả khoảng cách với tiếng động bên ngoài. Qua những lớp gỗ dày, tiếng động như sóng âm vang trong lòng đất, chốc chốc lại ào lên. Tựa lưng vào thành giường, nàng thắp đèn, lấy sách ra đọc.

Tiếng ồn rồi cũng vãn. Khi trời chuyển sang trưa, thanh âm cuối cùng nàng nghe thấy là tiếng bánh xe gỗ lăn trên đá sỏi. Lính xong việc về nhà giam, đóng mở cánh cửa cọt kẹt, gươm giáo lanh canh. Người đem cơm cho nàng đẩy cửa vào, để mâm cơm ngoài song gỗ. Theo gió thoảng vào, mùi tanh lẫn với mùi thức ăn chợt khiến nàng lợm giọng.

Lơ đãng, nàng không nghe được tiếng người đưa cơm nói, khiến cô ta phải nhắc lại hai lần. Cô ta bảo, chiều nay nàng chuẩn bị.

Rồi như thể sợ sệt, cô gái lui ngược ra cửa, khép nhanh cửa mà đi. Nàng nhìn bữa cơm thịnh soạn hơn mọi ngày, chợt mỉm cười.

Hôm nay là ngày xử tội tất cả kẻ phản loạn. Nàng vốn là nữ nhân, lại thành khẩn khai báo nên được gia ân chọn tam ban triều điển. Sau khi thị kiến phạm nhân ban ngày, đến chiều pháp quan mới rảnh rỗi đến xem nàng.

Xác phạm nhân phải được giám định kỹ càng, trong tình hình căng thẳng ngàn kẻ nhìn vào này, ngay cả vị chúa cũng không thể tìm cách đưa nàng ra. Giả ma giả quỷ hay lập lờ đánh lận con đen đều không phải là cách tốt, khi người ta dễ dàng nghi ngờ bất cứ điều gì không được chứng thực. Giả ma giả quỷ hay mập mờ không rõ càng phương hại đến hình ảnh mà vị chúa đang dựng xây.

Nàng, rốt cuộc cũng là con cháu của phản thần.

Nhưng chỉ ngay sau bữa trưa, đã có người đến gọi nàng rời khỏi nhà giam. Để tránh ánh mắt người ngoài, nàng được đưa lên xe ngựa đi về khu nhà của ty Xá sai bên phủ chúa. Ngoài trời, mưa phùn mùa xuân lại lất phất rơi. Nàng hé rèm xe, nhìn ra khung cảnh dòng sông bên con đường vắng. Đang giờ nghỉ trưa, người tụ họp về những nhà lán, quán xá trong chợ, bên đồng. Mưa mù như khói tỏa giữa tầng không, lọc qua tầng tầng nắng bạc sáng trắng cả bầu trời. Những chiếc thuyền con trôi như chiếc lá giữa lớp lớp sóng gờn. Cánh chim về phương Bắc sớm chao giữa tầng trời, tiếng kêu lạc trong thinh không.

Nàng đến sớm, ty Xá sai vẫn chưa mở cửa cho buổi làm việc chiều. Người đón đưa nàng vào gian nhà nghỉ dành cho khách. Trong phòng, quần áo và trang sức đã để sẵn. Nàng liền thay áo, chải lại tóc. Trên bàn có cả một bộ son phấn đựng trong các hộp sứ trắng, thơm ngát mùi hoa. Nàng chỉ chấm chút son lên môi, rắc phấn vào tay xoa lên cổ. Nhìn vào gương, đã nhiều ngày không bước khỏi phòng giam, da nàng trắng tái, hai má lại hồng lên trong khí lạnh. Một vẻ yên bình đến lạnh lùng phảng phất nơi đầu mày khóe mắt, dễ dàng tạo ra ấn tượng rằng sắc diện nàng vốn chẳng mấy thay đổi so với cô thiếu nữ ngày nào. Như một cái mặt nạ trong suốt bằng sương giá đã phủ che dấu vết của tháng năm.

Nghe tiếng đẩy cửa, nàng nhìn vào gương, không quay đầu. Người thanh niên vừa đến cũng im lặng khép cửa, nhẹ bước tới chiếc bàn bên chờ đợi nàng trang điểm xong. Thoa thêm chút dầu lên tóc, nàng ngoảnh lại, mỉm cười.

“Đám quan chức của ty Xá sai biết đâu đang bài bạc trong kia, biết chúa công đến thế này lại vỡ mật chết đấy.” Vị chúa trẻ đang mặc bộ thường phục ưa thích của ngài ta, bộ áo màu nguyệt bạch dễ lẫn với các sắc áo thông thường của thị dân, tóc chỉ buộc chứ không đội khăn mũ. Không nghe tiếng tiền hô hậu ủng ngoài cửa, hẳn ngài ta lại đi đường vòng lẩn vào.

Nghe nàng nói, môi Nguyễn Phúc Chu cong lên trong một nụ cười nhạt nhòa. Ngài ta đăm đăm nhìn nàng, cuối cùng mở miệng.

“Cô cô không cảm thấy gì sao?” Đó không hẳn là điều ngài muốn hỏi, nhưng cũng có thể chính xác là điều ngài muốn biết.

“Nếu chúa công đến để tỏ lòng thương tiếc thì thôi đi.” Như Yên bật cười, đưa tay chỉnh lại chiếc hoa tai. “’Thương tiếc’ hay ‘không nỡ’ cũng chỉ là cách tự an ủi bản thân, cho rằng mình tốt đẹp. Thế cuối cùng có hành động khác đi không, đó mới là vấn đề. Thương tiếc với lại cả không nỡ, cuối cùng chỉ đạo đức giả như nhau cả thôi. Đành rằng với địa vị của chúa công, đạo đức giả cũng chẳng có gì không tốt, nhưng nghĩ lắm rồi lại tự cho là thế thật thì làm thiên hạ đại loạn.”

“Cô cô lại quá lời rồi.” Nguyễn Phúc Chu chợt cười. Ngón tay nhịp trên mặt bàn gỗ, vị chúa cân nhắc nhìn nàng. “Cô cô có còn tâm nguyện nào nữa không?”

“Ta nghĩ chưa ra, hay để ta từ từ nghĩ vậy.” Như Yên nghiêng đầu, nhún vai. Chải xong mái tóc, nàng cuộn một lọn nhỏ búi lên sau đầu. Thấy vậy, Nguyễn Phúc Chu tới bên, rút trong tay áo ra một cành hoa tường vi gài lên tóc cho nàng. Dường giật mình, Như Yên đưa tay chạm vào những cánh hoa vẫn còn vương hơi ấm. Màu sắc lẫn dáng hình hoa đều rất quen thuộc với nàng.

“Ta vừa đến đó xem xét.” Nguyễn Phúc Chu nói khi quay về chỗ ngồi, tránh mắt khỏi gương mặt nàng. “Ta cũng vừa bảo quần thần phác thảo chuẩn bị để chọn ngày tốt khởi công.”

“Tiếc thật.” Nhìn những cánh hoa rung rung lấp ló sau búi tóc, nàng mỉm cười, nói nhẹ bẫng. Nguyễn Phúc Chu đưa mắt nhìn lại, nhưng nàng đã lắc đầu. “Dù chỉ còn gốc rễ thì cây vẫn sống sót được, nhưng sao có thể sống ngàn năm?”

“Tiên chúa từng nói, cô cô thà bỏ đi còn hơn giữ lại. Có lẽ là ngay cả bản thân mình.” Chống tay lên bàn, Nguyễn Phúc Chu nói với đôi chút tò mò. Như Yên cười nhẹ, đeo cái vòng vàng vào tay.

Mộc trung nguyên hữu hỏa. Mà lửa thì hẳn nhiên phải đốt rụi mọi thứ rồi. Ta cũng chẳng phải vô tâm vô tình, chẳng biết tiếc thương. Chỉ là, trong ta có một ngọn lửa.” Nàng thở ra, nhíu mày như suy nghĩ về chính những gì mình đang nói. “Có những giới hạn, cháu hiểu không? Một khi lửa đã đốt cháy những thứ ở trong đó, không thể quay về như trước được nữa, thậm chí bị hủy diệt hoàn toàn. Có những giới hạn, bước qua rồi thì sẽ chẳng bao giờ còn khiến ta khóc hay cười, thậm chí là đau lòng được nữa. Trong ta có một ngọn lửa như thế đó, chỉ chờ cơ hội là bùng lên, khiến ta lúc nhỏ thì đi phá người phá việc, khi lớn thì đi hủy hoại cả người lẫn mình. Ta không biết tha thứ, cũng chẳng bao giờ quay đầu, chẳng qua là vì đã bước qua giới hạn mất rồi. Bỏ đi hay giữ lại cũng chẳng phải do ta quyết.

“Ngay cả đem mình ra làm mồi cho lửa, cũng là một loại vui sướng.” Cười khẽ trong cổ, Như Yên liếc mắt nhìn người bên kia phòng. “Ngay cả kẻ đã và đang đối đầu với cháu cũng vậy. Biết hiểm nguy, biết trắc trở, đường cùng mà vẫn đâm đầu vào, đâu phải chỉ có mỗi mình ta.”

Như vậy chỉ khi chết đi mới dập tắt được ngọn lửa ấy? Nguyễn Phúc Chu muốn hỏi. Nhưng rốt cuộc, ngài lại không thốt ra lời.

Buổi hành hình đến sớm ngay khi buổi chiều bắt đầu. Dưới sự thị kiến của các quan trong Xá sai, ba món vật dụng trong tam ban triều điển được đưa đến, gồm ba thước lụa trắng, dao nhọn và thuốc độc. Không muốn phải chịu đau đớn hành hình, nàng chọn chén thuốc độc.

Cái xác được giữ lại chờ khám nghiệm đến khi đã lạnh cứng. Cuối buổi chiều hôm ấy, thi thể nàng mới được đưa ra ngoài, đến bãi đất tha ma bên kia sông.

Buổi chiều hôm ấy, đoàn nhân công đầu tiên đến phá dỡ khu nhà trên mạn đồi. Cuối chiều, khoảng sân trong đã được dọn quang. Bụi tường vi bị chặt chất thành đống men lối dẫn xuống bến sông. Khi chiếc thuyền con đi qua, cánh hoa theo gió rắc xuống như muôn mảnh xác pháo hồng.

Mưa bụi giăng, nhưng người thanh niên vẫn đứng dưới tàn thông, ngẩng nhìn vầng dương nhạt mờ trong sương khói. Không che ô, chỉ khoác sơ sài một chiếc áo da dê trắng, mưa đã ướt vai cậu.

Đứng khuất trong bóng râm của cây cỏ, người ngoài khó nhìn thấy, người thanh niên dường giật mình khi nghe tiếng lạo xạo bên kia bụi hoa. Đống cành nhánh cao quá đầu người khiến cậu chỉ nghe tiếng hát ngâm khe khẽ như thể của một bé gái.

“Dày dày da ngọc tuyết ken
Mày nga khói đượm, tóc tiên mây lồng
Gót sen đua nở bạch hồng
Sáng ngời mắt phượng, tình bông má đào
Rõ ràng ánh nguyệt chói sao
Mỉa đường Tần nữ, kém nào Hạ Cơ.”

Nhíu mày, người thanh niên nghiêng người nhìn qua lớp cỏ cây rậm rạp. Bên kia bụi hoa, một cô bé đang loay hoay cúi hái hoa còn trên cành, vừa tìm kiếm vừa ngâm nga khe khẽ như đọc hơn là hát. Bài mà cô bé này hát, cậu cũng chưa bao giờ nghe đến.

Cô bé chừng vừa để tóc, mái tóc dày đen nhánh buông ngang lưng nhỏ nhắn, đối lập với lớp áo lụa đỏ và bàn tay trắng ngần. Không rõ vì dáng hình ấy hay do lời hát ngân nga, trong một lúc, cậu thanh niên ngây người.

“Nàng đi bước ngọc đầu lê,
Áo hừng màu thắm, quần lòe thức xanh
Xạ hương duồng gió đưa thanh
Rung tay hoàn bội, rỡ mình trân châu.”

Hoa bên ngoài đã hái hết, cô bé đưa tay vào sâu hơn trong bụi. Bị gai đâm, cô giật mình kêu khẽ. Từ chỗ đứng, người thanh niên bước tới, lấy gươm gạt bụi hoa tản ra. Cô bé giật mình nhìn lên, thấy cậu cúi xuống, trong ánh mắt có một xúc cảm không rõ là gì.

“Đây là bài hát gì thế?” Người thanh niên mỉm cười. Nhưng nụ cười của cậu không hề lộ vẻ vui sướng. Nụ cười khiến cô bé ngơ ngác một lúc.

“Đây là thơ của bác Hào.” Cô bé rụt rè trả lời. Giọng nói của cô nghe rõ thì không giống người Phú Xuân. “Bác Hào viết rất dài, gọi là ‘Song Tinh truyện’, em cũng không thuộc hết.”

Song Tinh? Cậu thanh niên nhíu mày. Đây chẳng phải là điều Nguyễn Hữu Kính từng kể khi cậu hỏi anh trai Nguyễn Hữu Hào của ông làm gì khi bị biếm truất về quê?

“Cô bé, em là con nhà ai?” Người thanh niên hỏi khi đưa mắt nhìn quanh. Họ Nguyễn Hữu Hào tuy chẳng có giao tình với Như Yên để đến viếng, nhưng người quen của họ trong triều hẳn cũng có vài người, có thể cô bé này được dắt đến chơi.

“Cha em là Tham chính, tên Nguyễn Hữu Hợp.” Nghe tiếng gọi ‘cô bé’, cô gái nhỏ chau mày ra hiệu không đồng tình. Người thanh niên quay đầu nhìn cô, nụ cười là lạ vẫn không tắt trên môi.

“Ra vậy…” Cậu nhè nhẹ gật đầu. Cái nhíu mày của cô bé càng sâu, trước khi cô chợt nói khẽ.

“Anh trông buồn quá.” Cô bé giản dị nói, ra dấu về phía nụ cười của cậu. Cậu chỉ mỉm cười, cúi mình hái những bông hoa ngoài tầm với của cô, bỏ vào giỏ hoa cô mang bên người. Hoa đầy, nghe tiếng người gọi dưới bến, cô bé vội vàng chào cậu rồi chạy xuống thang đá trơn ướt. Nghe tiếng cản ngăn hốt hoảng vọng lên ồn ào.

Chiếc thuyền con kia đã neo bên kia bờ, bập bềnh trong làn nước nổi. Sương đã mù dòng sông thẫm tối. Trên đỉnh đồi, tiếng chuông chùa vang từng đợt ngân nga.

Sương và khói mù, tan loãng vào nhau đến khó mà phân biệt.

Và cậu nhớ, ngày xuân năm ấy, mưa đã rơi suốt một mùa dài.




Hồi 53: Chính biến
Saturday, October 27, 2012 Author: Trường An

Tháng giêng năm Giáp Tuất, quân Chiêm Thành lại kéo đến bao vây Phan Rang.

Lần này, đã được chuẩn bị trước, Cai đội Chu Kiêm Thắng một mặt thủ chặt thành lũy, một mặt phái người cấp báo cho Bình Khang. Sau khi quân Chiêm Thành rút lui đợt trước, quân Nam Hà đã lập nhiều quân doanh phòng thủ từ Bình Khang đến Phan Rang. Nhưng quân Thượng và dân sở tại bốn phía cùng nổi dậy, một lần nữa quét toàn bộ các phòng tuyến khỏi vùng bờ biển.

Nhân lúc quân Thượng dồn xuống ven biển, Chưởng cơ Trấn thủ Bình Khang Nguyễn Hữu Oai dẫn quân đánh lên Thượng đạo đến cứu viện Phan Rang.

Từ Bình Khang, đoàn quân tượng Nam Hà vòng qua núi phía Tây, men theo dòng Mai Lang định bọc hậu quân Chiêm Thành đang bao vây Phan Rang. Đến hợp lưu của dòng Phan Rang và Ma Bố, quân Nam Hà đụng độ chiến lũy đầu tiên của quân Chiêm Thành phòng thủ tại đây.

Do vội vã vòng qua Thượng đạo, đội pháo của Nam Hà không hùng hậu, lại thiếu hẳn sự hỗ trợ của chiến thuyền, Chưởng cơ Nguyễn Hữu Oai thúc voi xông tới, chia quân công phá lũy. Lũy đất dựng sơ sài với đội quân không thiện chiến nhanh chóng vỡ trận, lính Chiêm kéo nhau chạy tứ tán khỏi lũy. Không vội đuổi theo, Nguyễn Hữu Oai tập hợp người, chỉnh trang đội ngũ rồi mới thận trọng tiến gần Phan Rang. Do sự cẩn thận này của ông, đội quân chỉ tiến được vài dặm đã gặp quân Chiêm Thành dàn trận ngăn trở.

Giữa những đồi đất cát đá nhấp nhô tạo thành một thành lũy tự nhiên tầng tầng lớp lớp, quân Chiêm cũng đã kéo pháo đến, voi trận càng không thiếu đang tung vòi, giương ngà thị uy. Quân Chiêm không có cờ xí, cũng chẳng có trang phục đồng nhất, dùng đủ loại vũ khí hỗn tạp, trong ánh sáng ngày lộ rõ là một đội quân ô hợp. Duy nhất một lá cờ chủ soái được gắn sau bành trên con voi lớn nhất, cũng chỉ là một vuông vải trắng đã nhuốm màu khói chuyển sắc xam xám. Một vòng tròn được vẽ làm ký hiệu trên cờ, có vẻ để người dễ nhận hơn là mang một ý nghĩa biểu thị nào.

Cũng có thể là có, nheo mắt trong ánh nắng gay gắt của mùa khô phương Nam, Nguyễn Hữu Oai nghĩ thầm khi gắng nhìn rõ kẻ dưới lá cờ. Mặc một sắc áo cùng màu với cờ chủ soái kỳ dị nọ, ánh thép xanh biếc trong tay y là thứ thu hút chú ý nhất. Từ khoảng cách xa xôi này, Nguyễn Hữu Oai vẫn có thể thấy rõ ánh sáng xanh loang loáng phản chiếu nắng mặt trời tựa như một vầng dương nho nhỏ rực màu bóng tối. Có điều gì đó trong ánh đao kia khiến người nhìn phát lạnh cả tâm can.

Dừng trước thành lũy của đồi cát nọ, Nguyễn Hữu Oai cho quân dừng chân lập trận. Quân đội Bình Khang thiện chiến, thông thạo chiến trường hơn hẳn toán quân rừng núi ô hợp nọ; nếu dùng trận pháo và tên nỏ uy hiếp cũng có thể khiến Chiêm Thành luống cuống, tùy thời cơ áp sát phá trận. Nghĩ vậy, Nguyễn Hữu Oai gọi các tướng kéo pháo ra trước. Trận chưa dàn xong, đã nghe bên kia đồi cát vang tiếng trống thúc quân.

Không đợi quân Nam Hà đánh đến, đàn voi trận của Chiêm Thành đã xông qua dãy cồn cát, sầm sập lao tới bất chấp đạn pháo bắt đầu nổ vang trời. Thấy vậy, Nguyễn Hữu Oai vội cho quân tản sang hai bên, giương giáo và câu liêm sẵn sàng, bắn pháo cùng tên nỏ để cầm chân, xua đàn voi vào giữa. Trên lưng voi, các võ sĩ Chiêm Thành mình mặc giáp sắt, đầu đội mũ trụ, tay cầm giáo dài cũng bắt đầu cuộc chém giết quân lính nơi mà voi xông thẳng vào. Phía sau, quân Chiêm Thành được đàn voi mở đường hò reo chạy tới đánh xáp lá cà. Quân Nam Hà liền tự động phân chia thành các đội nhỏ, dàn lớp lớp trận pháo, nỏ và đao kiếm hỗ trợ cho nhau. Dưới sự điều động của Nguyễn Hữu Oai, quân Nam Hà lập thành trận Bát quái mà dần vây quân Chiêm Thành vào giữa.

Nguyên Nguyễn Hữu Tiến, cha của Nguyễn Hữu Oai, là con rể của Đào Duy Từ. Đào Duy Từ cả đời lận đận, trung niên mới lập gia đình, có được người con gái duy nhất gả cho Nguyễn Hữu Tiến làm người thừa kế tuyệt học cả đời của vị Ngọa Long Sinh này. Nguyễn Hữu Tiến được tiến cử làm Thuận Nghĩa hầu, từ Cai đội thủy quân thăng dần đến Thống binh của toàn quân đội Nam Hà, uy danh lừng lẫy. Mà trận pháp do Đào Duy Từ lập thành được đem huấn luyện cho quân đội Nam Hà càng thành thạo, lúc này được đem ra sử dụng đối phó với trận trực chiến.

Trận Bát quái của Đào Duy Từ dựa vào Thái cực Lưỡng nghi Bát quái, theo phép của những trận pháp xưa như Thiên tiên, Thái thủy, Hà đồ mà thêm bớt thiên biến vạn hóa. Lúc này, quân Nam Hà chỉ có vài ngàn, liền phân một ngàn quân giữ trận cùng chủ soái, còn lại chia làm mười hai đội, tỳ tướng cầm cờ tiết chỉ huy, quân chia Âm Dương tiếp ứng. Trận để chừa đường cho quân địch đánh thẳng vào giữa, đầu đuôi liền ứng hợp bao vây, tả hữu liên thủ biến hóa để chia nhỏ tiêu diệt địch quân. Từ một trận chia thành mười hai trận, lấy tổng lực của mười hai đội đánh quân phân tán của đối thủ. Từ vuông hóa tròn, từ thẳng hóa cong, lúc như dao cắt, lúc như rắn lượn. Khi quân tượng của Chiêm Thành lọt vào giữa trận, dùng voi trận mà chặn đường, lấy câu liêm móc quản tượng và võ sĩ trên lưng voi ném xuống. Một toán quân khác chặn ở cửa trận ứng ba tiếng trống, ba tiếng chiêng ra đánh chặn quân bộ Chiêm quốc, chia toán quân này thành hai nhánh rẽ, để các đội phía sau vòng lên bao vây. Voi trận mất quản tượng chạy loạn bị lùa về đúng các cửa trận mà quân Chiêm chạy tới, tạo thành một đoàn hỗn độn. Gió thốc cát bay, voi gầm ngựa hí, tên đạn rền tai, bỗng chốc như bão tố nổi trên đất bằng, nghìn bức tường biến hóa như mê cung tạo dựng giữa không.

Một toán quân khác của Chiêm Thành đánh thẳng cửa chính của trận, nơi chủ soái Nguyễn Hữu Oai cùng quân chủ lực đóng giữ. Nhóm người phía trước lao vào loạn đả, nhóm ở phía sau lại dùng voi làm khiên chắn, lắp tên lửa và bộc phá bắn vào đội ngũ địch. Hàng chục quả bộc phá nổ cùng lúc, bức toán quân Nam Hà phải chạy giãn ra. Thừa cơ, quân tượng Chiêm Thành đánh thọc sâu vào. Trên lưng voi, các võ sĩ Chiêm Thành thả xích sắt càn lướt qua hàng quân địch, phá vỡ trận thế. Thấy vậy, Nguyễn Hữu Oai liền cho đánh trống xung trận, thúc voi giáp chiến.

Như chỉ chờ có vậy, con voi xám to lừng lững nọ thình lình xuất hiện trước mắt viên Thống binh Nam Hà. Cùng với ánh xanh chết chóc sáng rực trong nắng.

Đã tháo lá cờ chủ soái, dùng đàn voi đi trước nghi binh che mắt, kẻ mang thanh đao sáng chói mắt kia âm thầm tiến lại voi của chủ tướng địch quân. Y vốn hiểu rõ quân Chiêm Thành khó địch lại nổi quân tướng thiện chiến của Nam Hà, càng không có thời gian huấn luyện trận pháp để đối chọi, liền xua quân đánh thẳng tới câu thời gian và cơ hội. Cơ hội duy nhất để đánh bại đại quân Nam Hà là ở viên tướng nắm giữ toàn cục kia.

Nguyễn Hữu Oai nhận ra ánh đao xanh biếc nhắm thẳng tới sớm một khắc, vừa kịp đưa đao đỡ. Trong lúc ông còn mải nhìn bóng con voi xám giữa đám đông hỗn độn, y đã nhảy khỏi lưng voi, thình lình tấn công. Viên quản tượng của Nguyễn Hữu Oai chỉ kịp kêu một tiếng trước khi rơi xuống đất. Đứng trên cổ voi nơi quản tượng ngồi, y thúc chuôi đao xuống vị trí quản tượng gõ búa điều khiển, khiến con voi lồng lên, đứng dựng trên hai chân sau. Nguyễn Hữu Oai không còn cách nào khác phải nhảy xuống trận địa đang hỗn chiến. Bóng áo trắng xám lướt theo ông không rời.

Chân vừa đặt xuống mặt đất, Nguyễn Hữu Oai vội đưa đại đao lên chống trả. Ở một vị trí chênh vênh, đường đao của y chỉ nhanh chứ không mạnh. Lực đạo nặng ngàn cân trong đường đánh của Nguyễn Hữu Oai bức y lùi lại. Thừa cơ, Nguyễn Hữu Oai tấn công liên tiếp không cho y cơ hội lấy thăng bằng. Bên ngoài, quân hộ vệ của Nguyễn Hữu Oai thấy chủ tướng bị tấn công liền đồng loạt xô tới.

Thấy vậy, y thu đao, nhún mình nhảy khỏi tầm đánh của Nguyễn Hữu Oai, rơi về phía nhóm quân hộ vệ đang chạy đến. Chỉ nghe ‘soạt’ một tiếng, đao như mây quấn gió cuộn, hất toán quân này về sau. Máu phun thành vòi bắn giữa không trung. Gió cát càng vẩn đục ngầu, thốc thẳng lên trời.

Gió cát cuộn xoáy như rồng cuộn, đến bóp nghẹt cả hơi thở, thốc thẳng mặt người. Dường như cả mặt đất lật nghiêng, ném đất đá bay vần giữa hỗn mang mù mịt.

Theo bản năng được rèn luyện trong trăm trận, Nguyễn Hữu Oai kịp đưa đao đỡ sát chiêu như bão tố này. Hổ khẩu tay rúng động, cán đao rung bần bật, nhưng viên tướng Nam Hà vẫn đứng nguyên như đá. Ông gầm lên một tiếng, lao cả người về trước, dùng lực bổ đao vào vai y chưa kịp thu đao về phòng thủ.

Nhưng y cũng không định phòng thủ. Thanh đao vừa bị đánh bật về ngay lập tức vòng ngược trở lại, nhằm ngực Nguyễn Hữu Oai chém tới. Chiêu thức biến hóa kỳ lạ, lúc mạnh lúc nhanh, lúc nặng lúc nhẹ, khiến người chưa bao giờ giao chiến với y như Nguyễn Hữu Oai không thể đối phó.

Miếng hộ tâm trước ngực Nguyễn Hữu Oai vỡ đôi. Đao ông sượt qua vai y, tước đi một mảnh áo.

Nguyễn Hữu Oai vội nhảy lui về sau. Nhưng y bám theo sát rạt, ánh đao xanh phảng phất như ma quỷ lướt thành bóng giữa gió thổi cát bay. Ông nhìn thấy máu đã rỉ đỏ vai y, nhưng y dường như chẳng để ý đến vết thương, đôi mắt tối đen không một tia suy chuyển. Nguyễn Hữu Oai lui hẳn về phía quân đội Nam Hà đang lên tên nỏ, giương súng sẵn sàng, tay đưa lên định ra hiệu bắn hạ y.

Trong khoảnh khắc cuối cùng, đao như tia chớp rạch giữa trời quang, cắt qua khoảng trống mà lao đến ngực Nguyễn Hữu Oai.

Quả thật, đao lao đến, rời khỏi tay y mà lao đến. Thấy động tác của Nguyễn Hữu Oai, biết không thể chần chừ, y vận lực ném thanh đao phóng theo ông. Vẫn giữ nguyên sức chém hung mãnh, đao xé gió bay tới. Không đề phòng, Nguyễn Hữu Oai nghe ‘roảng’ một tiếng, miếng hộ tâm cuối cùng vỡ nát, đao đâm vào ngực viên tướng Nam Hà. Bàn tay y ngay sau đó chụp lấy chuôi đao, Nguyễn Hữu Oai vội ngã hẳn ra sau, nghe lưỡi thép lạnh lướt qua da thịt thành đường.

Thấy hai người đã tách khỏi cuộc hỗn chiến, quân Nam Hà không chần chừ nổ súng. Y vội lăn mình trên đất tránh tên đạn bắn đến, thoát ra khỏi tầm bắn. Những quân lính bên ngoài thấy súng nổ liền chạy tới đỡ cho y, phóng gươm giáo rào rào đáp trả. Lúc này, quân Chiêm Thành gần như bị đánh tản hết, số còn lại đã bỏ chạy. Thấy Nguyễn Hữu Oai đã bị thương, đánh tiếp không lợi, y liền nhảy lên con voi xám, gọi đánh chiêng rút quân.

Nguyễn Hữu Oai không chần chừ mà lệnh cho quân truy đuổi toán binh Chiêm Thành. Đến bờ sông Phan Rang, hai nhóm gặp quân bao vây Phan Rang rút về, quân Nam Hà lui lại chờ đại quân tiếp ứng. Bên kia, Chu Kiêm Thắng thấy quân Chiêm rút lui liền mở cổng lũy, đưa quân đuổi theo ý muốn hỗ trợ cho đại quân. Thấy hai mũi giáp công của Nam Hà, Chế Vinh cũng đã bị thương, y cho quân Chiêm Thành luồn vào rừng, lui hẳn về Bào Lạc. Sợ bị phục kích trong rừng, quân Nam Hà liền dừng bước.

“Tướng quân!” Quân Chiêm đã rút, Cai đội Chu Kiêm Thắng cho đóng quân ngoài Phan Rang đợi đại binh của Nguyễn Hữu Oai. Đoàn quân này đến chậm. Thấy voi cắm cờ xí chủ soái của Nguyễn Hữu Oai, Chu Kiêm Thắng hồ hởi gọi. Nhưng trên bành voi kia, Nguyễn Hữu Oai không đáp lời. Khi lại gần, Chu Kiêm Thắng thấy ông ngả người trên bành, áo khoác đỏ che ngang ngực.

“Chưởng cơ bị thương.” Một viên tùy tướng của Nguyễn Hữu Oai kề tai Chu Kiêm Thắng nói khẽ. Đang trong lúc chiến trận cam go, không tiện để tình hình thương tích của chủ soái lộ ra ngoài. Mặt biến sắc, Chu Kiêm Thắng vội đón tiếp đoàn người của Nguyễn Hữu Oai vào lũy Phan Rang, gọi người chẩn trị.

Vết thương dài sâu hoắm, tuy không phạm vào phủ tạng nhưng mất nhiều máu, Nguyễn Hữu Oai lại liên tục vận lực chống trả đòn đánh của đối thủ, khi thầy thuốc đến, viên Thống binh chỉ còn thở thoi thóp, mặt mày tái nhợt. Mọi phương pháp cứu chữa chỉ kéo dài được sự sống của ông thêm vài ngày.

Tháng giêng năm Giáp Tuất, Phan Rang được giải vây, Trấn thủ Bình Khang, Chưởng cơ Phò mã Nguyễn Hữu Oai qua đời tại trận tiền.

Đường Thượng đạo đã bị quân Nam Hà phá vỡ, Chế Vinh cho người rút về củng cố lại phòng tuyến ngừa khi Nam Hà đánh thẳng đến phương Nam. Qua một trận đại chiến, thương tổn không ít, quân Chiêm Thành liền đóng tại Bào Lạc nghe ngóng tình hình.

Cai đội Chu Kiêm Thắng không vội báo tin cái chết của Nguyễn Hữu Oai ra ngoài. Trong lúc đó, lấy công làm thủ, tướng của Nguyễn Hữu Oai là Lưu thủ Nhuận và các Cai cơ Tống Tuân, Nguyễn Thành đem hết đại quân đánh về phương Nam.

Để dò thử tình hình, A Ban thống suất một cánh quân đánh lên lũy Ô Liêm. Đại quân của dinh Bình Khang tức thời phản ứng, đánh toán quân này lùi về Phố Châm. Thấy bất lợi, quân Chiêm lui khỏi địa phận Phan Rang, Oc-nha That đưa quân về thủ Parik, A Ban cùng Chế Vinh lùi về Thượng Dã. Cùng với lực lượng người Thượng ở nơi địa giới tiếp giáp Chân Lạp, quân Chiêm lại thủ chặt rừng núi phản công. Lưu thủ Nhuận đành phải lui quân. Không thể cầm cự lâu, dinh Bình Khang cáo cấp về triều.

Tin khẩn về đến Phú Xuân vào một chiều mưa mù mịt. Cái lạnh của gió Bắc khiến những người đứng trong chính điện cũng cảm thấy như đông cứng cả người.

Những quan tướng trọng thần bị triệu tập đến triều đình, có người không kịp mang cả mão. Vị chúa đã chờ họ trong chính điện, quai hàm hơi bạnh ra khi môi mím chặt, che giấu cơn giận bùng cháy trong mắt. Chỉ có viên Tiểu sai bên cạnh ngài ta bước ra thông báo hung tin đến từ phương Nam. Cái tin khiến ngay cả người bình tĩnh nhất cũng cảm thấy sống lưng lạnh toát.

Vị chúa đưa mắt nhìn hai hàng quan tướng với những khuôn mặt biểu lộ đủ loại xúc cảm trong chính điện. Chiều mưa tối lù mù, đèn trong chính điện thắp vội nơi sáng chỗ mờ, chập chờn trong gió đưa những cái bóng lay động bốn phía. Chỉ có những cái bóng lay động khi không ai lên tiếng ngay sau khi Kỳ ngừng lời. Không ai vội vã lên tiếng hay không ai biết phải phản ứng ra sao.

“Lễ Thành hầu!” Chúa Nguyễn Phúc Chu gọi, mắt không rời khỏi bóng tối lơ lửng giữa đại điện. Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Kính liền rời khỏi hàng, bước lên trước nhận mệnh. Vị chúa gằn giọng, nói mà không nhìn ai ngoài viên tướng trước mặt. “Khanh lãnh quân đến Bình Thuận, toàn quyền xử trí!”

“Tiêu diệt chúng, không chừa lại kẻ nào!” Ngón tay bấu chặt thành ngai nổi gân xanh, chúa Nguyễn Phúc Chu nghiêng người về trước. Gằn từng tiếng trong cổ, thanh âm lạnh như băng, tiếng nói của vị chúa khiến nhiều kẻ phải giật mình ngẩng nhìn. “Nếu phải đánh sang Chân Lạp, nếu Chân Lạp bao che cho chúng, thì cứ đánh thẳng đến Vũng Long! Bảo với Đại vương Chân Lạp, chừa một tấc đất cho chúng ẩn náu thì cứ đem đầu đến đây tạ tội!”

Cai cơ Nguyễn Hữu Kính đưa mắt nhìn lên, rồi chắp tay cúi đầu, rành rõ nói từng tiếng tuân mệnh. Vị chúa gọi thêm các tùy tướng, văn chức đi làm thị trận cho Nguyễn Hữu Kính. Các quan tướng xung quanh không ai xen được vào lời ngài ta.

Tình thế đã đến nước này, không phải lúc để kèn cựa hay suy tính. Cái tin vị trọng tướng của triều đình qua đời khiến tâm trí mọi kẻ hoang mang hỗn loạn, không ai phản ứng lại trước những mệnh lệnh kiên quyết lạnh lùng của vị chúa trẻ. Ngài ta vẫn bình tĩnh, và mọi mệnh lệnh sát phạt đều xác đáng đến lạnh lùng.

Chân Lạp, ngài ta nói, đôi mắt nhìn lướt qua hai hàng quan tướng như thể thách thức trong khinh miệt. Từ Phố Châm của dân Thượng Đê Ba Vành rút về Thượng Dã, nhóm người này đã lộ rõ mối liên hệ với đất nước nằm bên Chiêm quốc. Chân Lạp, sau khi thoát khỏi sự trừng phạt của cuộc chiến lần trước, đã âm thầm phản công. Nhị vương Nặc Nộn chết ngay sau khi chúa Nghĩa qua đời, Đại vương Nặc Thu thâu tóm Thủy Chân Lạp trở về, và các cuộc nổi dậy của Chiêm Thành ngay sau đó, lần sau lớn hơn lần trước. Nhóm quý tộc Chiêm Thành bỏ chạy về Chân Lạp, đổi lại là vùng đất bảo hộ cho quân phiến loạn bây giờ.

Bởi muôn vàn suy tính và kèn cựa, bởi sự bất tuân và phản đối, cuộc tấn công Chân Lạp trước đó đã rơi vào thảm bại trong thế thắng. Bây giờ, các người thấy rõ hậu quả ấy chưa?

Bởi muôn vàn suy tính và kèn cựa, bè phái cùng lũng đoạn, mọi nơi mọi kẻ bị phân chia, chỉ vơ vét làm lợi cho mình. Để rồi, chỉ cần một cơn gió nhẹ thổi qua cũng đủ làm lung lay tận gốc rễ. Các người đã thấy rõ kết quả này chưa?

Câu hỏi ấy như khí lạnh đè nặng trên chính điện, đâm thấu tâm can những quan tướng câm lặng, khiến không ai có thể cất lời. Những quan tướng bước khỏi hàng theo tiếng gọi của vị chúa, sang sảng đáp lời, cúi đầu tuân lệnh. Không ai phản đối ngay cả khi dù chỉ là một Cai cơ, Nguyễn Hữu Kính vẫn có toàn quyền điều động quân đội phía Nam. Không ai nhắc lại chuyện của Triều Văn hầu hay Nguyễn Hữu Hào trước đó. Khi trong triều đình này, các lão tướng đã quá già và lớp tướng trẻ chưa kịp trưởng thành để đối phó với một trọng trách sống còn.

Sau khi phân phối, điều động quân đội về phương Nam, chúa Nguyễn Phúc Chu ngồi xuống ngai vàng, im lặng một lúc rồi cất tiếng, giọng nói có mấy phần dịu lại.

“Ta vừa mới ban công phần hương hỏa cho dòng dõi Thuận Nghĩa, Hữu Oai đã vô phước không hưởng được. Tướng quân da ngựa bọc thây nơi chiến tuyến, muôn đời vang danh võ đức. Đợi đưa hài cốt tướng quân về khâm liệm sẽ truy tặng thêm.” Nhè nhẹ gật đầu, vị chúa thở dài. Đôi mắt ngài ta đã sáng quắc ngay sau đó. “Tuy không còn tranh chấp với Trịnh, tình hình phương Nam vốn không yên. Chân Lạp, Chiêm Thành sớm đầu tối đánh, lòng dạ khó lường. Đại Thành dã tâm khôn cùng, chẳng cam tâm dừng lại mà không lấn tới. Sau việc ở Đại Thành vừa rồi, Tây dương luẩn quẩn ngoài biển tranh chiếm các đảo làm căn cứ thừa cơ đánh trộm thương thuyền. Ta không thể lơ là võ bị, an hưởng thái bình mà quên nguy cơ rình rập. Mấy năm nay tình hình phức tạp, ta chưa thể duyệt tuyển quân đội, củng cố quốc phòng, coi sóc triều chính tường tận. Tiên chúa năm xưa gọi lính bốn vạn, uy thế khiếp sợ lân bang, vốn là đã lường trước đến ngày này. Quốc phòng là an nguy sống còn mà cũng là bộ mặt của quốc gia; lơ là thì khiến người khinh nhờn, yếu kém thì để cho người bắt nạt, nhu nhược thì bị người uy hiếp. Tướng lĩnh cũng như quân sĩ bỏ mạng ở trận tiền không phải là vật hy sinh cho kẻ kê cao gối ngủ kĩ trong yên ấm. Ta nay theo phép xưa, chuẩn bị duyệt tuyển quân đội, thủy bộ tượng pháo đều phải sẵn sàng. Các khanh mau về chuẩn bị!”

“Đã năm năm nay không mở khoa thi, quan lại trong các ty Xá sai, Lệnh sử, Tướng thần cũng đều cần phải bổ sung thêm để tiện làm việc.” Sau khi các quan lãnh mệnh chuẩn bị cho cuộc duyệt tuyển lui xuống, vị chúa nói tiếp. “Lần này mở cuộc thi lớn, kêu gọi toàn bộ học trò trong vùng ra giúp nước, dùng người tài nào việc nấy chứ không nệ xuất thân. Lệnh sử ty mau bàn thảo công văn, pháp chế mở thí trường!”

“Nhà có yên thì nước mới vững, người có tâm thì mới được mạnh giàu. Nay chúng ta đến đây mới được vài chục năm, ngồi còn chưa yên chỗ mà đã manh nha náo loạn, là nghĩ thế nào? Nhìn lại thì ta có vững chắc bằng phương Bắc, mạnh mẽ như Đại Thành, giàu có như Chân Lạp, Ai Lao? Chỉ vừa có chút của ăn của để mà người đã nhao nhao cấu xé nhau giành giật, để đến lúc bị người ngoài đánh cho mới nhận ra sao? Chẳng qua dựa vào ân đức thần võ của tiền nhân, tạo được mấy chiến thắng với quân Trịnh cũng chẳng hơn ai, đã tưởng mình là đệ nhất thiên hạ mà không biết nhìn quanh xem mình ở vị trí nào. Nước mất không phải vì thời thế mà chính vì đám người suy bại, ích kỷ, hoang tưởng toàn chuyện hão huyền. Các người cùng ta đều biết tự hào vì ân đức cha ông, thì tưởng cũng nên biết không làm nhục nhã cha ông mới phải!” Chầm chậm nói từng tiếng sắc lạnh rành rõ vang trong chính điện, vị chúa trẻ đứng lên, cái bóng đổ dài trên lối giữa điện ra đến cửa. Ngược sáng, chỉ có đôi mắt ngài ta ánh lên ánh sắc dị kỳ. “Trước là an định biên cương, sau là thu phục ngoại quốc, muôn kẻ một lòng, trăm sông về biển, cho người thấy Việt Nam quốc[1] này hùng cường vững mạnh đi!”

 

 

 

Chú thích:

[1] Hai chữ “Việt Nam” vốn đã được chúa Nguyễn Phúc Chu dùng trong nhiều bài thơ như Hà Trung yên vũ: “Việt Nam diệc hữu Tiêu Tương cảnh”, hay trong Ải Lĩnh xuân vân: “Việt Nam xung yếu thử sơn điên”. Có lẽ đây là thói quen của ông gọi phần đất của họ Nguyễn lúc này.




Hồi 52: Vận mệnh
Wednesday, October 24, 2012 Author: Trường An

“Kỷ Mão, năm thứ hai đời chúa Thượng, mùa xuân, vợ lẽ cố công tử Phúc Kỳ là Tống Thị vào yết kiến, dâng xâu chuỗi trăm hoa. Chúa Thượng cho vào cung phủ đi lại, quần thần can không nghe.

“Tân Tỵ, năm thứ sáu, mùa hạ, hạn hán lớn, người chết đói vô số. Quý Mùi, năm thứ tám, Thái bảo Trịnh Tạc đưa vua Lê đến đánh Bố Chính, giết chết tướng thủ, xâm phạm Nhật Lệ. Trời nắng nóng, quân Trịnh ốm chết nhiều nên phải lui quân. Giáp Thân, năm thứ chín, Ô Lan đánh phá cửa Eo, Dũng Lễ hầu phá được.

“Mậu Tý, năm thứ mười ba, tháng giêng, Tống Thị mật mưu đưa quân Trịnh đánh đến. Nguyên Tống Thị đi lại trong cung, chèn ép người ngoài, vơ vét của cải chất đầy như núi. Trung Thành hầu đe dọa giết chết, Tống Thị liền đưa người ra Bắc gặp cha là Tống Phúc Thông, liên lạc với chúa Trịnh Tráng, nguyện đem gia tài giúp quân. Được tin, chúa Trịnh sai Trịnh Đào lãnh binh tấn công. Mười vạn quân Trịnh đánh đến, Nhật Lệ vỡ, tướng giữ Quảng Bình tử trận, chỉ có Trương Phúc Phấn tử thủ lũy Trường Dục ngăn Trịnh ở Bố Chính. Chúa Thượng thân chinh đi đánh, giữa đường bệnh nặng, sai Thế tử Dũng Lễ hầu lãnh binh. Dũng Lễ hầu phá tan quân Trịnh, bắt được ba vạn tù binh. Chúa Thượng rút quân về, bệnh mất trên thuyền ở phá Tam Giang.

“Tháng năm, chúa Trịnh sai Trịnh Đào lãnh một vạn binh, thêm năm ngàn binh mở Hữu trấn quân, đóng tại Bắc Bố Chính. Mùa thu, Triều Văn hầu bị gọi khỏi Quảng Bình, đưa Vân Long hầu Nguyễn Phúc Tráng thay thế. Tháng mười một, nhân lúc vua Lê băng, sai sứ ra Đông Đô hòa hoãn với chúa Trịnh.

“Canh Dần, năm thứ hai chúa Hiền, Chiêu Vũ hầu Nguyễn Hữu Dật xích mích với Vân Long hầu, bị tố cáo tống giam vào ngục. Nhâm Thìn, năm thứ tư, chúa sai Nguyễn Phúc Kiều giết Thị Thừa. Quý Tỵ, năm thứ năm, Chiêm Thành đánh Phú Yên. Đẩy lui Chiêm Thành, lấy đất đến Phan Rang lập dinh Thái Khang. Mùa hạ, tháng sáu, quần thần dâng hiệu tôn chúa làm Thái phó quốc công.

“Giáp Ngọ, năm thứ sáu, mùa hạ, Trung Thành hầu cùng Tống Thị nổi loạn bị bắt giam, chết trong ngục.

“Ất Mùi, năm thứ bảy, chúa lấy danh nghĩa ‘Phù Lê diệt Trịnh’, phát lệnh đánh lên phương Bắc.”

Ngón tay trắng nõn dừng lại trên hàng chữ giữa trang giấy dài. Cô gái đang thì thầm đọc bất chợt ngừng lời. Bên song, trăng chiếu vào ánh sáng nhàn nhạt, lớp bụi mờ lưu chuyển giữa ánh sáng từ ngọn nến đỏ. Phòng giam trong khu Thị chính dành cho quan tướng nên gọn gàng sạch sẽ, chỉ trống trải giản đơn. Gian nhà trong được ngăn với bên ngoài bằng song gỗ. Ngồi trên giường, cô gái áo đỏ cúi đầu nhìn trang giấy, nhè nhẹ cau mày. Rồi nàng lại mỉm cười.

“Chuyện năm Mậu Tý, Tống Thị mưu với quân Trịnh, sao người bây giờ lại biết được nhỉ? Hẳn là bà ấy tự khai trong ngục rồi.” Xếp cuốn sổ lại, nàng ngẩng đầu nhìn người bên kia song cửa, nụ cười vẫn vương bên khóe môi. “Hay là việc đơn giản hơn thế, Tống Thị thật ra không làm gì cả, chẳng qua chỉ là một phụ nữ tham lam một chút, giảo hoạt một chút. Trung Thành hầu dựa vào Tống Thị, làm ầm lên mà hạ uy tín chúa Thượng. Đến khi Trung Thành hầu mưu phản bị bắt, mọi việc tiếp theo mới đưa đến Tống Thị nhằm ‘đánh’ lại Trung Thành hầu. Vậy là bao nhiêu tội lỗi, bà ấy gánh hết, kể cả việc đưa quân Trịnh đánh vào?

“Ta thật chẳng tin có vua chúa nào có thể khởi binh vì một người đàn bà, hoặc có thể thay đổi vì một người đàn bà. Trung Thành hầu kia cũng thế thôi.” Ngả người sang, ngả đầu lên tay chống trên thành giường, nàng đưa mắt về phía ánh trăng, nhè nhẹ cười. “Bà ấy ngốc quá, tưởng điều khiển được người mà cuối cùng hóa ra cũng chỉ là một con cờ. Là con cờ của cha mình, rồi lại tiếp tục hóa thành con cờ của bọn đàn ông.”

“Tiên sinh sau này định viết thế nào, Bảng Trung hầu?” Liếc nhìn người bên kia cửa, Như Yên nheo mắt. “Cuộc nổi loạn của con trai Diễn quận công, lại có bóng người đàn bà?”

“Có lẽ không cần phải viết.” Gật đầu, nàng lại tự trả lời. “Người kia là một truyền kỳ, cũng là một câu chuyện nâng cao danh thế nhà chúa. Chuyện anh em giết nhau hay ho gì mà kể lể, công tử của Diễn quận công nổi loạn, thế là đủ rồi.”

“Chúa công bảo, ghi tờ khai này cho các quan xem, không cần phải chi tiết quá, chỉ nói động cơ và quá trình là được.” Hạ mắt, Bảng Trung hầu Nguyễn Khoa Chiêm nhìn xuống trang giấy trắng, nhẹ giọng nói.

Là nữ nhân trong vương tộc, lại là phu nhân của một trọng thần, nàng không phải đến công đường để bị tra hỏi. Vị chúa sai đến một viên quan ghi tờ khai lại là người quen cũ của nàng.

Cuộc tra xét trên chính điện đã nhanh chóng được dàn xếp, khi Nguyễn Phúc Huệ bị những nhân chứng, vật chứng đưa tới làm cho im lặng. Vị chúa sai đưa người đến Xá sai cho các quan làm án, riêng nàng được đưa vào nhà giam cho nữ phạm. Vì đã ‘thành khẩn khai báo’, nàng không phải chịu thêm tra hỏi. Bây giờ, Nguyễn Khoa Chiêm hình như cũng đang lúng túng không biết phải đối xử với nàng thế nào.

“Nguyên nhân?” Khẽ cau mày, Như Yên nghiêng đầu, tựa cằm lên ngón tay. “Ta chỉ muốn phá chơi cho thỏa, được không? Gia tộc này hãm hại nhà ta, thì ta quấy phá lại. Công tử Huệ có thành công hay không, có trở thành gì cũng được, ta chỉ cần tạo nội loạn trong đất này là được rồi.

“Nên ta cũng đâu cần phải lao tâm khổ tứ lắm.” Cất tiếng cười thanh thanh, nàng liếc mắt qua vẻ mặt của viên quan bên kia song. “Tiền của, vật chất, lực lượng ta đều không thiếu, khi cần thì dùng thôi. Chúa công hẳn là tự đoán được.”

Nghe vậy, Nguyễn Khoa Chiêm chớp mắt, nhưng không hỏi thêm. Đêm đã khuya, viên quan chỉ nói vài câu qua loa rồi rời khỏi nhà giam. Khi cửa mở, gió lạnh ùa vào, Như Yên quấn chặt cái chăn lớn quanh mình, khẽ run vì lạnh. Nhưng nàng vẫn để cửa sổ bên kia mở, không có ý định đóng lại.

Ánh trăng suông vẫn đang đổ xuống, sương nhòa nhạt phả vào từng đợt theo gió cuộn. Trong không khí đã phảng phất mùi hoa. Đêm đầu xuân tĩnh lặng, chỉ nghe tiếng phần phật của ngọn cờ bay trên mái ngói. Có tiếng hò não nề từ một chiếc thuyền muộn bên sông nào vọng lại, bị gió thổi tản mát thành những thanh âm gần gần xa xa.

Nàng đưa bàn tay trước mặt, nhìn những ngón tay mảnh dẻ trắng nhợt nhạt trong đêm. Ánh sáng soi qua những kẽ ngón tay, gần như khiến chúng trở thành trong suốt. Ánh sáng qua những kẽ ngón tay tỏa như một đóa hoa nở giữa thinh không.

Nàng mỉm cười.

Bình rượu nhỏ vẫn để trên bàn. Thân bình sứ trắng nổi rõ những vân gờ mỏng trong ánh trăng. Nguyễn Khoa Chiêm đã đưa nó đến cùng với bản khai và những cuốn sách nàng yêu cầu.

Đọc lại những gì đã được ghi thưở trước, âu cũng là học đôi thứ cho hiện tại.

Nàng đứng dậy, tiến về phía cửa sổ. Áo đỏ trong ánh sáng chập chờn lay động mềm như cánh hoa, như kết thành bằng máu đỏ. Trăng đã khuyết, nhưng vẫn vằng vặc sáng giữa trời.

Không có một thanh âm, nhưng nhờ ánh trăng, nàng dễ dàng nhận thấy bóng người trước cửa sổ. Gian nhà ở giữa một khoảng đất trống, trồng vài lùm cây lấy bóng che nắng. Quân lính vẫn còn tụ tập ngoài cửa lớn, dường như không để ý đến người đang ở trong vườn.

Người có thể đi lại tự do mọi nơi trên đất này, vốn chỉ có một.

Nàng nhìn cậu ta, đôi mắt không lộ chút biểu cảm, không có cả chút ngạc nhiên. Cậu ta nhìn nàng, bằng đôi mắt chan đầy ánh trăng và bóng tối dường như bóng hình của quá khứ. Đôi mắt không buồn chẳng vui, thậm chí chẳng lạnh lùng, chỉ điềm tĩnh. Như một mặt sông ngẩng nhìn bầu trời cùng thế giới đổi thay.

“Phúc Huệ đã khai nhận.” Không thay đổi thái độ, không bước lại gần, vị chúa trẻ cất tiếng. Giọng nói vừa đủ lọt giữa khoảng đất hẹp. Có những người có khả năng điều chỉnh cả độ vang của giọng mình. “Triều thần quyết định, xử tử.”

“Có phải cô cô đã nói với anh ta rằng nếu cháu thua thì cần có một người nhận lãnh trách nhiệm thay thế? Cô cô đã nói, rằng anh ta cần phải làm như vậy?” Gió thổi qua xao xác lùm cây, vài âm tiết trong giọng Nguyễn Phúc Chu bất chợt chao đi. Cậu mím môi. “Cô cô không chỉ thả Linh lão đe dọa triều đình, còn dùng cả bọn họ đe dọa ta?”

Như Yên chỉ im lặng nhìn người thanh niên, không có ý định trả lời. Có lẽ phải mà cũng có lẽ không, nàng có thể trả lời. Nàng không chọn Nguyễn Phúc Huệ vì ngẫu nhiên, gã cũng không có gan nổi loạn nếu chẳng có ý. Nhưng cũng có thể là không. Một bước chân cũng đủ để dấn vào vực thẳm hay lui lại. Đến lúc này, có thể nàng cũng như gã chỉ tìm cách biện minh cho mình, khó mà phân rõ bước chân cuối cùng ấy là do ai.

“Bà Tranh sai sao? Hay thậm chí Oc-nha That kia sai sao? Ngay cả Linh lão kia cũng làm sai sao?” Thay vì thế, nàng mỉm cười. “Hay chỉ vì đó là thân thuộc, cháu mới cảm thấy đau lòng không nỡ?”

“Ngày đầu tiên cháu đến tìm ta, chúng ta đã nói chuyện gì nhỉ? À, chia ba thiên hạ.” Ngẩng nhìn trăng, Như Yên rời mắt khỏi gương mặt người thanh niên trẻ, nói như với cái bóng qua trời. “Lúc ấy, cháu nói đủ phương cách để an thiên hạ. Nhưng chúng ta lại quên mất một điều: Thiên hạ loạn hay định tại lòng người, không phải vì kẻ nào thắng. Thiên hạ sở dĩ chia ba, cũng chỉ bởi lòng người phân chia. Thiên hạ sở dĩ yên định, cũng chỉ bởi lòng người đã không còn sóng dậy. Lưu Thục sở dĩ sống còn là vì còn kẻ hướng về, Đông Ngô sở dĩ tồn tại là vì còn người chống đỡ. Thiên hạ chia ba hay lòng người chia ba? Tào không đánh được Lưu, Tôn đâu phải trong một trận Xích Bích, biết đâu lại như Tần Thủy Hoàng thống nhất được đúng một đời lại bị triệt tiêu? Lúc ấy, chúng ta chỉ bày binh trên giấy, vốn chẳng có chút thực tế nào.

“Chúng ta ở nơi này, trong nhà thì giết nhau để trừ nội loạn, bên ngoài hết đánh Đông lại đánh Tây để chế phục người, nghĩ ra thì chẳng phải do ‘không kẻ nào sai’ đấy sao? Đã là lòng người thì làm gì có đúng sai? Cháu có than khóc cạn máu khô hầu, thậm chí có đem thân ra cho voi giày ngựa xé, tôn kẻ nào lên ngôi thay thế, cũng chẳng thay đổi được gì cả.

“Ngày xưa, ta cũng đã từng khờ dại cho rằng đem bản thân ra trả là đủ. Hóa ra, chỉ càng làm càng sai.” Ánh mắt phiêu hốt theo bóng mây rải rác hắt ánh trăng trên nền trời thẫm, nàng cười với mình. “Hiểu được trời mới hiểu được người, chẳng qua cũng là nói chỉ bọn người ngông cuồng mới tưởng quyền lực thay đổi được cả thế gian. Chỉ có thế gian làm thay đổi quyền lực. Thuận theo trời, thuận theo người rồi mới điều khiển được người, chạm tới được trời.”

“Ngay cả vận mệnh mình còn không nắm được, vậy mà có thể nói được chuyện của trời?” Khóe môi chợt nhếch, chẳng rõ là cười hay thở dài, Nguyễn Phúc Chu lắc đầu, nhắc lại câu nói ngày xưa của nàng. Như Yên cười khẽ.

“Người ta có quyền sử dụng vận mệnh của mình. Nhưng mà cháu, tất cả vua chúa trên thế gian này, đều không có quyền đối với vận mệnh. Như vậy chẳng hiểu ai mới là kẻ đáng tiếc?” Nàng nói, thấy bóng lá lay động trong mắt người thanh niên, liền bật cười. “Ta trở về đây là ý muốn của ta, chẳng liên quan đến cháu. Cháu đã mất gì đâu mà bày bộ mặt ấy với ta?”

Không trả lời, vị chúa trẻ im lặng tiến đến bên cửa sổ, dừng lại trước hàng hiên. Giống thật, Như Yên nghĩ với cái giật mình âm thầm. Cả dáng đi, cả cánh tay chắp sau lưng, cả cái nghiêng đầu khi nhìn chăm chú vào một điểm. Cậu ta đã cao hơn nàng, đứng che khuất cả bóng trăng.

“Vậy thì cứ để ta nhận lãnh, buông bỏ vận mệnh vốn đã không giữ được.” Nguyễn Phúc Chu chợt cười. Nụ cười của cậu mất đi vẻ tươi sáng ngày trước, nhưng vẫn chẳng buồn bã hay vui sướng, vẫn chỉ một vẻ điềm tĩnh lắng sâu trong đáy mắt, an nhiên đến bình thản trên khuôn mặt. “Cô cô vốn cũng không hiểu người, không hiểu ta. Thứ ta muốn xây dựng không phải là một chỗ ngồi. Cơ nghiệp trăm năm không xoay quanh một chỗ ngồi.

Chi diệp kham tồi lạc, Căn bản dã nan dao. Lòng người hay lòng trời, chẳng qua cũng chỉ ở trong tay người.” Bắt lấy chiếc lá rụng bay qua, Nguyễn Phúc Chu nói với nụ cười ngập trong bóng tối. “Cô cô, ta là thiên tử, vận mệnh của người, của trăm năm, chẳng phải đều có thể tạo ra sao? Giang sơn chẳng phải là vì thiên tử mà tạo ra sao? Cô cô, bọn họ, bọn chúng, tất cả đều để tạo thành vận mệnh của thiên tử thôi, phải không?”

Cô cô, xem giang sơn của ta không?

Bóng tối đổ nghiêng cùng ánh trăng buốt lạnh chói thẳng mắt khiến y phải cau mày. Mắt lòa đi trong khoảnh khắc khiến y mất một lúc mới nhận ra cơn lạnh vẫn ẩn ẩn trong lồng ngực, trán đã đổ mồ hôi. Cơn lạnh này không hề liên quan đến những tác dụng phụ của đao pháp bây giờ thi thoảng mới trở về.

Đưa tay che ngang mắt, y chống tay kia ngồi lên. Doanh trại lập giữa đồng, tướng doanh chỉ có mấy bức trướng bằng vải dày, nghe gió cát đập rào rào vào bốn bên. Một bên trướng bị đẩy ra, để ánh trăng lọt vào, đánh thức giấc ngủ chập chờn mệt mỏi của y. Có lẽ vì ánh trăng, y đã mơ thấy giấc mơ kỳ lạ ấy.

Người thanh niên mặc áo tía đứng chắn ánh trăng, sắc diện mờ trong bóng tối, không hiểu sao y lại cảm thấy rõ rằng cậu ta đang mỉm cười. Trước mặt cậu ta, sau chấn song, là bóng dáng vô cùng quen thuộc. Khung cảnh có vẻ thực một cách kỳ dị, nhưng cũng có vẻ hư ảo như thể được lọc qua một màn sương. Y không còn nhớ những gì đã nghe thấy trong giấc mơ, điều đã khiến tâm can y lạnh toát – như thể sợ hãi.

Có thể, đúng là y sợ hãi. Dù không hiện diện khi tỉnh thức, những lo lắng vẫn trở về trong mộng mị, như một bóng đen đầy đe dọa chực chờ. Y nắm bàn tay ươn ướt, ngẩng đầu nhìn trăng nhợt nhạt đầu non xa, nghe tiếng gáy của một con gà rừng báo đêm gần qua, trấn tĩnh dần.

Đã qua nửa cuối của tháng giêng, nhìn dáng hình mỏng mảnh của trăng, y thầm nghĩ. Đã vào thời điểm quyết định của trận chiến này – Và mọi việc đã đột ngột rơi vào một khúc quanh y không hề mong muốn.

Những ngày tháng giêng đến cùng với thông tin không hay dồn dập từ phương Bắc. Cuộc mưu loạn của Nguyễn Phúc Huệ thất bại, Linh lão phải trốn vào rừng. Và nhà vua Bà Tranh qua đời tại Phú Xuân - Một cái chết đầy uẩn khúc, và dù chúa Nam Hà đã ban lễ hậu táng, không ai nơi này tin đó là trùng hợp.

Âu rằng y có thể dựa vào lòng căm phẫn ấy để khởi binh. Nhưng sự giận dữ vì cái chết của một người cũng có thể nguội tắt nhanh như khi bùng phát, y đủ quen thuộc với chiến tranh để hiểu điều đó. Không được nuôi dưỡng cẩn thận bằng chiến thắng hay thù hận mới chất chồng, người ta sẽ rất nhanh nghĩ tới điều khác – ví dụ như, ai sẽ là kẻ kế ngôi vua Bà Tranh? Chỉ có Kế Bà Tử còn trong tay Nam Hà.

Nên y không thể chậm trễ hoãn binh. Chỉ có lúc này, nỗi căm giận vì tiên vương mới đủ sức đưa đoàn quân này vượt qua lá chắn Kế Bà Tử. Nhưng không còn sự hậu thuẫn ở phương Bắc, đoàn quân này có thể tiến đến đâu? Y không đủ ngây thơ để cho rằng toán người từ rừng núi có thể vượt qua pháo và thuyền chiến, đoàn binh không chủ có thể chiến thắng lính triều đình. Cần có thời gian để xây dựng, bổ khuyết những thiếu sót này, nhưng y lại không có.

Mọi việc đã đột ngột đổ vỡ, vì Như Yên – chỉ nội cái tên này đã khiến thái dương y giật nhẹ. Chiêm Dao Luật đã che giấu y việc nàng ta đưa Như Yên vào mạng lưới của mình, vì một lý do nào thì chỉ nàng ta mới hiểu. Bây giờ, Chiêm Dao Luật đã bỏ đi mất tích, Linh lão loay hoay trong rừng, và Như Yên đã ở trong nhà ngục tại Phú Xuân. Y không có thói hoảng loạn trước sự biến đột ngột xảy ra, chỉ lo lắng đối phó và suy tính. Y cũng không biết mình có cảm xúc gì trước sự việc này – hay nói đúng hơn, là vận mệnh của cô gái hết lần này đến lần khác đối địch y.

Có thể nàng sẽ chẳng bị hại khi làm việc cho chúa. Nhưng cũng có thể, chính nàng sẽ chọn con đường bất lợi cho mình. Y đã nhìn thấy bóng tối trong mắt nàng thưở trước, rồi lại đâm ra hoang mang.

Giấc mơ, trong những bận rộn rối bời, đem theo nỗi sợ hãi lạnh ngắt, hóa ra lại chẳng phải vì chiến sự.

Y hiểu rõ, nàng chọn con đường này vì y. Đáng lẽ ngày ấy nàng đã có thể cao bay xa chạy về phương Nam, nhưng rồi y đã phá hỏng tất cả. Bây giờ, đến lượt nàng phá hỏng những dự tính của y – ngay cả trong cái chết. Ngay cả trong cái chết, nàng cũng sẽ nhắc nhở y là kẻ đẩy nàng vào tình cảnh này. Lỗi lầm? Nàng tội lỗi và vô tội hệt như y. Nàng và y phá hỏng cuộc đời nhau bằng đủ mọi phương cách đến tận cùng.

Cơn lạnh ngày càng nặng trịch trong ngực, lan dần đến phổi. Y thở hắt ra, vận khí lấy lại cân bằng. Những cơn xúc động luôn để lại tác hại rối loạn khí huyết, y luôn phải tìm cách kiềm chế. Trong khí trời hanh hao khó chịu của mùa xuân phương Nam, những cơn ớn lạnh luôn chuyển vào trạng thái khó chịu bứt rứt đến mụ mị tâm trí. Từ khi trăng tròn cho đến ngày trăng khuyết, y càng lúc càng cảm thấy những đợt nóng lạnh luân phiên nhau như triều dâng hỗn loạn trong thân thể. Càng phân tâm lo lắng, càng khó yên.

Thứ cảm xúc đã được khơi lên, không cách nào dập tắt, dù chỉ là tro tàn.

Cát bay trong ánh trăng tàn lụi cùng bụi hồng sớm mai tựa tro xám. Y thả bàn tay đã nắm đến tê cứng về bên hông, nghe tiếng kẻng đổi gác liền ra khỏi tướng doanh xem xét. Oc-nha That cùng Chế Vinh đang đứng sau lũy gác, thì thầm to nhỏ. Thấy y, Oc-nha That liền gọi lại, chỉ tay về phía cồn cát bay mù.

“Quân An Nam đã dựng rào phòng thủ. Sau khi chúng ta rút lui đợt trước, Nguyễn Hữu Oai cho quân Bình Khang xuống Panduranga hợp cùng Chu Kiêm Thắng. Bây giờ ta cần phải huy động người chặn đường, chẻ nhỏ các toán quân ấy ra.” Oc-nha That nói, nhưng y cau mày.

“Quân Bình Khang không tùy tiện phân bổ ở đây.” Y lắc đầu. “Chúng còn phải lo việc ở phương Bắc, không tùy tiện dồn quân xuống Panduranga. Thành lũy ở Panduranga không trọng yếu đối với chúng, chúng có thể chỉ củng cố lũy để cố thủ chờ cứu viện khi cần kíp.” Có biến ở phương Bắc, dinh Bình Khang cũng phải cẩn thận đề phòng hơn là một chiến trường ở xa. Vả lại, Chu Kiêm Thắng tin rằng đã giữ được Kế Bà Tử làm con tin, có thể hơi khinh địch.

“Dù sao ta cũng phải huy động người chặn Panduranga.” Chế Vinh nói. Y đưa mắt nhìn anh ta, nghĩ một lúc rồi gật đầu.

“Vậy tướng quân lo liệu.” Chế Vinh vốn cầm đầu toán quân Thượng, có lẽ lần này nóng nảy mà muốn đánh xuống đối đầu với quân Nam Hà. Sự giận dữ đang sục sôi cần có nơi để phát tiết, y cũng không ngăn lại.

Khi Chế Vinh từ biệt, rời khỏi trại, nắng đã lên cao. Y nhìn về phía cồn cát Oc-nha That vừa chỉ, rồi quay đầu quan sát quân tướng trong doanh.

“Hữu trà viên, ông lãnh quân được chứ?” Y chợt lên tiếng. Con mắt còn lại của Oc-nha That hơi nhướng lên ra ý hỏi. Y hất cằm. “Ông lãnh quân tấn công lũy Phan Rang.”

“Còn anh?” Mãi không thấy y nói tiếp, Oc-nha That liền hỏi. Y nhếch môi như thể mỉm cười.

“Lần này Nam Hà nhất quyết không để mất Phan Rang. E rằng Chế Vinh cũng không kềm giữ được. Phan Rang chỉ là lũy nhỏ, đại quân Nam Hà mới là trọng yếu.” Nheo mắt trong ánh sáng đầu ngày, y chầm chậm nói, như vẫn đang nghiền ngẫm.

Lũy Phan Rang là nơi đánh dấu địa phận chúa Hiền đã lấy được, vị chúa hiện tại cùng những trung thần của cậu ta nhất quyết sẽ giữ bằng mọi giá. Đối đầu với đại quân từ Bình Khang không thể tránh khỏi, tốt nhất nên liệu định trước hơn là tùy tiện đối phó.

Những ‘kẻ phản nghịch’ vẫn còn trong ngục, cơ hội xoay chuyển thế cờ vẫn còn đang nằm trên chính tại chiến trường.




Hồi 51: Đe dọa
Thursday, October 18, 2012 Author: Trường An

Ngôi phủ đệ nằm trên ngọn đồi nhìn xuống ngã ba sông lồng lộng gió. Ổ khóa lâu ngày không mở đã đóng một lớp sét dày, cánh cửa kêu cọt kẹt rền rĩ khi được đẩy ra. Trong bốn bức tường cao, những đình tạ đã mang màu rêu hoang lấn lên quá cửa, cây cỏ mọc lấp vườn. Khu vườn không được chăm sóc chỉ còn cỏ mọc, trúc đào không ra hoa. Cuối sân, chỉ có giàn tường vi ngày càng rậm rạp, hoa nở từng chùm đỏ hồng cả một góc. Màu hoa khiến sắc đỏ của tà áo sau giàn hoa một lúc sau mới có thể nhận rõ.

Mưa vẫn lất phất rơi trong khí trời se sắt lạnh. Hương hoa càng rõ hơn, nồng nàn đằm như rượu. Bước qua lối cỏ hoang, cậu thanh niên tới hàng hiên nằm sau giàn hoa. Dựa vai vào cột chống, cô gái áo đỏ chỉ nhìn cậu ta bằng cặp mắt không rõ tâm tình, một khóe môi cũng không động.

“Cô cô.” Dừng chân trước hiên, vẫn cầm ô che đầu, Nguyễn Phúc Chu lên tiếng trước. Ánh mắt Như Yên lướt qua khuôn mặt cậu ta, rồi về phía giàn hoa sau vai cậu.

“Cháu ngày càng giống cha.” Bóng của nụ cười thoáng qua mắt Như Yên, nhanh như bóng một hạt mưa. Ba năm không gặp, thiếu niên ngày nào giờ đã trưởng thành. Đầu mày đáy mắt trong trẻo xưa kia đã man mác nét khắc bạc, dù có thể chỉ do nhiều ngày đêm không được nghỉ ngơi. Nghe lời nàng nói, nét mặt cậu ta hơi đanh lại, cũng mất nhanh như nụ cười trong mắt nàng. “Ta về trễ mấy ngày xả tang.”

“Đã làm lễ xả tang xong rồi.” Nguyễn Phúc Chu gật đầu, bước vào hiên, xếp ô tựa lan can. Chiếc ghế gỗ dài kê trong hiên đã bị mưa sương phủ một lớp nước dày, cậu khoanh tay nhìn Như Yên bằng đôi mắt tò mò không che giấu. “Cô cô đi theo người đưa tin của Phúc Nhuận?”

“Có Quế bên cạnh cậu ta, ta cũng chẳng vất vả lắm đâu.” Như Yên bật cười, tự cho phép mình tiết lộ bí mật ấy. “Ta cũng chẳng định trốn, chỉ không muốn rắc rối lằng nhằng thôi.”

“Nghe nói cô cô thả Linh lão đầu và nhóm người ở Quy Ninh?” Gật đầu, Nguyễn Phúc Chu điềm đạm hỏi. Với việc làm ấy, hẳn nhiên nàng phải tránh cả người của triều đình, nếu không muốn càng gây thêm rối loạn trong công đường dinh Quảng Nam.

Người đưa tin của Nguyễn Phúc Nhuận đã về Phú Xuân, trước khi viên Chưởng cơ này áp giải can phạm về triều. Cuộc vây bắt chóng vánh kết thúc không hoàn mỹ, khi nhóm phản loạn ở Quy Ninh đã trốn thoát ngay trước khi quân triều ập tới. Khu nhà đã bị đốt trụi khi toàn bộ người trong gia trang Linh lão đầu, thậm chí cả ngôi làng cạnh đó, trốn vào trong núi. Kế hoạch tuyệt mật hoàn hảo đã bị lộ ngay trước khi ra quân, tại địa đầu xa nhất. Chẳng khó để đoán ra nguyên nhân.

Ngay cả người tại Quy Ninh cũng không biết thời điểm hành động. Ngay cả cô gái này cũng không được rõ thời điểm mà quân tướng sẽ ra tay. Chỉ có Nguyễn Phúc Nhuận toàn quyền hành động. Chỉ vì để lọt nàng, Linh lão cùng toàn bộ nhóm người của ông ta đã trốn thoát.

Linh lão đầu, kẻ nắm thế lực ngầm của vùng đất phức tạp Quy Ninh. Kẻ tội phạm còn nguy hiểm hơn cả Nguyễn Phúc Huệ. Quy Ninh, vùng đất ẩn tàng nhiều gai góc, bão ngầm hơn cả Quảng Nam. Trong tình hình này, để nhóm người ấy thoát đi kể như thả hổ về rừng, đem voi về rẫy. Bình Khang, Quảng Nam đều bất ổn, chiến sự đang xảy ra, chính sự đang biến động, chỉ cần thêm một sơ suất nhỏ, vòng xoáy sẽ hất tất cả vào hỗn loạn.

Tin báo về không khiến triều đình yên lòng hơn. Ngược lại, hất tất cả vào chảo dầu sôi. Cùng với tin tức quân Chiêm Thành ở Phan Rí lại chuẩn bị khai chiến, cả những người bình tĩnh chờ thời nhất cũng đã nóng nảy sốt ruột. Chờ đón đoàn thuyền áp giải phạm nhân của Nguyễn Phúc Nhuận bên bờ sông là đoàn người đã gần mất hết bình tĩnh.

Nhưng nghe câu hỏi của Nguyễn Phúc Chu, Như Yên chỉ đáp lại bằng nụ cười thản nhiên, thấp thoáng vẻ khinh bạc.

“Lão đã nổi loạn xong đâu? Còn phải phá thêm năm tao bảy tiết, đúc súng tạo thuyền, câu kết khắp nơi mà thành lập quân phản loạn, chiếm thành giữ đất xưng vương, làm vua một cõi. Triều đình này không đánh nổi thì thua. Nguyên lão đại thần lúc ấy một là cúi đầu mà hàng, hai là xách gói mà chạy giữ mạng mình. Thắng làm vua thua làm giặc, là do bản thân kém cỏi chứ trách người sao được?” Nàng nhẩn nha nói, nhướn mày trước khuôn mặt bình thản của Nguyễn Phúc Chu. Cậu ta chỉ khoanh tay nhìn nàng, đôi mắt lạnh nhạt không rõ là vui hay giận. “Cháu đã định xách cái gói giấu dưới gầm giường lên kiểm kê chưa?”

“Có lẽ nên lấy lên để biết có cái gì giấu dưới gầm giường, biết đâu lại là bí quyết của Khổng Minh?” Cúi đầu cười khẽ, Nguyễn Phúc Chu nhịp ngón tay trên khuỷu. “Hoắc gia ở Chiêm dinh đã bị diệt, nhưng cô cô vẫn còn Ngụy gia, Thắng lão ở Đồ Bàn, bây giờ làm rõ thân phận ‘Linh lão’, một tay xách động chính biến, chẳng biết mèo nào cắn mỉu nào. Biết đâu kẻ làm vua ở Quy Ninh lại là cô cô không chừng?”

“Nghe cũng có lý. Ta đáng lẽ nên đi theo Linh lão về Quảng Ngãi mới phải.” Tặc lưỡi, Như Yên gật đầu. Nguyễn Phúc Chu nheo mắt nhìn nàng, cuối cùng lại thở dài.

“Thế sao cô cô lại về đây?” Vị chúa trẻ đột nhiên lên tiếng, vẻ cợt đùa mất hẳn. Như Yên nhìn cậu ta qua đuôi mắt dài, vén lại tóc mà ngoảnh đầu trông ra sân.

“Ta về xả tang.” Nàng nói, hầu như chẳng liên quan đến câu hỏi của Nguyễn Phúc Chu. “Muốn thả ta hay không, cháu tự quyết.”

“Có thể tự quyết?” Đến lượt Nguyễn Phúc Chu nhướn mày. “Là xem có nên xách gói dưới gầm giường chạy đi?”

“Đó cũng là một lựa chọn.” Như Yên bật cười. “Ngày trước ta cũng từng bảo cháu, nam nhi chí tại bốn phương, mềm lòng đa cảm chỉ tự hại mình.”

Môi Nguyễn Phúc Chu khẽ rung. Nhưng rồi cậu chỉ im lặng.

Mưa vẫn buông mù trời rộng. Tường vi nở giữa mưa se sắt, cánh rung trong gió. Trong lạnh lẽo ảm đạm của vườn hoang, màu hồng thắm lọc qua màn bụi nước mờ chuyển thành sắc đỏ như máu. Cành hoa đã lan trên đất, bò trên tường mái, thân lá tua tủa gai rậm rạp phủ bóng lên hàng hiên phía trong. Ngẩng đầu nhìn lên, bầu trời xám mây ẩn hiện qua gai góc lá cành chỉ còn là những mảng sáng mờ.

Tiên kết nhân tâm thuận, Hậu thu đức hóa chiêu. Ai biết hai câu ấy được trả cái giá thế nào? Cháu còn chưa có một người cha say mê nữ sắc đến giết người bừa bãi, nạn đói hoành hành, oán than khắp chốn. Cháu còn chưa phải quỳ lạy quan lại xin nhường ngôi cho chú. Cháu còn chưa phải giết cả ái cơ để chứng tỏ uy danh. Tiên chúa đánh trăm trận, phục muôn người mà còn phải như thế, chỉ có kẻ điên mới tin rằng thế giới này không điên.” Như Yên lạnh lùng hướng mắt lên màn mưa, giọng nói nghe như tiếng mưa bàng bạc. “Mà đến lượt cháu, thậm chí chẳng còn ‘nhân đức’ nào có thể khiến người ta tin theo được nữa. Nói suông cầu thần, chẳng bằng hành động đi.”

Nguyễn Phúc Chu vẫn im lặng. Vị chúa trẻ nhìn theo ánh mắt của Như Yên lên tầng mây qua lớp lá rậm dày. Bóng mưa vẫn không ngừng theo gió lay động. Đâu đây thoảng đến mùi khét của giấy cháy và hương nhang. Nàng quả thật đã không còn mặc tang phục, cả gấu áo cũng đã bình thường. Trang phục xa hoa, điểm trang rực rỡ, ánh mắt phẳng lặng, khóe môi nhàn nhạt nét cười, nàng như đã trở lại thành cô gái của nhiều năm về trước.

Dường như, tựa hoa tường vi kia vẫn sinh sôi, sắc đỏ lấp tràn, nhưng đã mấy mùa hoa nở? Tháng năm tươi đẹp, trăng tròn hoa thắm, ngoảnh đầu nhìn lại tưởng vẫn như xưa, nào biết cỏ dại vườn hoang mưa lạnh. Hồng nhan một thưở chưa phai, xuân đã qua mấy mùa, lòng đã triền miên gió nổi.

“Sau dỡ gian nhà này đi, để lâu gỗ mục, đồ vật hư hỏng thì phí của.” Như Yên vẫn đạm nhạt nói, không nhìn đến mắt người cháu khẽ chớp. “Ngôi chùa trên đồi kia vốn được chúa Tiên phong tặng, lấy đó mà làm cơ sở cho nghiệp đế vương. Cháu hiến đất này cho chùa, mở mang xây dựng lại. Vừa được tiếng vừa được lợi.”

“Vâng, cô cô.” Cuối cùng, Nguyễn Phúc Chu mím môi, gật đầu. “Người còn chưa về tới, không phiền đến cô cô nghỉ ngơi.”

“Cháu lại khách sáo rồi.” Như Yên mỉm cười.

Nàng vẫn cười khi Nguyễn Phúc Chu đã rời khỏi vườn. Tiếng cánh cửa đóng mở kẽo kẹt rồi ổ khóa sắt vang động từ xa vọng lại. Rồi chỉ còn màn mưa rả rích buông xuống, lẫn vào thanh âm xa xa gần gần của rừng thông bên ngoài. Thanh âm lan tỏa, nhòa lẫn, điệp trùng tan vào nhau tựa bóng mây trên trời xa.

Lớp gỗ trên hành lang đã đẫm ướt hơi mưa. Ho khe khẽ, nàng chỉnh lại cổ áo khoác, quay vào trong nhà. Gian nhà nằm khuất sau vườn là nơi duy nhất vẫn còn đầy đủ đồ đạc. Từ ngày ấy, nàng chỉ cho khóa lại mà không một lần bước vào. Mở tủ tìm đá đánh lửa, nàng thấy quần áo cũ vẫn còn được xếp ngay ngắn trong góc.

Quần áo này vốn đã rách không ít thì nhiều, để qua vài năm không được bảo quản đã bị mọt gặm lỗ chỗ, nồng mùi mốc. Nhấc chúng lên, nghĩ một lúc, nàng bỏ tất cả vào lò, châm cho lửa cháy.

Lửa bùng lên, xua tan khí lạnh quanh quẩn bên nàng, hơi khói át đi mùi bụi cũ lưu. Nàng nhắm mắt, nghe tiếng gió lao xao bên ngoài. Bên ngoài khu vườn, bên ngoài ngọn đồi và những dòng sông. Bên ngoài thành trấn phồn hoa và đổ nát, bên ngoài núi và biển cả mênh mông. Bên ngoài mặt đất và bầu trời, ngoài thời gian và dòng chảy.

Dường như có tiếng dòng sông, nàng thầm nhủ. Dòng sông chảy qua thị thành, thời gian, tháng năm và duyên kiếp. Dòng sông rì rầm, rì rào, thầm thĩ, miên man. Dòng sông im ắng, vô thanh, vô ngôn, tịch mịch đến khôn cùng. Thanh âm của dòng sông trôi qua, trôi qua.

Và nàng nghe thanh âm, như thể tiếng thất thanh gào khóc, hắt vọng từ xa khơi.

***

Tháng giêng năm Giáp Tuất, triều đình Nam Hà đón cùng lúc những cái tin hỗn loạn ập đến: Quân triều đại bại ở Bình Thuận, vương tôn mưu phản bị bắt, những cuộc vây ráp để lại các khuôn mặt xanh xám – kẻ vì giận dữ, kẻ vì sợ hãi. Buổi thiết triều đầy đủ đầu năm của các quan không phải để chúc mừng năm mới vị chúa trẻ, mà để xem mặt các phạm nhân vừa được giải về triều.

Nguyễn Phúc Huệ, Nguyễn Phúc Thông cùng gần chục người khác bị giải đến sân triều, giữa hai hàng quan tướng lớn nhỏ. Từ trong chính điện, vị chúa trẻ bước ra cùng người hầu sai kính cẩn đem theo một cuốn sổ nhỏ để trên bàn gỗ. Thấy cuốn sổ, nhiều cái rùng mình lan đi trong làn gió xuân thổi qua sân.

“Ngày xưa ta có sổ ‘Đồng tâm hướng thuận’.” Nhìn qua các triều thần, chúa Nguyễn Phúc Chu chỉ cười. Tay đặt lên sổ, vị chúa ngừng lời một thoáng, nụ cười càng mở rộng hơn. “Nhưng đây không phải là sổ sinh tử, chỉ là chỉ phong tặng của ta.”

“Chiêu Vũ hầu và Thuận Nghĩa hầu có công lớn với nước, triều trước lại bận rộn chưa kịp yên ủi công thần. Nay nhân dịp đầu xuân khánh tiết, theo lời bàn trước, truy tặng tự điền và tự dân cho hai công thần lương đống. Con cháu được đời đời thừa hưởng khói hương.” Lời nói sang sảng vọng khắp khoảng sân rộng, nhiều người còn chưa qua cơn hoang mang một lúc sau mới kịp hiểu lời. Viên nội giám gọi Hào Lương hầu Nguyễn Hữu Hào cùng Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Kính lên nhận phong tặng. Nguyễn Hữu Oai còn ở Bình Khang, vị chúa liền cho người đưa chỉ cùng tặng phẩm đến. Hai người con của Nguyễn Hữu Dật nhận chỉ, tạ ơn trước sân điện, vị chúa vẫn chưa vội cho họ lui xuống.

“Cha ông các khanh theo họ Nguyễn ta đến đây từ buổi ban sơ, đuổi Mạc chống Trịnh lập quốc. Người thì dòng dõi thư hương quan tướng, người vốn là thân hào nhân sĩ, cũng có người vốn chỉ là quân ứng nghĩa, dân mến đức theo về. Các khanh không thuộc dòng vương thân ngoại thích, nhưng là cột trụ của triều đình, công lao muôn vạn mà nghĩa tình càng lớn như hà hải. Ngày nay ta cấp hương phần lửa khói cho các cựu thần, cũng mong con cháu cùng đời đời hưởng phúc, lập công lớn cho nước nhà.” Chúa Nguyễn Phúc Chu ân cần nói. Sự ngạc nhiên đã qua, để nhiều cái nhìn đầy ẩn ý qua lại giữa các quan triều sau lưng hai viên tướng nhận phong.

Thuận Nghĩa hầu Nguyễn Hữu Tiến xuất thân áo vải, Chiêu Vũ hầu Nguyễn Hữu Dật tuy tiếng là thân thích họ xa của chúa nhưng hoạn lộ long đong. Tự điền cùng tự dân được truy cấp lần này cho họ tuy không lớn, nhưng cũng đã nghiễm nhiên xếp họ ngang với các vương tôn ngoại thích trong triều.

Tứ trụ đại thần nắm giữ quyền bính trong triều đình Nam Hà vốn thuộc về các dòng họ ngoại thích với chúa, được xây dựng bằng các mối kết liên hôn nhân đời đời. Nhưng các chúa, từ đời này sang đời khác, vẫn phải dùng các quan tướng ‘bên ngoài’ để tạo lập thế lực và sức mạnh cho mình – như chúa Sãi cùng Lộc Khê hầu Đào Duy Từ, chúa Thượng và chúa Hiền với Chiêu Vũ hầu, Thuận Nghĩa hầu. Ngày nay, những kẻ bình dân ấy đã chính thức bước chân vào triều đình. Không kể đến lần truy tặng này, Nguyễn Hữu Oai đã kết hôn với một công nữ, vị chúa cũng đang định nạp phi là con một văn chức nhỏ, xuất thân thường dân. Trật tự được thiết lập gần trăm năm đã chính thức bị phá vỡ.

Triều đình Nam Hà không chỉ còn dành cho các đại thần dòng dõi, xuất thân Thanh Nghệ. Cùng với tiền lệ của Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Tiến, Hồ Quang Đại, lớp quan tướng xuất thân thấp kém đang dần chiếm lấy những vị trí quan trọng ngày càng lớn.

Đến lúc hai tướng lui về, vị chúa mới nhìn qua toán phạm nhân đang ở sau sân. Phất tay, vị chúa trở về ngai vàng trên bậc cao, gọi người dẫn bọn họ lên sân trước điện.

Nguyễn Phúc Nhuận đem bản khai cùng sự vụ báo cáo lên tất thảy. Nghe xong, chúa Nguyễn Phúc Chu cau mày.

“Để sổng bọn người ở Quy Ninh?” Vị chúa gằn giọng, giọng điệu khiến hầu hết người trong sân phải giật mình.

“Bẩm, thần đã tra xét từ lâu, chúng đã bí mật chiêu tập lực lượng, đúc súng, đóng chiến thuyền, câu kết với Chiêm Thành và dân Thượng, việc Chiêm Thành nổi dậy lần này hẳn do chúng chống lưng giúp rập. Nghe quân triều đến vây bắt, chúng bỏ trang viện, nhà cửa mà trốn vào trong núi. Quân tại Quy Ninh chậm chân không bắt được, để chúng đem theo tài vật đào thoát tất thảy.” Cúi đầu, Nguyễn Phúc Nhuận rành rọt trả lời. “Ngày nay chiến sự tại Bình Thuận cam go, e rằng chúng vào vùng Thượng thông đồng với nhau, càng thêm nguy hiểm.”

“Linh lão đầu này ở Quy Ninh đã lâu, danh thế rất lớn, lại thêm con rể là Quảng Phú vũ dũng hơn người, thân thuộc bọn đạo tặc. Vùng núi Quảng Ngãi từ trước vốn đã là căn cứ của chúng, người không dám lại qua.” Bên cạnh Nguyễn Phúc Nhuận, Kỳ nói thêm. “Linh lão nuôi chí khác, ôm vọng tưởng đã lâu, muốn nhờ người tạo loạn mà mượn nước đục thả câu. Chúng câu kết tạo phản lần này không chỉ có ý muốn đưa công tử Huệ lên ngôi, còn có ý muốn chia đất làm vương, tiện bề lấn tới, lại là một Hoàng Tiến mới. Công tử Huệ mê muội không xét kỹ, e rằng cho chúng mượn danh nổi loạn bằng nuôi ong tay áo, rước hổ vào nhà, nguy hiểm khôn ngăn.”

“Bọn thương buôn chỉ biết lợi nhuận, trả một lời mười, muốn mượn Lã Bất Vi thì phải trả cả vợ con, đất nước cho họ Lã, chẳng thấy sao? Thấy cái lợi trước mắt mà không suy xét sâu xa, làm việc lớn thế nào?” Chúa Nguyễn Phúc Chu nghe thế liền ngoảnh sang Nguyễn Phúc Huệ, lắc đầu thở dài. Nguyễn Phúc Huệ gương mặt sắt lạnh như đá, mím môi im lặng. Vị chúa quay nhìn các quan viên, lo lắng in trong mắt. “Tình hình phương Nam hỗn loạn, quả nhiên là có kẻ giật dây thao túng bấy lâu.”

“Tình hình hải ngoại khiến các cảng, thị thành hỗn loạn nhiều năm nay, nghĩ cũng đến lúc cần chấn chỉnh.” Nguyễn Phúc Nhuận tiếp lời vị chúa, ra dấu về phía hai thương nhân bị bắt ngoài sân. “Đài Loan bị hạ, các giáo phái, bang hội bị Đại Thanh lùng bắt liền đổ về phía Nam, về các đảo, lấy vùng ven biển ta làm căn cứ, họp cùng người Minh lánh nạn lúc trước mưu toan bất chính. Mà vì thế, tình hình ven biển của chúng ta ngày càng bất ổn, hải tặc cùng tàu thương tranh chấp với nhau, hay câu kết với nhau cướp bóc tranh giành. Thương mãi quan trọng với kinh tế Nam Hà, chúng ta vẫn chào đón người ngoại quốc, nhưng thần nghĩ đã đến lúc phải quản lý họ chặt chẽ hơn.”

“Điều này ta cũng đã nghĩ qua.” Chúa Nguyễn Phúc Chu được lời liền gật đầu. “Người Tàu có thói làm ăn sinh sống theo nhóm, trọng người chủ hội hơn cả luật triều. Ta vốn đã có Tàu Ty cục nhưng chỉ là quan viên trông coi thuế khóa, là lại thuộc chứ không phải người có uy tín với bọn họ. Nhưng để bọn họ tự sắp xếp thì quá hỗn loạn, luật không quản được mà người cũng không quản được. Nay ta nghĩ cứ nên để bọn họ quản nhau, nhưng theo trật tự. Ta thấy ngày nay người Tàu vào nước ta có mấy nhóm chính từ Quảng Đông, Triều Châu, Hải Nam và Phúc Kiến. Bốn nhóm này có những đặc trưng riêng cả về tiếng nói, nguồn gốc lẫn kiểu sinh sống, cách làm ăn, ngành kinh tế. Cho họ lập các bang hội dựa trên nguồn gốc, cho dân nhập tịch đăng ký với các bang trưởng, hội trưởng để sinh sống trong nước ta. Như vậy, ta vừa có thể quản được người mà bọn họ cũng thỏa mãn, vừa có phần tự chủ vừa được bảo hộ sinh sống làm ăn.[i]

Nói rồi vị chúa cho người ghi lại, giao các quan bàn luận. Việc càng nói càng rộng, người nghe càng lúc càng lo lắng sốt ruột. Dường đoán được, vị chúa trẻ gọi đưa Nguyễn Phúc Huệ ra trước, nghiêm mặt hỏi.

“Ta đối với anh cùng dòng dõi Diễn quận công không bạc, sao lại tìm cách tạo phản?” Nguyễn Phúc Huệ vẫn đứng, nhưng vị chúa không nhất quyết bắt quỳ, chỉ cao giọng hỏi. Nguyễn Phúc Huệ mím môi mấy lần, cuối cùng mở miệng.

“Chính sự rối ren, không quản được lại đổ cho người? Chỉ có miệng quan tướng các người đổ cho ta đủ tội, tra bức người lấy cung, không một bằng cớ đáng tin.” Giọng khàn khàn, Nguyễn Phúc Huệ to tiếng nói. Nguyễn Phúc Chu liền cười.

“Tội danh vừa đọc vẫn còn chưa đủ? Hay anh muốn ta nói thêm một tội danh khác?” Vị chúa mềm mại cười, vẫy ngón tay với viên hầu sai đứng sau. Khi người này quay lưng đi, Nguyễn Phúc Chu nhìn người trước sân điện, thở dài. “Việc xưa lặp lại, vương thất cấu kết với một người đàn bà tạo phản. Công nữ Ngọc Phương lâu nay ở Quảng Nam, dựa thế làm bậy, thay anh đi gọi người, sắp xếp mọi điều. Việc ấy có thể cả Linh lão đầu cũng thừa nhận, mà ngay cả những người không liên quan cũng đều có thể làm chứng.”

“Ở Quảng Nam vừa rồi, công nữ Ngọc Phương đưa Linh lão đầu trốn ra khỏi phủ đệ của anh, lưu lại cho chúng ta mối họa lớn bây giờ. Việc ấy cả ngàn người nhìn thấy.” Càng nói càng cao giọng, tiếng vị chúa quét qua sân như luồng gió lạnh buốt xương. Nghe đến cái tên vừa thốt, đủ loại biểu cảm xuất hiện trên khuôn mặt người trong sân. Tuy hầu như tất cả có cùng một ý nghĩ.

Chuyện xưa lặp lại. Tống Thị, người đàn bà dựa vào danh thế chúa thao túng triều đình, lũng đoạn kinh tế, gây oán than ngập trời. Nguyễn Phúc Trung lọt vào tay bà ta, định đem triều đình về tay chúa Trịnh. Bây giờ, con cháu kẻ phản thần lại tiếp tục việc xưa.

Tạo phản, và đem quân bên ngoài đánh vào, để lại một mối di họa lớn lao. Cuộc vây bắt này chỉ mới thành công được một nửa, sự đe dọa càng nguy ngập hơn.

Chuyện cũ việc mới, thù xưa giận nay cùng thổi bùng như lửa. Nguyễn Phúc Huệ chợt thấy lưng mình lạnh đi, cùng lúc với cái tên vừa được gọi lên kia.

“Cô ta…” Gã lên tiếng, lời chưa thoát hết khỏi môi đã chợt im bặt.

Cửa điện phía Tây mở, quân lính đưa vào một bóng áo đỏ đến chói mắt.

Cô gái nhan sắc rực rỡ như hoa, áo đỏ đến chói chang, xuất hiện trước mặt Nguyễn Phúc Huệ như thể tử thần.

 

 

 

Chú thích:

[1] Các tổ chức bang hội này tồn tại đến khoảng năm 1838, vua Minh Mạng ra lệnh giải tán bang hội người Hoa. Theo cách quản lý dưới triều Nguyễn, người Hoa nhập cư phải đến báo với bang trưởng, được cấp phép mới được nhập tịch, có được các quyền lợi như người Minh Hương, và không được cạo đầu. Lớp người Hoa nhập tịch này được phép kết hôn với người bản xứ, đến thời vua Tự Đức thì được chính thức công nhận là người Việt Nam.

Các bang Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam và Triều Châu đều có ngành làm ăn đặc trưng riêng như buôn gạo, làm nông, thủ công hay chế tạo…Các bang hội vừa quản lý người vừa bảo hộ cho ngành làm ăn “độc quyền” của bang – có lẽ vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của việc phân chia bang hội này.  




Hồi 50: Trừ diệt
Thursday, October 11, 2012 Author: Trường An

Tháng giêng năm Giáp Tuất, hầu như toàn bộ vùng đất của Nam Hà sôi sục náo loạn trong cuộc lùng bắt những đội quân phản loạn của Chưởng cơ Nguyễn Phúc Huệ. Bắt đầu từ Chiêm dinh, Chưởng cơ Nguyễn Phúc Nhuận đem theo chỉ sai của chúa Minh, lãnh quyền thừa hành truy bắt phản nghịch. Những đội quân được phái đi tỏa khắp nơi, bao vây, khám xét, lùng tìm và truy diệt kẻ nằm vùng.

Ngày mở cửa đầu năm, dân chúng Quảng Nam ngơ ngác hoảng hốt trước những toán quân giáo mác sáng ngời, đem theo voi ngựa diễu tràn các nẻo đường. Sau khi bắt giữ Nguyễn Phúc Huệ tại cư gia, niêm phong phủ đệ của viên Chưởng cơ này, quân đội dinh Quảng Nam dốc toàn lực bủa khắp bốn phương. Cuộc tấn công xảy ra hoàn toàn bất ngờ, các dinh phủ, làng mạc, gia tộc bị bao vây hầu như không kịp phản ứng. Có vài cuộc chống trả lẻ tẻ nhanh chóng bị dập tắt. Các quan viên đã phải cúi đầu trước chỉ sai in dấu triện của vị chúa và toán quân tượng hùng hậu.

Chỉ trong vòng một đêm và một buổi sáng, khắp vùng đất Quảng Nam không nơi nào chưa bị quân đội càn quét qua. Nguyễn Phúc Huệ bị bắt, những đồng bạn cùng mưu lẫn kẻ hỗ trợ cho gã không ai thoát khỏi lưới vây. Ngôi làng bên sông Túy Loan tập hợp dân giang hồ tứ chiếng làm nơi huấn luyện võ sĩ, cất giữ tài vật của quân phản loạn bị pháo vây chặt, đành đầu hàng. Một loạt quan tướng lớn nhỏ bị đưa đến Chiêm dinh tống giam chờ luận tội. Thậm chí các thương gia trong thành Hội An cũng không tránh khỏi bị khám xét bắt bớ. Ngôi nhà của Hồng Thiên hội vừa mở cửa được hai tháng đã lại bị niêm phong.

Đến cuối buổi chiều ngày hôm ấy, chỉ còn một nơi mà quân lính Nam Hà chưa ập vào. Ngôi nhà bên sông Chợ Củi vốn là nơi thờ tự vị vương hậu của chúa Hiền vẫn đóng cửa im ỉm, không trả lời bất cứ kẻ nào bên ngoài. Quân lính không dám tùy tiện tấn công, chỉ đành bao vây toàn bộ ngôi làng.

Đến chiều tối, một cánh chim bất chợt lượn vòng ngoài khu nhà, rồi bay vào trong. Lính vừa giương cung nhắm, thư sinh mặc áo đoạn đen có khuôn mặt thanh tú bên cạnh liền cản lại.

“Cứ để nó vào.” Nhìn theo cánh chim khuất sau lùm cây, Nhã lắc đầu. “Nếu biết tin bên ngoài, Nguyễn Phúc Thông hẳn sẽ thôi ngoan cố cứng cổ.”

Gã hẳn không định giữ chặt nơi này phòng thủ cả đời, Nhã nghĩ thầm. Thân thế vẫn là vấn đề nhạy cảm với vị chúa, không thể tùy tiện phá hủy nơi thờ tự của vương hậu tiền triều, dù có lệnh của chính chúa công. Tuy vậy, ngoan cố chống cự chỉ làm tội nặng thêm, khi Nguyễn Phúc Thông không còn bất cứ hy vọng nào bên ngoài.

Lúc này, kẻ nào có thể gửi thư cho Nguyễn Phúc Thông? Linh lão đầu dù sao vẫn là kẻ sống ở xa tới, khó có thể tùy cơ ứng biến trên vùng đất này. Nếu là Như Yên, hẳn nàng có cách để chiêu hàng gã.

Vừa nghĩ ngợi, Nhã vừa trầm ngâm nhìn lên bầu trời đang tối dần. Không hiểu sao, anh ta vẫn cảm thấy gờn gợn bất an. Việc đã thành công gần như hoàn hảo, một cách quá dễ dàng. Tất nhiên, luận tội một vương tôn sẽ không dễ dàng, nhưng đó là việc của các quan đại thần. Âu cũng có thể nhân dịp này tỏ rõ sáng tối, sắp xếp lại Tứ trụ, không để cho một số kẻ lấy tay che được trời[1].

Luận tội vương tôn? Nhíu mày, Nhã nhìn lại về phía ngôi nhà đã bắt đầu thắp đèn trên lầu cao. Vốn chỉ là một kẻ thừa hành, có những điều Nhã vẫn không thể rõ, không được rõ. Chắc chắn là đã nắm trong tay đầy đủ chứng cứ, vị chúa mới phát lệnh bắt giữ hai người anh em họ. Nhưng đó chẳng phải chỉ mới là điều anh ta nghĩ?

“Phân tán đi bao vây bốn phía.” Quay người, Nhã ra lệnh cho viên đội trưởng phía sau. Toán quân liền tản ra mỏng hơn, dàn người canh giữ xung quanh ngôi làng. Nghĩ đã đến lúc các toán quân khác xong việc trở về Chiêm dinh, Nhã cho người xin thêm tiếp ứng. Làm một chòi canh nhỏ bên ruộng dâu, viên Tiểu sai ăn uống quấy quá bữa tối, không rời mắt khỏi ngôi phủ đệ kia một khắc.

Sự cẩn trọng của Nhã quả nhiên không thừa. Đến khi trời tối hẳn, trăng lên đầu ngọn tre, anh ta chợt nghe có tiếng lao xao khắp bốn xung quanh ruộng. Nhìn ra xa, Nhã nhận được ngay nguồn cơn của sự ồn ào: Nước đang lên, dâng tràn khoảng đất dưới làng. Đông xuân vốn là mùa lũ, nước sông đêm nay dâng lại càng đặc biệt cao. Mảnh ruộng dâu vốn ở trên đất đồi, nước cũng đã lấp xấp ngay dưới gốc. Triều đang lên, có thể dâng tràn vào cái chòi Nhã đang trú tạm.

Quân lính ở những khoảng đất thấp mà nước đang dâng ngập đến cổ không khỏi líu ríu chạy khỏi nơi canh gác. Những viên đội trưởng bận rộn kêu gọi lính tập hợp về phía những trảng đất cao. Không bận tâm đến họ, Nhã lại chăm chú nhìn về phía ngọn đèn trên lầu cao kia. Gió mạnh quần quật thổi, ánh lửa đèn chênh chao một lúc rồi tắt.

Hỏng rồi, than thầm, Nhã siết chặt kiếm trong tay, lần lại gần hơn ngôi phủ đệ. Ngôi nhà vẫn yên ắng. Đến đầu làng, Nhã không tiến gần thêm, níu lấy một cành cây gần đó mà leo lên ngọn. Ở khoảng cách này, anh ta đã có thể nhìn được vào trong sân. Ngoại trừ ngọn đèn trên lầu vừa tắt, trong sân không thắp đèn, chỉ vài gian nhà có ánh sáng leo lét. Cảnh tượng ngôi phủ đệ như thể sắp tắt đèn đi ngủ chứ chẳng phải chỉ là mới nửa buổi tối.

Nghĩ ngợi một lúc, Nhã móc trong túi đeo bên hông ra một quả pháo nho nhỏ, móc với tên nỏ bắn về phía ngôi phủ đệ. Pháo rơi vào giữa sân, nổ một tiếng đinh tai. Tiếng nổ làm người khắp bốn phía giật mình. Đám quân lính đang lao nhao chạy lũ dừng hẳn lại. Từ trên ngọn cây, Nhã nhảy xuống, nhanh chóng chạy khỏi phạm vi ngôi làng.

Viên Tiểu sai chỉ vừa kịp nhảy xuống sông khi tiếng nổ tiếp theo gầm vang sau lưng. Sức ép cùng đất cát thổi tung theo Nhã. Mặt trước của ngôi phủ đệ chớp mắt đã bị thổi bay trong cát bụi mù mịt. Người trong làng vốn đã được giải tán khi cuộc bao vây vừa bắt đầu, ngôi làng yên ắng. Trong phủ đệ cũng không có lấy một bóng người.

Toán lính bao vây ngơ ngác trước cảnh tượng sau vụ nổ. Khi Nhã trồi lên khỏi mặt nước, không ai để ý đến anh ta. Thấy một người đội trưởng định chạy lại phủ đệ nọ, Nhã liền giật giọng gọi lại.

“Chờ đã!” Lời vừa hết, đã nghe tiếng ồn ào ở bên kia bãi dâu mênh mông. Không đợi người, Nhã cấp tốc chạy về phía tiếng động.

Dưới ánh trăng nhạt, một cuộc loạn đả đang xảy ra, giữa quân lính Nam Hà với một toán người ăn mặc như gia nô. Trong đám đông, Nhã dễ dàng nhận thấy sắc áo đen từa tựa như mình của Kỳ. Người đứng đầu Bát tuyệt đang đấu tay đôi với Nguyễn Phúc Thông. Dáng người nhỏ bé tròn trịa nhưng linh hoạt phi thường, Nguyễn Phúc Thông sử một thanh kiếm dài, cong cong như kiểu Nhật Bản. Kiếm loang loáng dưới trăng, khiến đao trên tay Kỳ cũng phải nhượng mấy phần, không rõ là Kỳ lúng túng hay không muốn xâm phạm người tông thất. Nguyễn Phúc Thông đang liều mạng mở đường máu, tất cả các chiêu thức đều là sát chiêu.

Thấy vậy, Nhã nhẹ nhàng phóng tới. Tay vung lên, dây xích sắt trong tay áo Nhã bay về phía Nguyễn Phúc Thông, quấn lấy cổ tay cầm kiếm của gã. Kiếm ngừng một nhịp, Kỳ lập tức lia đao tới, hất văng kiếm trên tay Nguyễn Phúc Thông.

Nghe động, quân lính từ bốn phía chạy về. Thấy người đông, gia nô của Nguyễn Phúc Thông buộc phải đầu hàng. Nguyễn Phúc Thông vẫn còn lăn tròn trên đất, cố gắng gỡ sợi xích của Nhã quấn vào tay.

“Phản rồi! Các ngươi phản rồi!” Thấy Kỳ đưa đao gần tới, Nguyễn Phúc Thông hét lớn. “Ai cho phép các người xâm phạm ta?”

“Chúa công có lệnh, mời công tử về Phú Xuân.” Kỳ điềm nhã nói, thanh đao lại kề cổ Nguyễn Phúc Thông, bức gã đứng dậy. Nghe vậy, Nguyễn Phúc Thông trừng mắt.

“Lên ngôi chưa được bao lăm mà đã tính chuyện trừ diệt anh em, bức chết dòng chính của tiên chúa! Đâu ra đạo lý ấy?” Mặt đỏ bừng, Nguyễn Phúc Thông ra sức hét lớn. Kỳ vẫn lạnh lẽo gật đầu.

“Thiếu sư không phải chỉ có mỗi mình công tử, xin đừng lạm ngôn.” Kỳ liếc mắt về phía ngôi phủ đệ. “Ngài còn phải giải thích cho việc phá hủy nơi thờ tự của quốc mẫu.”

“May mà tôi đã cảnh giác trước.” Thở ra, Nhã nói xen vào. “Bằng không, quân lính ập vào, vừa thiệt mạng vừa mang tiếng là đi phá hủy từ đường, miệng nào mà thanh minh? Việc đêm nay có hàng trăm, hàng ngàn người thấy, một cái dép cỏ của chúng ta cũng chưa bước vào, công tử về Chiêm dinh mà giải thích.”

Câu cuối, Nhã quay sang Nguyễn Phúc Thông, đắc thắng nói. Nghe vậy, Nguyễn Phúc Thông mím chặt môi, phì phì thở ra.

“Các người ở đâu tới…” Lần này, không để Nguyễn Phúc Thông nói hết, Kỳ đã lắc đầu.

“Công tử theo đường hầm trốn ra đây sau khi nhận được thư liên lạc của Linh lão đầu tại Quy Ninh, có cần tôi làm rõ?” Không đợi phản ứng của Nguyễn Phúc Thông, Kỳ đã quay sang Nhã, gật đầu. “Dẫn giải nhóm người này về Chiêm dinh!”

Vốn dĩ Kỳ không nhìn đến, vì biết rõ gương mặt Nguyễn Phúc Thông đã tái mét như xác chết.

“Anh viết gì trong thư thế?” Khi đã đưa Nguyễn Phúc Thông về dinh trấn Quảng Nam, giao lại cho Trường đưa vào ngục, Nhã níu lấy tay Kỳ, hạ giọng nói. Dùng danh nghĩa Linh lão đầu dụ Nguyễn Phúc Thông ra khỏi phủ đệ quả là một công đôi chuyện, vừa có thể êm thấm bắt giữ gã, vừa có thêm chứng cứ buộc tội gã câu kết với trọng phạm triều đình.

“Tôi không viết.” Kỳ nhún vai. Đôi mắt vốn lơ đãng của anh ta liếc một cái rất nhanh về gian nhà sau dinh trấn. “Chúng liên lạc với nhau có ký hiệu riêng, Linh lão đầu vốn cũng có dấu triện riêng của mình, giữ luôn bên người.”

“À…” Nhã chớp mắt như hiểu ra, chợt hỏi trống không. “Thế đâu rồi?”

“Chỉ có thư gửi đến chỉ bảo cách thức làm việc, không thấy người.” Kỳ khoanh tay nói, vẻ mặt nghiêm trọng hơn là nhẹ nhõm. “Có khi lại phải phát lệnh truy bắt.”

“Sao có thể…?” Nghe thế, Nhã giật mình. Vẻ mặt càng tối, Kỳ khoát tay thở ra.

“Không nghe Nguyễn Phúc Thông đe dọa gì sao? Nguyễn Phúc Huệ làm việc cẩn mật, trước nay không để lộ ra cái đuôi nào, chỉ toàn là lời nói gió bay, sai phái nhờ vả người chạy vòng quanh. Bây giờ gã cứ chối bay chối biến, bảo nhóm người này toa rập toan hại gã, hay là bị mớm cung gì đó, ai làm gì được? Đâu phải cứ giao lại đầu mối chứng cứ là có thể cao chạy xa bay? Đầu mối nào cũng dẫn về nàng ta, bây giờ người lại không thấy đâu, nói ai tin?” Đôi mày cau sâu, Kỳ mím môi. “Chưa kể đến Linh lão đầu cũng là do nàng ta đưa thoát ra. Nhóm người ở Quy Ninh chưa biết làm việc thế nào rồi? Bây giờ lại muốn làm gì?”

“Nhưng một khi đã trở về thì…” Nhã ngần ngừ. Muốn danh chính ngôn thuận buộc tội anh em Nguyễn Phúc Huệ, tất chẳng thể nào tha bổng cho nàng ta. Càng không thể nói rằng đã dùng nàng ta đưa bọn họ vào bẫy.

“Có khi bây giờ muốn gỡ tội cũng không được.” Không để tâm đến lời của Nhã, Kỳ vẫn còn nghiền ngẫm suy tư đến tình hình tại Quy Ninh mà anh ta vừa nói.

Đã sử dụng được ấn tín của Linh lão đầu để dụ Nguyễn Phúc Thông, hẳn Như Yên đã thoát khỏi tay Linh lão. Hoặc nàng chưa bao giờ bị khống chế. Bắt tay với Linh lão đầu, cũng là có thể.

Nghe có vẻ hoang đường, nhưng Kỳ đã quen biết với Như Yên đủ lâu để biết nàng có cách hành xử hoang đường đến bậc nào. Nàng suy tính điều gì, anh ta cũng khó có thể rõ. Hậu quả của việc nàng làm, anh ta cho rằng đến chính nàng cũng nhiều khi không rõ.

Khu dinh trấn Quảng Nam, thành trì của Chiêm dinh đêm này đèn đuốc sáng trời. Quân lính sau một ngày vây bắt tụ họp về bao quanh tầng tầng lớp lớp. Toán hạ nhân bị bắt giữ về vẫn còn đang được tập hợp giữa sân. Ngoài thành, thân nhân người bị bắt lẫn kẻ tò mò tụ hợp xôn xao. Sự ồn ào lan truyền trong cả vùng đất đêm này dường như không ngủ.

Quan viên, tông thất, thương nhân, trưởng làng, trưởng tộc đồng loạt bị bắt giữ. Một cú đánh giáng xuống tất cả mọi thành phần.

Gian công đường đèn thắp sáng trưng, vẫn còn nghe tiếng tra hỏi thẩm án. Để Nhã ở lại, Kỳ đi đến trước cổng công đường, nghiêng người nhìn vào. Quỳ trước Nguyễn Phúc Nhuận và Trấn thủ Nguyễn Đức Bảo là hai khuôn mặt danh tiếng lẫy lừng tại thị thành Hội An: Triệu Thành và Mặc Huyền. Hai lão đại đã bị bắt giữ, chẳng trách người tập hợp ngoài thành đông đến thế.

Nàng ta trốn đi cũng phải, nhìn cảnh tượng xung quanh, Kỳ lại nghĩ thầm. Nếu có mặt ở đây, khó mà sống nổi.

Chỉ sống thôi, cũng đã là không thể. Trên một tấc đất nơi này, đều là không thể.

Trên một dải đất kéo dài từ Trấn Ninh đến Phú Yên, cơn bão đã quét qua.

Tin cấp báo về cuộc vây bắt đến phủ chúa vào lúc cuối ngày. Vẫn chưa biết kết quả, nhưng tin tức đã chính thức báo hiệu cho một cuộc thanh trừng khác ngay tại Phú Xuân. Phủ đệ của những quan viên nghi ngờ liên quan đến anh em Nguyễn Phúc Huệ bị bao vây khám xét. Lệnh giới nghiêm được đặt lên toàn thành trong lúc chờ lời khai từ Quảng Nam. Những quan tướng vội vã trở về khi nhận được tin tức từ Bình Thuận càng bất ngờ hoang mang trước diễn tiến đang xảy ra tại triều đình.

Vị chúa vẫn chưa cho gọi bọn họ vào triều, ngoài một vài thân tín. Buổi thiết triều đầu năm, cúng tế tông miếu vẫn được tổ chức theo nghi lễ nhưng nhanh chóng kết thúc. Tin tức về cuộc nổi loạn của Nguyễn Phúc Huệ phủ một đám mây u ám lên triều đình. Cùng với sự lo lắng, nhiều người đâm ra nghi ngờ lẫn nhau. Cuộc vây bắt ở Quảng Nam mới bắt đầu, cuộc khám xét ở Phú Xuân có vẻ ngoài êm ả lại sóng gió hơn gấp bội.

Bất chấp màn đêm và mưa dầm, lính đổ ra phong tỏa các nẻo đường, bao vây các khu dinh phủ bị tố cáo, dẫn giải người về phủ chúa. Vị chúa không chờ đến buổi sáng họp triều, tự tay phê chỉ khám nhà bắt người ngay trong đêm, khiến thành Phú Xuân kinh động.

Tiếng động của ngàn vạn con người lan đến cả khoảng đất vắng vẻ bên núi Ngọc Trản. Cạnh ngôi đền thờ Thánh Mẫu Thiên Y A Na, một khu nhà mới được dựng, là nơi giam lỏng gia đình nhà vua Bà Tranh của Chiêm Thành. Ánh lửa cùng tiếng ồn hắt vọng đến bên kia dòng sông khiến người trong khu nhà phải ngoái đầu nhìn ra.

Nhà vua Bà Tranh cùng vương phi Bà Ân đêm này cũng không ngủ. Mặc trang phục như một cặp vợ chồng Nam Hà, tay nải để sẵn một bên, cả hai người giật mình khi nghe tiếng ồn ào vọng tới. Nhìn về phía phủ chúa cùng khu thành thị bên cạnh, vương phi Bà Ân lo lắng kéo tay chồng.

“Chúng không đến đây.” Nhìn hướng ánh lửa, vua Bà Tranh lắc đầu, trấn an vợ. “Chúng có chuyện ồn ào càng tốt, càng dễ cho ta trốn đi. Cơ hội chỉ có một.”

Tất cả lính canh trong ngoài, lớp bị xông hương, lớp bị đầu độc mê man, cơ hội cho bọn họ trốn thoát chỉ có duy nhất đêm này. Dù có việc gì xảy ra, họ cũng phải nhanh chóng đào thoát.

Dưới bến, vài chiếc thuyền nhẹ xuất hiện, đưa theo một toán chừng chục người cập bến. Một kẻ trong bọn huýt lên một tiếng lanh lảnh. Nhận được ám hiệu, vua Bà Tranh và vương phi vội vàng rời khỏi khu nhà, định đi xuống bến. Chân họ vừa đặt lên mép cổng ngoài, một giọng nói êm ái đã vọng sau lưng.

“Quốc vương, đêm đã khuya rồi mà còn đi đâu thế?” Xuất hiện từ trong bóng tối, người thanh niên áo tía bước về phía ngọn đèn leo lắt đầu hè, mỉm cười với hai người đứng chết trân trước cổng. Đưa mắt nhìn xuống đồi, Nguyễn Phúc Chu nhún vai. “Khách đến thì nên mời vào nhà nói chuyện mới phải.”

Cậu thanh niên phác tay áo rộng. Cùng lúc, tiếng loạt soạt vang khắp bốn phía đồi. Lớp lớp lính tráng tay cầm cung lắp tên, súng và gươm giáo chĩa xuống đoàn thuyền vừa cập bến. Toán người vừa tới thấy thế vội rút vũ khí phòng ngự. Chỉ huy toán quân kia hét một hồi dài bằng tiếng Chiêm Thành, dường như muốn chiêu hàng.

“Ngoài này ồn ào phiền nhiễu, chẳng bằng vào trong nhà nghỉ ngơi?” Nguyễn Phúc Chu vẫn cười nói. Như bị thôi miên, vua Bà Tranh cùng vương phi cứng nhắc đi vào theo cậu ta. Ngồi xuống bàn trà giữa nhà, cậu chúa trẻ thành thục rót trà ra ly, đẩy về phía vua Bà Tranh. “Ta vừa từ đền về, ngày lễ tết cũng nên tỏ lòng thành kính với Thánh Mẫu.”

Trà đã lạnh ngắt. Lời nói của vị chúa trẻ lẫn với tiếng huyên náo vọng từ dưới đồi lên. Vua Bà Tranh thẳng lưng mà ngồi, không biết đáp lời ra sao. Chống tay nghe ngóng một lúc, Nguyễn Phúc Chu chợt bật ra tiếng cười khẽ.

“Trà này hẳn có thuốc mê rồi.” Cậu thanh niên búng tay vào thành ly trà, nói nhẹ tênh. “Trước là làm thân với người có nhiệm vụ canh giữ nơi này, sau là mua chuộc lợi dụng để lọt vào liên lạc, đem cả mê hương mê dược cho quốc vương sử dụng. Bên ngoài thì mua chuộc lính tráng, dò đường tìm lối đưa quốc vương luồn sông, theo vùng Thượng mà về. Bao nhiêu công sức như vậy, hẳn khó khăn lắm.

“Bọn họ hẳn đang nóng lòng chờ quốc vương.” Nheo mắt, Nguyễn Phúc Chu chợt đổi giọng. Gương mặt Bà Tranh càng sắt lại như đá. “Chiêm Thành có thể thắng một hai trận, khó có thể giữ lâu dài. Muốn thắng một hai trận thì cần tướng giỏi dùng binh, muốn giữ lâu dài thì cần phải có vua được lòng người. Trước đây quốc vương có điều sau lại không có điều trước, bây giờ nhóm người ấy có điều trước lại chẳng có điều sau. Chỉ nội một Kế Bà Tử đã khiến Chiêm Thành lui quân, dằng dai càng không có lợi.

“Muốn giữ lâu dài đã thế, muốn thắng vững chắc thì lại càng phức tạp hơn. Cho nên bọn họ đã phải đưa người liên lạc câu kết khắp nơi, với đủ mọi loại người, từ tù trưởng đến lão đầu ở Quy Ninh, cho tới vương tôn quý tộc, định lật đổ cả ta. Kẻ kia ra tay tưởng cũng chu toàn lắm. Một khi loạn đã nổi lên, lan khắp phía Nam Hải Vân, ta cũng khó mà giữ mạng.

“May mà ta đã ra tay trước một bước. Trước tiên là trừ diệt đám người làm phản kia, sau là diệt mầm hậu họa.” Xoay ly trà trong tay, Nguyễn Phúc Chu chăm chú nhìn Bà Tranh, nụ cười kỳ lạ vẫn ở trên môi. “Còn toán quân ở Bình Thuận, quốc vương có định theo ta chiêu an bọn họ không?”

“Lời nói của ta e rằng cũng không có giá trị.” Im lặng hồi lâu, vua Bà Tranh chậm chạp đáp. Nguyễn Phúc Chu nhè nhẹ gật đầu.

“Nói cũng phải. Vua chúa nói cho cùng cũng đâu có quan trọng lắm? Nhưng dù chỉ một lời nói, quốc vương cũng đâu có định nhượng bộ cho ta?” Trầm giọng, vị chúa trẻ nói như một tiếng thở dài. “Quốc vương nói một tiếng hòa hoãn, cũng phải có đôi kẻ nghe lời. Bằng quốc vương cứ tìm cách trốn đi, bọn họ lại chẳng càng nóng lòng sốt ruột muốn giải cứu ông? Chẳng ai nhượng bộ ai, loạn càng thêm loạn.”

“Quốc vương cứ nhất định không hợp tác, chỉ e bất lợi càng nhiều.” Thấy Bà Tranh không trả lời, Nguyễn Phúc Chu lắc đầu. “Ngày nay ta trừ diệt phản loạn, đánh đuổi quân xâm phạm, đều là việc lớn vì quốc thái dân an. Mà tội cấu kết với bọn phản nghịch mưu toan hại nước của quốc vương càng lớn hơn việc ông dẫn quân đánh Bình Khang nhiều. Món nợ máu của quân tướng tại Bình Thuận, chỉ e quốc vương không gánh nổi.”

Càng nói, giọng Nguyễn Phúc Chu càng đanh. Tiếng ồn dưới bến sông bùng vỡ rồi im ắng dần. Như thể toán người xâm nhập đã bị trừ diệt hoặc khuất phục hoàn toàn.

Trong bóng tối chập chờn, nụ cười mỏng tang chợt thoáng qua gương mặt già nua của nhà vua Chiêm quốc.

“Ta không gánh nổi tội phản nghịch với các người thì làm sao gánh nổi tội phản nghịch với nước ta?” Nhà vua Bà Tranh điềm tĩnh gật đầu. “Tùy các người phán xử.”

Nguyễn Phúc Chu im lặng. Vị chúa im lặng một khoảng thời gian dài. Đến khi viên tùy sai tới ngoài cửa báo cáo kết quả vây bắt, cậu ta mới đứng lên.

“Uống trà này để ngủ một giấc cũng tốt.” Không ngoảnh đầu, Nguyễn Phúc Chu nói qua vai trước khi rời khỏi phòng. Phía sau, nghe vọng lên tiếng khóc thảng thốt của vương phi Bà Ân.

Tiếng động chìm vào màn mưa dệt trắng đất trời.

Tháng giêng năm Giáp Tuất, vua Bà Tranh qua đời tại nơi giam giữ trong núi Ngọc Trản, được hậu táng theo lễ đại thần.

 

 

Chú thích:

[1] Chức Tể tướng hay Tướng quốc giữ địa vị đứng sau vua được gọi bằng nhiều tên khác nhau. Ở Trung Quốc, Minh Thái Tổ đã bãi bỏ chức vị này, phân quyền cho các Nội các đại học sĩ. Ở Việt Nam, Lê Thánh Tông cũng đã bãi bỏ chức này, Lê TươngDực mới đặt lại chức này cho Nguyễn Văn Lang, từ thời Lê Trung hưng về sau, chúa Trịnh tiếm ngôi vương, không còn chức Tể tướng.




Hồi 49: Cuộc săn
Sunday, October 7, 2012 Author: Trường An

“Giang hồ túy khách. Đầu bôi khởi vũ di ô trách. Tam canh lãnh thúy triêm y thấp. Niểu niểu lăng ca, Thôi tàn bán xuyên nguyệt.

Không hoa tạc mộng hưu tầm mịch. Vân đài Lân các câu trần tích. Nguyên lai chỉ hữu nhàn nan đắc. Thanh sử công danh, Thiên khước vô tâm tích.”[1]

Đèn thắp sáng các dãy nhà xây thành hình chữ Hồi quanh khoảng sân nhỏ. Đêm đã về khuya, người đã vãn, trong sân chỉ còn vài người hầu đứng canh đêm. Có tiếng lách cách của sứ va đập vào nhau, khi tiếng ngâm nga vọng ngân dài.

Trong gian nhà chính, vài vị khách vẫn còn nán lại quanh cô đầu đang kẹp hai chiếc ly sứ trong bàn tay, vừa đánh nhịp vừa ngâm một bài từ phương Bắc nhưng mang mác hơi ai của điệu Nam. Trên bàn giữa phòng có một bình bát bằng thủy tinh nho nhỏ, đựng một mầm thủy tiên đang ra nụ. Nụ hoa đã xé nang, cánh hơi hé nở. Con lắc của chiếc tự minh chung vẫn đang đều đặn kêu tích tắc, kim dần chuyển về con số nằm giữa vòng tròn.

Đã qua ngày tết, bình thủy tiên này nở muộn, cũng không được người trong phòng chú ý lưu tâm. Chỉ có cô gái mặc áo lễ đỏ xé gấu như đang chịu tang khoanh tay trên bàn, chăm chú nhìn những cánh hoa chậm chạp chuyển động. Ở phản bên kia, người đàn ông trung niên cùng với một thanh niên trẻ lặng lẽ uống rượu nghe hát.

Chiếc tự minh chung đánh một hồi chuông, cô gái chỉ chớp mắt, trong khi hai người đàn ông bên kia như cùng hẹn mà ngẩng đầu nhìn ra phía cửa.

Thân tại giang hồ, tâm tồn ngoại khuyết[2].” Thấy cử chỉ ấy, cô gái bật cười. Đưa mắt nhìn lại bình hoa, nàng chợt vỗ tay reo. “Hoa nở rồi này!”

Vốn từ giao thừa đến giờ, đêm nào nàng ta cũng đem hoa thủy tiên vào phòng chờ nở, hai người kia không ai để ý, chăm chú lại vào bóng đêm chập chờn ngoài cửa. Đã nửa đêm, kẻ mà hai người chờ đợi vẫn chưa xuất hiện.

“Thôi, đi nghỉ đi.” Ngoảnh sang cô đầu vẫn còn hát, người thanh niên trẻ nói. Cô gái cúi mình tạ ơn, cất đàn rồi rời khỏi phòng. Bên kia, hoa đã nở hết, cô gái áo đỏ cũng đứng dậy, xoay vai đã mỏi.

“Ta về phòng đây, chừng nào họ đến thì gọi ta.” Không chờ hai người kia lên tiếng, nàng đã đi về phía cửa ngách thông sang dãy nhà sau. Còn lại hai người đàn ông, vò rượu lại được nhấc lên chuyên vào chén.

“Đêm nào cũng đợi người, quả có đôi phần cực nhọc.” Tiếng vòng xuyến của cô gái đã im hẳn, Nguyễn Phúc Huệ cười nói. Gã có thói quen cư xử nhã nhặn lịch duyệt, tự xem như mình có trách nhiệm phải đỡ lời cho người cô họ.

“Chỉ còn đêm nay nữa, ta có thể khởi sự.” Không còn ai xung quanh, Linh lão liền hạ giọng nói. “Phú Yên ở nơi xa nhất, về trễ cũng phải. Người ở nơi ấy cũng phức tạp, khó thuyết phục, còn chưa biết kết quả thế nào.”

“Quan trọng vẫn là việc nơi này.” Nhấp môi chén rượu rồi đặt xuống, Nguyễn Phúc Huệ âm trầm nói. “Chỉ cần khống chế được Quảng Nam, Quy Ninh, quân phía Nam như rắn mất đầu cũng sẽ tự vỡ. Chính dinh cách xa một dãy Hải Vân, phản ứng thế nào cũng chậm mất một bước. Chiếm được lợi thế, ta kêu gọi người thì chẳng ít kẻ hưởng ứng gây rối loạn ngay tại Phú Xuân.”

“Ta lại lo rằng có nhiều kẻ chỉ giỏi ba hoa bốc phét lẫn ngông cuồng ảo tưởng chứ thực chất chẳng mấy thực tài thực dụng.” Thở ra, Linh lão nhẹ lắc đầu. “Thời bình quá lâu, lại sinh ra bọn no cơm ấm cật, đọc lắm thứ hư trương khoe mẽ, học toàn thứ kinh sách hủ lậu, lại như Triệu Quát bày binh trên giấy mà tưởng mình tài ngang Tôn Tử; không thì cũng là loại chẳng biết trời cao đất dày, thấy thiên hạ không loạn không vui. Lúc thấy ồn ào thì chúng nhảy nhót cổ vũ, góp vào ăn hôi; lúc thấy nguy hiểm thì im thin thít, lặn mất không hơi sủi, bằng không thì cũng là bọn làm loạn ăn hại. Bọn người ô hợp thì cũng đủ loại hỗn tạp, trông chờ vào chúng chẳng được đâu.”

“Nên ta mới nói, kiểm soát được nơi này là việc trước hết.” Nguyễn Phúc Huệ lành lạnh trả lời, không tỏ vẻ tán đồng hay phản đối với lời của Linh lão. “Trước là hạ thành, khống chế đất đai, sau là tập hợp người. Ngày xưa chúa Thượng, chúa Sãi còn có các lão tướng, tông thất chống lưng, làm danh nghĩa chinh phạt phản loạn, chứ bây giờ Phúc Chu có gì? Dòng dõi Chiêu Vũ hầu, Nguyễn Hữu Hào bị chính cha cậu ta biếm truất. Nguyễn Hữu Oai giờ đang kình chống Chiêm Thành ở Bình Khang, lui cũng dở, tiến không xong. So về danh nghĩa kế vị, ta mới là dòng chính. So về thời thế, mấy năm lên ngôi, Phúc Chu đã làm được gì ngoài xáo tung mọi sự lên, cha cậu ta cũng chẳng hơn gì? Sự việc đến ngày hôm nay, thành mất quân bại cũng do cậu ta hàm hồ gây ra. Ta bây giờ đàm phán được với Chiêm Thành, nghiễm nhiên chiếm được uy tín trong mắt vô số kẻ. Ai muốn vì cái mảnh đất cát của Chiêm quốc mà hao binh tổn tướng? Ai muốn tài sản lọt hết vào tay triều đình vì cái trò đổi tiền kia?”

“Có thể, nếu cậu ta hướng được người theo ý mình.” Nhìn lên Nguyễn Phúc Huệ qua vành chén rượu, Linh lão phảng phất cười. “Thật ra, cũng tương tự như ta nói về đám người rảnh rỗi ảo tưởng kia thôi.”

Nguyễn Phúc Huệ nhíu mày. Trước khi gã trả lời, tiếng người đã xôn xao ngoài cửa. Lính canh cửa đưa vào một người mặc áo chẽn, xà cạp quấn ngang bắp chân còn lấm bụi đường. Cúi đầu trước chiếc phản hai người đang ngồi, gã dâng lên một phong thư được giấu trong xà cạp. Nguyễn Phúc Huệ mở thư đọc rồi chuyển sang cho Linh lão đầu. Người đàn ông trung niên không vội đón lá thư, chỉ chăm chăm nhìn kẻ vừa đem thư tới.

“Ngươi vừa từ Phú Yên đến? Đi mất mấy ngày?” Linh lão chợt hỏi. Vẫn cúi đầu, gã đưa thư trả lời bằng giọng khàn khàn.

“Thưa, tôi đi chừng mười ngày…” Câu còn chưa nói hết, ánh thép lạnh chợt lóe ngang phòng. Từ trong tay áo Linh lão đầu, một thanh đao nhỏ nhắm thẳng mặt gã đưa thư phóng tới. Như đã chuẩn bị trước, gã ngả người ngược về phía sau tránh, rồi nhảy hẳn sang bên.

“Gian tế.” Rút đại đao để cạnh, Linh lão đầu đứng dậy, nghiến răng nói với Nguyễn Phúc Huệ vẫn còn giật mình ngơ ngác. “Đi chừng ấy ngày mà áo quần vẫn còn dính đất cát Phú Yên? Là chúng lột trang phục của người liên lạc thật, đem đến nơi này cho gã.”

Vừa nói, Linh lão đầu vừa xông tới gã đưa thư đã lựa lối nhảy về phía cửa định đào thoát. Đao sáng như gương, sát khí ào ạt ập thẳng vào lưng kẻ đã đặt chân lên cửa, gần như muốn xẻ gã làm đôi. Cúi gập mình tránh đao, gã đưa thư lăn tròn ra sân. Từ trong tay áo gã, con dao mỏng như lá lúa được nối với xích sắt phóng xuất nhằm ngực Linh lão đầu bắn tới. Nhân lúc ông ta hươ đao gạt ngang con dao, sợi xích sắt mượn lực quay vòng, bắn thẳng về phía hai người canh cửa. Một người bị dao cắt trúng mặt, ngã xuống rên rỉ, một người vội vàng nhảy ra sau, cuống quýt chạy đi gọi người. Vẫn trong tư thế nửa đứng nửa ngồi, gã đưa thư chống tay búng người lộn qua cửa vẫn còn mở, đá hai cánh cửa đóng lại, vừa lúc đỡ được nhát chém của Linh lão đầu.

Bên ngoài khoảng sân lập tức dấy lên một chuỗi tiếng ồn. Nguyễn Phúc Huệ vẫn đứng trong phòng, lo lắng nhìn qua cửa. Nhưng ánh mắt gã hướng lên bầu trời xa xa phía bên kia tường phủ, dường như có thể thấy ánh lửa hắt đến đâu đây.

Có gian tế, vậy thì có kẻ nào đó đã biết được sự việc. Lá thư này có đầy đủ dấu ấn lẫn mật khẩu nhận diện, hẳn không phải là giả. Chuyển nó đến đây, kẻ kia có mục đích gì?

Một khi đã bị lộ, chuyện gì sẽ xảy ra?

Nguyễn Phúc Huệ không phải thắc mắc lâu, khi một cơn ớn lạnh đột nhiên chạy dọc sống lưng. Thân thể đột nhiên mất hết sức lực, khiến gã ngã nhào xuống giữa phòng. Cùng lúc, tiếng động bùng vỡ ngoài khu phủ đệ. Tiếng động như của một đội quân đang tràn tới bao vây bốn phía.

Hỏng rồi, bíu tay lên thành cửa, Nguyễn Phúc Huệ chỉ còn kịp nghĩ đến điều cuối cùng ấy trước khi chìm vào bóng tối.

Bên ngoài, Linh lão đầu ngừng chân truy đuổi gã đưa thư mềm dẻo như một con lươn đã chạy loanh quanh giữa những dãy tường. Ngay lập tức, ông ta hiểu ra điều đang xảy tới. Cũng hầu như ngay lập tức, người đàn ông dày dạn trận mạc này hiểu điều tiếp theo: Bốn phía đã bị bao vây, thậm chí có thể vòng phong tỏa đã nối đến tận cửa Đại Chiêm.

Linh lão đầu vội quay về gian nhà chính, vừa đến cửa đã nghe tiếng la hét hoảng loạn của đám hạ nhân. Nguyễn Phúc Huệ miệng sùi bọt trắng, nằm vật giữa phòng. Đám người trong phủ vốn thấy quan quân đột nhiên ập đến nên chạy vào báo chủ nhân, thấy tình cảnh này càng sợ hãi hơn bội phần. Nghe tiếng gọi của người ngoài cửa, có kẻ đã mắt la mày lét tìm cửa sau đào thoát.

Chỉ ngẩn người một khắc, Linh lão đầu cũng len qua cửa ngách chạy về gian nhà sau. Nữ giới trong phủ nghe ồn ào đã tụ ngoài hiên nghe ngóng. Đèn trong hành lang vẫn chưa được thắp lại, Linh lão men theo bóng tối mà đi về phía căn nhà cuối dãy. Âm thầm đứng đợi một lúc, ông ta mới thấy cánh cửa phòng mở hé. Cô gái áo đỏ vẫn mặc trang phục buổi tối, thêm một áo khoác đi đường dày, không đốt đèn mà mở cửa đi ra hành lang. Nàng không nhận biết sự có mặt của Linh lão, ngẩng đầu nhìn qua tường phủ đến ánh lửa hắt sáng trời. Trăng thượng huyền mờ tỏ soi trên gương mặt bình thản đến lạnh lùng của nàng trước sự việc đang xảy tới.

Khi lưỡi đao lạnh ngắt chợt kề lên cổ, nàng chỉ giật mình, không kêu một tiếng.

“Công nữ, làm phiền.” Linh lão thấp giọng nói, lưỡi đao sắc vẫn kề sát cổ cô gái. “Chúng ta ra khỏi đây.”

“Lão gia nghĩ bọn họ sẽ nể mặt ta?” Liếc mắt nhìn lại, Như Yên cười khẽ. “Ta e rằng với đám người ngoài kia, cả ta là ai, họ cũng không biết.”

“Ta tin rằng chúng biết.” Giọng Linh lão đầu vẫn lành lạnh, không lộ chút cảm xúc. “Vì chúng là thuộc hạ của công nữ.”

“Kẻ từ Phú Yên đến hôm nay, ngoại trừ chủ nhân của gã, chỉ có ta, công tử và công nữ biết. Công tử bị hạ độc, vậy thì ai là kẻ báo tin cho người bên ngoài?”

Như Yên nghe lưỡi đao ấn mạnh hơn vào cổ, dường như đã cứa vào da. Vẫn giữ nụ cười trên môi, nàng lắc đầu.

“Ngay cả nếu là ta, ta đã đứng nơi đây, đã làm việc này, liệu có thể thoát tội sao? Giết kiểu gì cũng là giết, tội thế nào cũng là tội, bọn họ có thể vì ta mà thả một con mồi lớn như lão gia không?” Nhè nhẹ bĩu môi, nàng cười nhạt. “Nhưng thật ra ta cũng chưa muốn chết, nên thử cùng lão gia tìm cơ hội đào thoát một phen vẫn hơn.”

Vừa nói, nàng đã dợm bước đi, bất chấp lưỡi đao vẫn kề trên cổ. Linh lão sau một khắc ngần ngừ liền bước theo nàng. Cắt ngang qua khoảng sân tối, hai người tới cửa hậu viên nằm sau một giàn cây khuất mắt nhìn. Linh lão hươ đao phá gãy khóa cửa, đẩy Như Yên ra trước. Hai người vừa ra khỏi cửa, những bóng đen đã xuất hiện trước mắt như mọc lên từ trên đất.

“Ta là công nữ Ngọc Phương.” Không đợi Linh lão phản ứng, Như Yên đã rành rọt nói, giơ thẻ bài của Nguyễn Hữu Oai ra trước, ném về phía kẻ đứng gần nhất. Thấy nàng bị uy hiếp, toán người bao vây không tiến tới. Linh lão thấy vậy liền gằn giọng.

“Tránh ra, không ta giết cô ta!” Dưới trăng, lưỡi đao thép lóe ánh sáng lạnh ghê người. Kẻ đứng đầu toán bao vây sau một hồi ngần ngừ liền vẫy tay ra hiệu cho họ lui xuống, để trống một khoảng cho Linh lão kéo Như Yên thoát ra. Khoảng đất này nằm cạnh bờ sông, Linh lão tùy tiện lấy một chiếc thuyền gần đó, đẩy chèo xuôi theo dòng nước. Có tiếng lao xao của đám lính trên bờ, dường như có thuyền đuổi theo. Nhưng đến khúc sông rộng, nước xiết, thuyền chạy trốn bị cuốn phăng phăng đi mất dấu.

Đến lúc không thấy một bóng thuyền bè hay ánh lửa bốn bên sông, Linh lão mới hạ đao xuống, nhìn quanh tìm dây trói. Thấy cử chỉ ấy, Như Yên bật cười.

“Ta trói gà không chặt, quá lắm cũng chỉ nhảy được xuống sông, việc gì phải thế?” Nàng nói, nhưng Linh lão không để lời nào của nàng vào tai, với đao quặc lấy sợi dây buộc thuyền. Thấy vậy, Như Yên thở ra, đổi giọng. “Chúng ta hợp tác được không, lão gia?”

“Lão gia dùng ta thì có thể trốn khỏi đây, nhưng còn gia đình, thuộc hạ, sản nghiệp của lão gia ở Quy Ninh thì sao?” Nàng khoanh tay nói, thấy Linh lão ngừng tay, nhìn sang nàng. “Một khi đã đánh rắn dập đầu, biết lão gia bắt cóc công nữ đào thoát, lệnh bắt lại chẳng được đưa đến Quy Ninh? Mà có khi lệnh đang được chuyển đến Quy Ninh cùng lúc rồi đấy thôi. Lão gia bây giờ có thoát ra cửa Đại Chiêm thì cũng chẳng cập được bến Thị Nại, giữ được mạng thì cũng chỉ đi làm hải tặc. Chẳng bằng tha cho ta một mạng, người của lão gia được cứu?”

Càng nghe nàng nói, mắt Linh lão đầu càng nheo. Khi nàng ngừng lời, một lúc sau ông ta mới mở miệng.

“Bằng cách nào?” Nàng ta đã không phủ nhận việc mình là gian tế. Việc ấy cũng chẳng phải là vấn đề cấp bách nhất lúc này. Ta cũng không muốn chết, nàng nói, lại có mấy phần chân thực. Một kẻ hai mang như nàng, gây thù chuốc oán vô số, dễ dàng bị lợi dụng lẫn triệt hạ, có khi đến thời khắc cuối cùng lại tìm cách trốn thoát cũng không lạ. Nhất là với tính cách của nàng.

“Ta có cách liên lạc riêng.” Như Yên chỉ tay lên trời. Nàng lấy trong tay áo ra một ống trúc nhỏ, đưa lên môi thổi không thành tiếng. Từ trong rừng tối, một bóng chim đen tuyền bay ra, đậu lên mui thuyền trước mặt nàng. Gại ức con chim đen, Như Yên cười. “Chim bay vẫn là nhanh nhất. Được tin báo trước, người của lão gia thu xếp lánh đi, rừng còn thì lo gì thiếu củi. Người của ta chắc chắn không muốn ta bị hại, sẽ làm theo ý lão gia thôi.”

“Vậy thì viết đi.” Linh lão lạnh lùng nói như ra lệnh. Đưa mắt nhìn ông ta, Như Yên cũng chỉ nhún vai. Nàng lấy khăn tay lụa trong mình, cắn đầu ngón tay viết mấy dòng ngắn gọn, buộc vào chân quạ. Xong việc, nàng mỉm cười.

“Lão gia thả tiểu nữ được chưa?” Vừa rịt vết thương trên tay, nàng vừa thản nhiên nói. Không đợi người đàn ông trả lời, nàng đã nói tiếp ngay. “Cần có một lá thư thứ hai để họ hành động. Bằng không, tin sẽ được chuyển ngay tới thành Đồ Bàn. Lồng chim thứ hai nằm ở dinh trấn Quảng Nam.”

“Cô gài bẫy ta?” Nghe thế, Linh lão đầu nghiến răng nói. Như Yên nhìn lên, nhướng mày rồi bật cười.

“Dù sao thì kết quả cũng chẳng khác, ta lừa lão gia làm gì? Ta chỉ cầu mạng, rất thẳng thắn công bằng.” Ngừng một lát, nàng nói thêm. “Dù sao thả lão gia đi chẳng phải là không có lợi.”

Linh lão đầu im lặng. Trăng đã hạ về phía bên kia núi. Dòng sông mở rộng khi chảy về phía cửa biển. Linh lão đột nhiên chống chèo, đẩy thuyền đi vào một nhánh sông nhỏ. Như Yên cười trong cổ, không ngạc nhiên.

Nơi này sông ngòi chằng chịt lẫn với đất hoang, có thể dễ dàng lẩn lút ẩn trốn, dễ dàng hơn là gây chuyện ở cửa Đại Chiêm. Một khi truyền được tin sớm cho đám thuộc hạ ở Quy Ninh, Linh lão không cần gấp gáp trở về.

“Cô là người dàn xếp tất cả?” Khi trăng đã chấm đầu ngọn núi cao, thuyền đi giữa hai bờ lau lách, Linh lão chợt hỏi. Giọng ông ta đã bớt dần sự giận dữ phẫn nộ kềm nén lúc trước, gần như tò mò. Ngồi dựa khoang thuyền, Như Yên bứt một cọng cỏ bên bờ, nụ cười vương vất khóe môi.

“Lão gia muốn ta trả lời thế nào?” Nàng vừa lấy làm lạ vừa thầm khâm phục người đàn ông này. Trước tình cảnh này, ông ta vẫn giữ được bình tĩnh. Có thể, khi chuẩn bị sẵn tinh thần ‘thắng làm vua, thua làm giặc’, ông ta đã lường trước những nguy cơ sẽ xảy ra, kể cả có mất đi tất cả. Giặc loại nào cũng là giặc, ông ta chẳng ngại trở thành kẻ đối đầu trong tối hay ngoài sáng với triều đình.

Nên nàng đã dễ dàng quyến dụ ông ta tham gia với Nguyễn Phúc Huệ - dù có qua trung gian là Chiêm Dao Luật hay Ngô Lãng. Một ý định được nung nấu quá lâu, trở thành xác tín với người đàn ông này. Thời cơ chỉ là một dấu hiệu để ông ta vứt bỏ những cẩn trọng và lo lắng trước đây. Một khi đã chuyển hướng, không thể quay đầu.

Nên ông ta đang tò mò. Về nàng, về những gì nàng liệu định khi để ông ta cùng nhóm người của mình sống sót. Có lợi, chính lời nói ấy của nàng đã cứu được mạng mình, không phải đe dọa hay ép buộc.

Khi bình tâm nhìn lại, mọi việc thật rõ ràng. Nàng là kẻ kết nối, kêu gọi và tập hợp những kẻ chống đối khắp nơi, kêu gọi bọn họ nổi dậy. Nhắm đến lúc thời cơ chín muồi, bọn họ đồng loạt bắt tay nhau, lập kế hoạch đánh chiếm thành lũy, cơ sở. Và nàng trở mặt, một mẻ lưới bắt gọn tất cả - Với chứng cứ luận tội rõ rành rành, đưa mọi kẻ lên đoạn đầu đài.

Theo kế hoạch, ngày mai là lúc bọn họ sẽ khởi sự. Tất cả các toán quân, nhóm người được vũ trang đã giăng khắp nơi chờ đợi. Thế lực của Nguyễn Phúc Huệ cho phép họ cài cắm người khắp nơi, có thể dễ dàng một dao giết chết quan Trấn thủ Chiêm dinh ngay tại chỗ, làm một cuộc binh biến chiếm dinh phủ. Hợp sức với quân Chiêm bên sông Phan Rang, toán quân Nam Hà ở Bình Khang dễ dàng bị nuốt trọn. Nguyễn Phúc Chu ở Phú Xuân chẳng còn một lão thần hay vương thân có uy tín vững chắc hỗ trợ, bản thân vị chúa trẻ khó lòng kềm giữ rối loạn bùng nổ ngay trong triều đình. Nếu như kêu gọi được quân Trịnh tấn công xuống Trấn Ninh, kẻ ngồi trên ngai có thể sẽ là vật tế thần đầu tiên.

Một kế hoạch gần như hoàn hảo. Chỉ có điều, đã bị dập tắt từ lúc chưa khởi đầu.

Một kế hoạch hay ho, được vẽ ra như một thứ mồi thơm, dẫn dụ đàn cá bơi vào.

Một mẻ lưới lớn, được giăng ra từ rất lâu, bằng đủ mọi phương cách, dưới bàn tay cô gái này.

Nhưng vì tất cả đã được khởi đầu từ quá lâu, quá sâu, cuối cùng ông ta lại tự hỏi có phải nàng là kẻ tạo nên tất cả? Có những kẻ thừa hành, có những kẻ sắp xếp, có những kẻ tuân phục, có những kẻ điều khiển, và có những kẻ dự liệu.

“Nếu ta trả lời không phải, lão gia có tin không?” Hồi lâu không thấy Linh lão đầu trả lời, Như Yên cười nhẹ. Nhìn ra hướng chân trời đã bắt đầu ưng ửng sáng, nàng tựa cằm lên tay giấu cái ngáp dài. Ngón tay nàng vẽ những đường vòng quanh trước mặt. “Giống như dòng nước vậy, chảy vòng quanh, có những lúc chảy ngược chảy xuôi, lúc bị vớt lên đổ xuống, rồi cũng đổ cả ra biển thôi.”

“Thật ra lão gia đang muốn hỏi, ta để lão gia cùng toán người của lão gia sống thì ‘có lợi’ gì?” Nheo mắt nhìn Linh lão, Như Yên nhếch môi. “Thỏ khôn hết thì chó săn cũng chẳng còn. Mà ăn hết cả thỏ lẫn chó thì chẳng lẽ vớt rùa, bắt ếch mà ăn? Không muốn đến lúc phải cạp đất thì phải để thỏ lại chứ, đúng không? Ăn hết đời cha rồi đến đời con, chó cũng no mà chủ cũng vui, thỏ thì vẫn sống. Thế giới này muốn sinh tồn được thì phải như thế.

“Tất nhiên, để xem lão gia có đủ bản lĩnh để không phải trở thành thỏ không đã.” Cất tiếng cười thanh thanh, đôi môi đỏ của cô gái vẽ nên nụ cười tươi như hoa. Khiến gáy của Linh lão đầu chợt lạnh đi, từng sợi tóc dựng ngược. Nhịp ngón tay lên cằm, nàng lại bĩu môi. “Thỏ hay không phải là thỏ, thật ra cũng chỉ để người ta đi săn đấy thôi.”

 

 

 

Chú thích:

[1] Bài từ Túy lạc phách của Lục Du. Cao Tự Thanh dịch:

“Giang hồ say khướt.
Ném ly dậy múa rơi khăn lượt.
Canh ba áo lạnh sương xanh ướt.
Tiếng hát vấn vương,
Giục tàn trăng đáy nước.

Đừng mong mộng thấy hoa đêm trước.
Gác khói đài mây thành bụi tất.
Nguyên lai chỉ có nhàn khó được.
Sử chép công danh,
Trời lại không lòng tiếc.”

[2] Trích Đào Nguyên hành của Phùng Khắc Khoan.





Copyright © Trường An. All rights reserved.