Solitude

Cảnh như thị, nhân như thị

Ngoại truyện: Việc cũ
Wednesday, October 16, 2013 Author: Trường An

Trong thành Hội An có một quán rượu lâu năm, tuy không trưng bảng hiệu nhưng rất đông thực khách. Quán được lập ra từ bao giờ, không mấy ai còn nhớ trong thị thành nhiều xáo động đã mấy lần đổi chủ này. Hiện thời, quán nổi tiếng vì những loại rượu ngon do chủ nhân tự làm ra, đặt cho những cái tên kỳ lạ: Pháo Hoa, Tơ Hồng, Xương Bồ… mà ai đến cũng muốn ghé qua thử một lần. Tiếng lành đồn xa, quán rượu này hầu như không khi nào vắng khách, ngay cả trong ngày lễ tết đặc biệt.

Lúc này, trong đêm giao thừa, vẫn còn khách ở trong quán. Rèm trúc rủ xuống, che khuất mặt những người ngồi trong. Quán không dán giấy hồng, chỉ cho treo đèn, cắm nêu trước cửa, trên cành nêu treo cái khánh đất cùng một dải lụa đỏ vẽ hình hoa mai. Chưa tới lúc nửa đêm, khoảng thời gian này là thời khắc tĩnh mịch nhất của thị thành ồn ã quanh năm, nghe rõ từng tiếng khánh kêu lách cách trong gió. Quán dựng khá xa cảng, chỉ nghe văng vẳng tiếng lễ tiệc của thủy thủ trên bến. Nép sau hàng cây cổ thụ, một mặt trông ra dòng nước nhỏ, quán rượu leo lét đèn trông càng cô quạnh trong đêm.

Những thực khách ở trong quán vào thời khắc này càng cảm thấy rõ hơn sự lặng lẽ ngập tràn. Mỗi người ngồi trước chén rượu của mình mà trầm ngâm im lặng. Khi rèm trúc ngoài cửa quán được vén lên, chỉ có ông lão trông quán ngẩng đầu nhìn.

“Lại là ngươi.” Ông lão có vẻ ngoài se sắt như cành mây lên tiếng, khiến vài người trong quán ngoái đầu lại, ánh mắt dừng trên khuôn mặt kỳ dị của kẻ vừa vào. Khoác một cái áo xanh bằng đoạn thủy ba, dáng người thanh tú, nhưng y lại có khuôn mặt quá mức dọa người. Những vết chém ngang dọc đan kín từng tấc da thịt, khiến đường nét của y cũng hóa thành lệch lạc quái gở tựa như y đang mang một cái mặt nạ sần sùi.

Mặc kệ ánh mắt của người xung quanh, y cà nhắc đi vào quán, ngồi vào chỗ trước quầy rượu. Quán không kê bàn, chỉ trải chiếu và đặt từng mâm riêng cho người ngồi. Ông lão chủ quán không hỏi y, ném ra một bình rượu nhỏ. Y phất tay đỡ lấy, nhẹ nhàng như đón một bông hoa.

“Mỹ Nhân Hương.” Mở nắp bình rượu, y hít hà. Không vội uống, y lấy cuộn vải đang đeo sau lưng ném cho ông lão. Ông lão mở bọc vải, lấy ra một bức tranh cuộn, nhìn nó mà im lặng hồi lâu.

“Ngươi lấy nó từ đâu?” Khi lên tiếng, giọng ông lại nghèn nghẹn. Kẻ kia chống tay lên bàn thấp, ngửa đầu uống rượu, nói mà không nhìn ông.

“Nhà kho. Bọn họ đem nó vào đó rồi chắc chẳng để ý đến nữa đâu. Từ lúc Xuân Tử ra đi, chẳng ai giữ được đồ đạc ở đấy nữa.” Y quẹt ngang miệng, cười khẽ. “Ta cũng định đem gửi đến phía Nam, nhưng chỗ kẻ kia không yên, chẳng biết có bị đốt lúc nào không. Nghĩ ra thì giữ ở đây vẫn hơn.”

“Phải rồi, chẳng còn ai ở đó nữa, đã hai mươi năm rồi.” Ông lão gật đầu lẩm nhẩm, lụm cụm đứng lên. Cẩn thận từng ly từng tí, ông phủi bụi cho bức tranh, đem nó treo lên tường. Trước ánh mắt của kẻ áo xanh, ông lão cười. “Vật dụng thì phải có lúc hư hỏng, chẳng có gì giữ được mãi, đem cho người ngắm ít ra còn giữ được trong tâm.”

“Thôi, đến lúc ông với ta chết cả thì cũng chẳng còn ai giữ đâu.” Kẻ kia khoát tay. Xa xa, một tiếng pháo đơn lẻ trả lời y. Y bật ra tiếng cười khe khẽ trong cổ. “Nghĩ cũng quái lạ, cuối cùng ta lại còn sống đến giờ này.”

“Người như ngươi chết cũng không biết hối cải, xuống địa phủ cũng chỉ nghĩ cách đi giật râu Diêm Vương, uống một bát canh Mạnh Bà là quên hết, để lại trần gian này mới khiến ngươi khốn khổ.” Ông lão quay lưng đi về phía quầy rượu, y đưa mắt nhìn theo ông, cười nhạt mà không lên tiếng.

Câu chuyện đang nói cùng bức tranh treo trên tường khiến những thực khách trong quán đâm tò mò. Bức tranh có vẻ đã rất cũ, mặt giấy ngả vàng tuy mực vẫn chưa phai. Tranh vẽ một cô gái nhỏ đứng bên hồ, bút pháp thanh thoát tân kỳ, chỉ vài nét mà họa ra bóng dáng mềm mại linh động như thực như mơ. Phía dưới tranh có đề chữ, nhưng bị nước loang vào không thể đọc được.

Uống cạn bình rượu, kẻ áo xanh vỗ vỗ tay xuống bàn, lè nhè.

“Đem Hồng Trần Túy ra đây!” Khăn đội của y trật ra, để lộ mái tóc hoa râm. Ông lão chủ quán liếc mắt qua y, rồi đem ra cho một chén rượu nhỏ bằng hạt mít. Y trừng mắt nhìn ông, ông lão nhún vai.

“Không có hơn đâu.” Nói rồi ông quay đi, để mặc y nhìn chén rượu, uống cũng dở mà không uống cũng dở.

“Rượu gì thế, ông Thắng?” Một người trong quán chợt lên tiếng hỏi. “Hồng Trần Túy, rượu mới à?”

“Không bán cho người biết võ công.” Thắng lão ở sau quầy rượu chỉ cười. “Cũng chỉ còn lại một vò, ngoài Huyền Khê hòa thượng ở Phú Xuân, không ai biết ủ nữa. Nhưng có nhà sư nào lại đi ủ rượu? Thứ rượu này hẳn là thất truyền thôi.”

“Ai làm ra nó thế?” Người khách vẫn tò mò hỏi. Thắng lão ngưng tay lau chén, nhíu mày một lúc như nghĩ ngợi.

“Cũng đã phải bảy, tám mươi năm trước rồi.” Ông gật đầu nhè nhẹ như tự nhủ với mình. “Năm ấy, Lý Tự Thành đánh vào Bắc Kinh, rồi Mãn Thanh tràn xuống, người bỏ đi cũng nhiều. Có một người đến Hội An, lúc đó người Đông Doanh cũng đang rút khỏi đây, rồi lập ra quán rượu này. Bà ấy làm ra thứ rượu Hồng Trần Túy, nhưng chẳng may mất sớm, người chủ khác tới thay thế. Quán đã đổi nhiều đời chủ cho tới bây giờ.”

“Bà ấy?” Đến lượt kẻ áo xanh chợt ngóc đầu lên hỏi. “Sao ông bảo đó là người của Cẩm y vệ? Trong cung điện nhà Minh?”

“Ai bảo Cẩm y vệ không dùng phụ nữ? Đó là một tổ chức gián điệp của cung đình.” Thắng lão cười khẽ. Kẻ áo xanh gõ ngón tay xuống bàn, rồi nhíu mày.

“Vậy sư phụ của hai tên gàn dở kia có quan hệ gì với bà ta?” Y hỏi trỏng. Thắng lão đặt lại chén dĩa lên kệ, âm vang loảng xoảng.

“Hình như là con trai của bà ấy. Khi đó ta nghe bà ấy nói có một đứa con trai, nhưng nhà chồng giữ lại, không cho đưa theo. Bà ấy lại là người bị Mãn Thanh truy giết, ở lại không khéo liên lụy đến cả nhà, thế là phải dứt áo ra đi. Hoặc là chồng bà ấy còn muốn ở lại mưu việc phục quốc. Nếu biết bà ấy ở đây mà tìm tới, hẳn chỉ có người nhà thôi.”

“A…” Kẻ áo xanh ngẩn người, y chợt cười khẽ. “Lấy pho võ công ấy khỏi thư khố nhà Minh, rồi thế gian chỉ có hai người biết, không phải là thân nhân thì còn ai? Mà ông ta chịu trăm cay ngàn đắng phục quốc, hẳn cũng muốn đưa mẹ mình về, nào ngờ đã hóa ra người thiên cổ từ lâu rồi.”

“Chẳng trách hai kẻ gàn dở kia quyết ôm theo pho võ ấy xuống mồ chứ không nhận đồ đệ.” Y tặc lưỡi lầm bầm. “Đó là một thứ xui xẻo hết biết.”

“Ngươi vẫn đến đó?” Nghe y nói, Thắng lão chợt quay đầu lại hỏi. “Trận chiến vừa rồi ở đó thế nào?”

“Mạc Cửu ở Lũng Kỳ không phòng bị, quân Đại Thành từ biên giới tràn qua đánh úp, người ở Lũng Kỳ phải lui về sông Giang Thành, dựa vào Phương Thành để phòng thủ. Từ Hà Tiên, bọn họ đánh lui được quân Xiêm. Hiện giờ Mạc Cửu dời về đóng đô ở Phương Thành hẳn rồi.” Kẻ áo xanh nhấp môi trên chén rượu, giọng lè nhè như say. “Bọn họ bây giờ tập trung phát triển Phương Thành. Kẻ lười biếng kia thấy có người lo hộ công việc thì lại trốn đi ngủ ở xó xỉnh nào không biết.”

“Có khi đã đi tu rồi.” Thắng lão lẩm bẩm. Kẻ áo xanh bật cười.

“Người như vậy thì Phật của thế tục cũng chẳng giữ được, có mà tu hú. Đọc chưa được ba dòng kinh đã ngủ gật.” Y trề môi. “Chẳng qua hắn chẳng có tham vọng ước vọng gì, lòng dạ lại nguội lạnh như băng, tự cho rằng sống một mình thì thanh thản tự do tự tại, thích làm gì thì làm. Ta nghe chuyện có cô nàng thích hắn muốn tiếp cận - ờ thì dù gì hắn cũng là thành chủ có ít của ăn của để, hơi lớn tuổi nhưng diện mạo tính cách cũng không đến nỗi – ông biết hắn nói gì với cô ta không? Hắn bảo, vì hắn nặng vía quá nên ai yêu hắn cũng chết hết, chớ dại mà lao vào.”

“Cô ta tin sao?” Thắng lão cũng cười. Kẻ áo xanh nhún vai.

“Tin hay không thì làm gì? Kẻ ấy giỏi nhất là chước thứ ba mươi sáu, ông còn lạ gì? Đến khi cô ta ôm một bụng tức cành hông thì bỏ đi lấy chồng thôi, trong khi hắn vẫn còn chẳng thèm nhớ cô ta mồm ngang mũi dọc ra làm sao. Hắn ở nay chỗ này mai chỗ khác, buồn chán thì tếch ra đảo chơi với khỉ hay theo thuyền xuống tận Nam Dương bắt cá mập, có mọc cánh mà bám theo.” Y chép miệng. “Cuộc tấn công của Đại Thành vừa rồi, có khi cũng vì hắn bỏ đi chơi mất mà ra thế.”

“Hai vị đang nói đến Hà Tiên?” Một vị khách ngồi trong quán chợt lên tiếng góp chuyện. Anh ta là một thanh niên trẻ, có vẻ dãi dầu sương gió lẫn thành thục giang hồ sớm. “Mạc lão gia vừa từ Hà Tiên đến Phú Xuân nhậm chức với chúa, tôi cũng đi theo ông ấy một quãng đường. Người hai vị đang nói hẳn là em trai ông ấy? Khi rời khỏi Hà Tiên, tôi nghe bọn họ đang chuẩn bị xây chùa Phù Dung cho mẹ Mạc lão gia, Mạc thiếu có mặt ở đấy.”

“Ông ấy không nhận đồ đệ thật ạ?” Người thanh niên lại gần kẻ áo xanh, hạ giọng hỏi. Dù gương mặt quái dị khó nhận ra tuổi, mái tóc y cho thấy tuổi tác đã lớn, người thanh niên lễ phép cười với y. Anh ta gãi đầu. “Tôi hâm mộ Mạc thiếu đã lâu, nghe hai vị có vẻ quen với ông ấy, muốn hỏi có cách nào lấy lòng ông ấy không…?”

“Muốn học võ thì đến Phú Xuân, tìm Huyền Khê hòa thượng ở chùa Pháp Vân, can cớ gì đi tìm kẻ gàn dở đó?” Kẻ áo xanh nhếch môi. “Mà ta đã nói, đó là một môn võ xui xẻo, không nên học làm gì!”

“Có võ công xui xẻo cơ ạ?” Người thanh niên bối rối cười, vẫn có vẻ không tin. Kẻ áo xanh đưa mắt cho Thắng lão, rồi nhấc chén rượu trước mặt gã thanh niên.

“Thấy nó không – Nhìn thì đẹp, nghe thì hay, ngửi mùi cũng có vẻ tuyệt, nhưng ngoài việc phá cho nát bét phủ tạng ra thì không còn tích sự gì nữa hết. Y như hắn vậy, Mạc thiếu cái gì, chỉ có cái vỏ thôi!” Y nói qua kẽ răng. “Mà nghĩ lại, ngươi hâm mộ cái gì ở hắn? Sắp hết cả đời người, ngoài chút ít võ vẽ để múa may với khỉ, một mảnh đất mai tranh nay giành ra, hắn có cái gì? Sắp hết đời người, sư không phải sư mà tục không ra tục, người không ra người mà khỉ cũng không giống khỉ.”

“Ông…” Nghe y tự dưng nhiếc móc người anh ta mến mộ, gã thanh niên trừng mắt. Thắng lão sau quầy vội lên tiếng xen vào.

“Cuộc đời cậu ta lận đận, không thể trách được. Còn môn võ ấy…” Ngừng một thoáng, ông lão lắc đầu. “Ngày trước ta cũng đi tìm Huyền Khê hòa thượng. Ông ấy bảo, võ cũng như đạo, không phải kẻ nào muốn học cũng được.

“Môn võ ấy năm xưa được lấy từ thư khố Bắc Kinh. Triều Minh vào thời thịnh vượng chinh chiến khắp nơi, mở rộng lãnh thổ tới Nhật Nam, Cao Ly, Tây Tạng, xung đột với Nhật Bản, chưa kể đến kế thừa được lãnh thổ cùng tài vật mà nhà Nguyên đem về Bắc Kinh, rồi tới những vật kỳ lạ mà Cẩm y vệ thu gom… số kỳ thư trong thư khố nhiều không kể xiết. Người tự đặt cho môn võ ấy là Việt nữ kiếm, thực chất cũng chỉ là câu chuyện kể lại, chứ không biết xuất xứ nó từ đâu.” Thắng lão gật gật cằm, lẩm bẩm nhắc lại. “Nhà Nguyên năm xưa chinh chiến từ Tây sang Đông, thật chẳng biết đã thu gom về cái gì. Môn võ này được truyền ra ngoài phần đơn giản hơn, lại hóa thành thứ gây hại cho thiên hạ. Người thích sức mạnh, yêu quyền lực, tham sân si hận, cho rằng có thể hy sinh cả cuộc đời, cả bản thân, con người vì những thứ ấy, hóa ra lại tự đem mình làm mồi cho quỷ dữ. Đến cả phần cao thâm hơn của nó, cũng chẳng mấy người hiểu được, dù hiểu cũng không làm được. Võ công đâu phải là thứ để giết người, giết người chính là hủy hoại chính mình. Võ công càng cao thâm, giết người càng dễ dàng, rồi đến chính mình cũng không còn biết đâu là mình nữa.

“Thứ đạo giáo vô vi lọt vào tay con người rồi cũng trở thành hữu loại, phân chia chỉnh đốn, phân tích trái phải – tất cả cũng chỉ vì mình. Vì ý nghĩ của bản thân mà cho rằng cả thế gian đều là như vậy. Vì có ta nên mới có người, vì có đúng nên mới có sai. Đến lúc dùng tới đao kiếm để phân định thì chẳng còn thiện ác đúng sai nào có ý nghĩa nữa.

“Thứ võ công ấy không dùng để đánh người, chàng trai.” Thắng lão móm mém cười trước ánh mắt người thanh niên. Kẻ áo xanh hừ khẽ.

“Ta đã bảo đó là thứ vô dụng, bậc nhất vô dụng.” Đã uống cạn chén rượu, y gục xuống mâm mà làu bàu. Thắng lão vẫn chìm trong trầm ngâm.

“Cầm trong tay kiếm sắc, không đâm được người thì sẽ đâm phải chính mình.” Ông nhẹ lắc đầu. “Mỗi người có trong lòng một thanh kiếm sắc, phải làm sao mới được? Vô Âm tuyệt tình, Tuyết Hoa đoạn ý. Cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt. Người ngoài thấy diệt vong là đau buồn, có khi lại chẳng phải thế.”

“Người không ra người mà khỉ cũng không giống khỉ, hỏi đau buồn chắc cũng chẳng biết.” Kẻ áo xanh bật ra một tiếng cười khẽ. Y cười như khóc. “Yêu thương một kẻ như thế thật phí công.”

“Ngươi chỉ tìm cách gỡ tội cho bản thân.” Ánh mắt Thắng lão chợt tối đi. Ông thuận tay ném cái giẻ vào y, rồi lại thở dài. “Chẳng lẽ phải giống như ngươi tự đày đọa mình mới được? Đã hai mươi năm rồi, đến Bát tuyệt cũng mệt mà buông tha cho ngươi, ngươi lại đến lượn lờ trước mặt họ, trước mặt hắn. Không ai thèm giết ngươi nên ngươi đâm bực à?”

“Tội? Ta có tội gì?” Không buồn hất cái giẻ xuống, y chỉ hé mắt nhìn lên, ánh mắt lướt nhanh qua bức tranh treo trên tường. Thắng lão cũng không trả lời y.

Người thanh niên nhìn qua lại hai người, ngần ngừ hồi lâu rồi rụt rè lên tiếng.

“Mạc thiếu có chuyện gì thế ạ?” Những lời nói mập mờ không đầu cuối từ đầu đến giờ chẳng hé lộ cho anh ta chút manh mối nào.

Kẻ áo xanh ngẩng đầu, mắt y ngầu đỏ. Y nhìn gã thanh niên một lúc rồi chợt cười. Cái cười làm khuôn mặt ghê rợn của y càng méo mó hơn.

“Có biết tại sao khu đất ấy lại có tên Hà Tiên không? Nghe đồn ở đó mỗi đêm có một cô gái hiện về trên dòng sông. Đó là người yêu của hắn ta đấy. Năm xưa, nàng ta trúng độc tưởng bỏ mình, may mà có người thân bên cạnh cứu giúp, nhưng giữ được mạng mà không cứu được hồn. Nàng ấy ngủ suốt mười năm, sau rất nhiều, rất nhiều nỗ lực của người kia, nàng tỉnh dậy. Nhưng từ đó, nàng ấy không được bình thường nữa, đến đêm lại đi lang thang, làm đủ trò quái dị. Người xung quanh hắn mới bịa ra chuyện dọa ma dọa quỷ để người ta tránh xa nàng ấy ra. Hắn đi khắp nơi để tìm cách chữa cho nàng ấy đấy.” Múa ngón tay trước mặt, y ề à kể. Người thanh niên chớp mắt.

“Thật ạ?” Tin đồn về cái tên Hà Tiên quả thật cũng tương tự như vậy.

Kẻ áo xanh phá ra cười.

“Thật hay không thật thì sao? Mọi truyện kể đều kết thúc hạnh phúc, không phải sao? Không tin ngươi cứ ra đường ngồi kể câu chuyện không có hậu chút nào, xem có ai nghe ngươi không?” Y cười khành khạch, vỗ tay lên gối mà cười. Nghe tiếng Thắng lão thở dài đằng sau.

“Y say rồi.” Có người say rồi ngủ, có người say lại đi huyên thuyên lảm nhảm giống như y.

“Ông thì biết gì?” Y trề môi, lè nhè. “Ta biết mọi bí mật trong thiên hạ, nhé. Như năm xưa Lâm Phi không chết đâu, gã bị cuốn trôi về hạ nguồn sông, bị cá sấu đớp cho một miếng, mất một cánh tay. Ở doanh trại hải tặc của Linh lão có một ả dạ xoa không hiểu sao lại thương gã, đi tìm gã khắp nơi, may sao cứu được gã. Mất tay, mất anh em đồng bạn, cả đời bị người ta lợi dụng đá qua đá lại như quả bóng, gã ủ rũ như con mèo ướt, hết cả yêu thương say đắm với Tư Tư. Giờ gã lấy ả dạ xoa, làm một cặp vợ chồng chăn dê trong núi rồi.

“Con gái của Linh lão về Quy Ninh, đã cưới chồng khác rồi, bây giờ thành bà chủ đàng hoàng. Ông có tưởng tượng được không, chính con bé im như bị thóc đó đấy, bây giờ cô ta cũng chẳng khác gì cha mình. Đợi vài chục năm nữa, cô ta tạo phản cho mà xem.

“Chính ta đem Nhã về nhé, vì vậy Bát tuyệt mới buông tha ta.” Ợ lên một tiếng, y ngã vật ra đất, vẫn còn lào thào. “Còn Xuân Tử chẳng phải ‘về an dưỡng’ gì hết, cô ta tìm cách trở về Nhật Bản tìm người. Nghĩ cũng buồn cười, cứ phải đợi hàng chục năm, sắp xuống lỗ rồi mới nghĩ đến việc hối hận…

“A… Ta cũng biết ai là chủ quán rượu này, ai mua quán này cho lão. Con vịt ốm…” Cánh tay vừa giơ lên đã rơi xuống, y ngủ mê man.

“Mặc y.” Thắng lão phẩy tay, nói với người thanh niên vẫn còn đang ngơ ngác. Ông vẫy anh ta ngồi trước quầy, rót rượu ra mời, cười hỏi. “Cậu từ Hà Tiên tới? Người nơi đó thế nào rồi?”

“Vừa rồi Nặc Thu, Nặc Yêm và Nặc Thâm làm náo loạn Chân Lạp một trận, Trần Thượng Xuyên đem quân đến Nam Vang, chắc khiến Đại Thành nổi giận nên tấn công vào Lũng Kỳ. May mà chúng tôi thủ vững, chỉ có Lũng Kỳ bị thiệt hại thôi. Mạc lão gia chôn giấu kho tàng đi cả, quân Đại Thành không lấy được nhiều.” Người thanh niên nở rộng nụ cười hồ hởi. “Tôi là người Cà Mao, cũng ít khi gặp anh em Mạc gia, nhưng cha tôi cùng tuổi với họ, kể nhiều chuyện kỳ thú về họ lắm. Chuyện Mạc lão gia đem gia quyến rời Quảng Đông, trôi dạt từ Chân Lạp sang Vạn Tuế Sơn, rồi trở về Hà Tiên lập nghiệp từ mấy sòng bạc nhỏ, thật là ly kỳ lận đận.”

“Ừ, mấy chục năm trôi dạt, vất vả lắm.” Trong đôi mắt đã bị thời gian phủ mờ của Thắng lão như có một màn sương. Ông như có điều toan nói rồi lại thôi.

Đằng xa đã vọng tới tiếng pháo. Tiếng sáo chợt vang lên, xé toạc màn đêm yên ắng, lan rộng dần. Tiếng pháo vang động khu thị thành bên dòng sông. Xác pháo đỏ bắn tung trong lửa đỏ. Từ những chiếc thuyền bên bến, vài ngọn pháo hoa được bắn lên, bung nổ rực rỡ trên bầu trời.

Thị thành chói rực ánh lửa đỏ, như vỡ bùng trong tiếng động ầm vang.

Như bị tiếng pháo đánh động, kẻ áo xanh lăn mình trên đất. Y nhập nhòa mở mắt. Hình bóng cô gái nhỏ trên bức tranh lay động như soi qua một làn nước trước mắt y.

Y đưa tay, tưởng như có thể chạm tới được nàng.

“Sắc đêm đã ửng nắng sớm, ánh bình minh hiện giữa không. Phai phôi tóc xanh bạc trắng, chẳng trả lại khách má hồng. Nào biết niên hoa ngắn, còn tranh nghiệp quả hùng. Thân như băng thoáng hiện, mệnh tựa nến trong gió.” Nhắm mắt, y lẩm nhẩm, không hiểu tại sao. Ý nghĩ như vẳng đến từ nơi nào đó, mập mờ lung linh tựa ánh nến trong quán nhỏ.

Y chìm vào giấc mộng trầm sâu, vô thanh vô ảnh của hơi rượu Túy Hồng Trần.

Vài người khách trong quán đổ ra ngoài ngắm pháo. Vài người đến quầy tính tiền cho Thắng lão, trở về phòng trọ. Họ ở đây cốt chỉ chờ hết một đêm giao thừa hiu quạnh. Người đông, lu bu một lúc, Thắng lão trở lại quầy, đem khay tiền đặt lên bàn. Người thanh niên vẫn ngồi gần đó chợt ‘a’ lên một tiếng, nhặt một đồng tiền trong khay lên ngắm nghía.

“Đây chẳng phải là tiền từ Hà Tiên sao?” Anh ta lật qua lật lại đồng tiền Khang Hy trong tay, nhíu mày, chỉ tay vào vệt đen trên đồng tiền. “Sau lần bị quân Xiêm tấn công, Mạc gia phân phối lại tiền, có một số bị lửa ám hơi vẹt mất một góc, còn dấu đây này.”

“Mạc lão gia đến Phú Xuân, Hà Tiên thành phiên thuộc của Nam Hà, có lẽ nhiều người cũng đến đây xem xét việc làm ăn rồi.” Gã thanh niên gật gật đầu. Thắng lão ngẩn người nhìn đồng tiền, rồi chợt đứng dậy, đi vội ra cửa.

Bóng người vừa rời khỏi đã mất dấu giữa phố thị ồn ào. Pháo cháy sáng những con đường lát đá, người ùa ra chật lối đi. Trước cửa nhà Hoắc gia, một đoàn lân đang nhảy múa. Tiếng chiêng trống khua rộn ràng góc phố.

Ngẩn người hồi lâu, ông lão chậm chạp trở vào quán. Người thanh niên nhìn ông là lạ, Thắng lão lắc đầu ra hiệu không có chuyện gì. Ánh mắt ông dừng ở bức tranh trên tường.

Trước khi đi khỏi, người đó đã chạm tay vào bức tranh. Cái chạm rất nhanh, rất khẽ, nhưng chỉ trong khoảnh khắc đã phảng phất như trăm năm trôi qua.

Có lẽ, kẻ ấy sẽ còn quay lại. Vì bức tranh này.

Hà Tiên đã liên kết với Phú Xuân. Những chuyện năm xưa đã được cởi bỏ. Những người năm ấy đã lần lượt mất đi, thay đổi. Chuyện năm xưa đã trở thành mây khói, không ai còn nhắc tới, ngoài vài lời tỉ tê bên trà dư tửu hậu.

Thương hải tang điền, năm tháng đã dần xóa dấu xưa. Thương ghét hận cừu, tất thảy đều đã là chuyện cũ. Bọn họ đã có thể trở lại.

Đi trên con đường này, nhìn ngắm phù hoa trôi trong bóng lửa, như một giấc mơ xa lắc.

 




Hồi 101: Phương Thành
Thursday, October 10, 2013 Author: Trường An

Năm Đinh Sửu, chúa Nguyễn Phúc Chu lấy đất Phan Rang, Phan Rí đặt phủ Bình Thuận, cho trấn Thuận Thành lệ vào.

Năm Mậu Dần, tháng hai, ổn định được phương Nam, chúa sai Trấn thủ Bình Khang Nguyễn Hữu Kính làm Thống suất kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên; lấy Sài Côn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Ở mỗi dinh trấn, cho đặt chức quan coi sóc, các cơ đội thủy bộ tinh binh và thuộc binh canh giữ. Đất đai ngàn dặm, dân bốn vạn hộ, chiêu tập thêm các lưu dân khắp nơi về thêm, thiết lập thôn ấp phường xã, chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương, định thuế má, làm sổ đinh điền. Hai nơi người Tàu ở lập thành xã Thanh Hà ở Trấn Biên, xã Minh Hương ở Phiên Trấn, đưa tất cả trở thành dân hộ.

Năm Kỷ Mão, mùa thu, vua Chân Lạp là Nặc Thu cho đắp lũy Bích Đôi, Nam Vang, Cầu Nam, tấn công vào Đông Phố. Nguyên Nặc Thu nhường ngôi cho cháu trai được một năm rồi lại phế ông vua này, trở về ngai vàng. Thấy Đông Phố bị Nam Hà chiếm giữ, chia đất lập huyện, Chân Lạp liền chờ thời cơ phản công. Không đánh được với quân giữ Đông Phố, nhà vua Chân Lạp vừa cho đắp chiến lũy, vừa tấn công dân chúng trong vùng. Trần Thượng Xuyên đem quân Long Môn đóng giữ Doanh Châu[1], báo cho Nam Hà. Nghe tin, chúa Nguyễn Phúc Chu lại cho Thống suất Nguyễn Hữu Kính lãnh quân hai dinh Bình Khang, Trấn Biên, thuộc binh dinh Quảng Nam và quân Long Môn đi đánh Chân Lạp.

Lúc ấy, ở Đại Thành cũng đang có loạn to. Người ở Nakhon Ratchasima nổi dậy, nối tiếp những cuộc nổi loạn đòi lật đổ triều đình Phetracha. Từ tháng hai, tin đồn về một người anh em bí ẩn của vua Narai được tung ra, mở đầu cho quân dân ở thành Khorat nổi dậy. Quân triều đình Ayutthaya phải vất vả chống đỡ, hơn một năm vẫn không dẹp được.

Những tin đồn kỳ lạ lan đi khắp nơi về người lãnh đạo bí ẩn của cuộc nổi dậy tại Khorat. Khorat, thủ phủ sống còn ở phía Đông Ayutthaya cả về kinh tế và quân sự, nơi tiếp nhận những mặt hàng quan trọng từ các nguồn vùng cao đưa đến các cảng, tập trung rất nhiều thương nhân đủ mọi quốc tịch. Thành trì này bị quân nổi dậy chiếm đóng, lại không ai biết rõ thân phận của kẻ lãnh đạo bọn họ. Thế là, những tin đồn bắt đầu loan truyền: đó là anh em của nhà vua Narai, đó là thủ lĩnh của những cuộc nổi loạn cũ trốn thoát được, và thậm chí – một cuộc xâm lược của nước ngoài. Tin đồn dậy sóng nơi nơi, gây hoảng loạn đến mức hoàng tử Sorasak phải ban lệnh tử hình lập tức bất cứ kẻ nào tung tin nhảm.

Tháng mười năm ấy, Sorasak bất ngờ cho gọi hắn đến Ayutthaya. Vẫn dùng phương cách quen thuộc, cậu ta gần như cho người lôi hắn tới. Lần này, bọn họ đi không kịp nghỉ ngơi, vẻ hối hả khẩn trương lẫn sợ hãi in hằn trên khuôn mặt mọi thuộc hạ của Sorasak lẫn chính cậu hoàng này.

“Kosa Pan bị bắt rồi.” Vừa thấy mặt hắn, thậm chí không kịp gọi thuộc hạ lui xuống, Sorasak đã nói ngay. Hắn thoáng thấy vẻ sợ hãi hiếm hoi kỳ lạ trong mắt Sorasak, ngay lập tức ngờ ngợ ra lý do cậu ta gọi hắn tới.

“Okya Sombatthiban cũng đã bị bắt giữ.” Sorasak gật đầu, xác nhận ý nghĩ của hắn. Hàm răng cậu ta nghiến chặt. “Hàng chục người khác bị lão già ấy tống giam.”

Còn ‘lão già’ nào ở nơi này có quyền lực hơn Sorasak ngoài nhà vua Phetracha? Hắn nhìn khuôn mặt méo mó vì giận dữ của Sorasak, thận trọng hỏi lại.

“Có chuyện gì?” Kosa Pan và Okya Sombatthiban, hai người giữ vị trí chủ chốt trong nền ngoại thương của Ayutthaya. Cùng với cuộc nổi dậy đang xảy ra ở Khorat, chẳng lẽ nhà vua Phetracha đã nghi ngờ bọn họ?

“Ông ta muốn bảo vệ thằng nhóc đó!” Mắt Sorasak hằn đỏ, cậu ta nói như quát. “Đám phản loạn đòi lật đổ ông ta, đưa thằng bé kia lên ngôi, ông ta đi bắt quàng kẻ khác chịu tội thay cho nó!”

Quả thật bọn họ bị bắt vì liên hệ với người nổi dậy, hắn thầm nghĩ. Phra Kwan là người thừa kế trực tiếp còn lại duy nhất của nhà vua Narai, tất nhiên phải được sự ủng hộ của người theo cựu triều. Nhưng làm như thế chẳng phải là quá không khôn ngoan? Phra Kwan cũng là con trai của vua Phetracha, được vua cha vô cùng yêu mến, cơ hội thừa kế ngai vàng không phải thấp. Nói muốn đòi ngai vàng cho Phra Kwan, không bằng nói thẳng rằng muốn lấy lại ngai vàng khỏi tay Sorasak.

Cậu Hoàng thái tử này trong những năm gần đây đã xây dựng lực lượng ngày càng mạnh mẽ. Không có được sự ủng hộ của các quan lại, dân chúng còn nhớ thương triều cũ, cậu ta quay sang những thế lực bên ngoài, những thương nhân đến từ mọi quốc gia. Kosa Pan và Okya Sombatthiban chính là hai cánh tay đắc lực của cậu ta.

Nhà vua Phetracha phản ứng với điều kiện đòi lập Phra Kwan bằng cách tiêu diệt bè phái của Sorasak?

Nhà vua này vốn đã tỏ sự yêu mến rõ rệt đối với người con trai nhỏ, và dè chừng người con lớn hung hăng tham vọng chẳng khác kẻ địch. Nhưng vụ việc lần này quá lớn, ngài ta cũng chẳng thể nhắm mắt xử bừa nếu không sợ Sorasak nổi loạn.

“Một tên Đường nhân đem thư tín của bọn nổi dậy giao nộp cho lão già.” Sorasak hậm hực nói nhanh. Tay cậu ta siết lại thành nắm đấm. Rồi cậu ta đổi giọng ngay tức thời. “Lão càng điều tra càng nổi điên, muốn một lần càn quét hết lượt. E rằng sẽ chẳng có ai thoát được đâu.”

“Ngươi đến Tha Chin, tập hợp người rời đi ngay!” Sorasak ra lệnh, không để hắn kịp hỏi lại. “Nếu các người không muốn chết thì đi ngay! Ta giữ lão già không còn được bao lâu nữa, một khi đã có đủ bằng chứng, lão sẽ giết tất cả mọi người.”

“Còn ngài thì sao?” Hắn hỏi lại khi Sorasak đã quay đầu gọi người chuẩn bị thuyền cho hắn về Vạn Tuế Sơn. Sorasak cười gằn.

“Lão không giết được ta đâu. Kosa Pan sẽ không bao giờ bán đứng ta, vả lại…” Mắt Sorasak ánh lên tia điên cuồng như dã thú. “Lão còn muốn yên ổn ngồi trên ngai chơi với thằng nhóc đó thì liệu hồn.”

Hắn im lặng một lúc, rồi thở dài.

Chao wang na… thật sự… ông ấy cũng muốn bảo vệ ngài.” Hắn nhẹ giọng khi Sorasak lại quắc mắt. “Hai người con, ai lên ngôi rồi cũng sẽ giết nhau, ông ấy biết chọn ai? Ngài có đủ lông đủ cánh, trong khi đứa bé kia còn nhỏ, ông ấy muốn nó được sống, nhưng cũng muốn ngài được sống. Nó làm vua thì cũng không giết được ngài…”

“Giết thì chết chứ có gì mà sợ?” Sorasak quát lại không cho hắn kịp nói hết câu. “Nó là một thằng nhóc vô dụng, nhưng lại có được tất cả, công bằng ở đâu? Ta làm bao nhiêu thứ cho ông ta, ngai vàng của ông ta cũng do ta đoạt lấy, nhưng có bao giờ ông ta coi ta là con, đã bao giờ đối xử với ta như thằng nhóc đó?”

Chao wang na… ngài đang ghen tị.” Ngập ngừng một thoáng, hắn quyết định nói thẳng. Sorasak tung ra một cú đánh móc hàm, hắn nhanh nhẹn nghiêng người tránh thoát. Chân cậu ta lại đá lên, khiến hắn phải lùi hẳn về sau.

“Cút! Đem người của ngươi cút hết đi!” Sorasak hầm hầm chỉ tay mắng. “Đi mà giữ cái mạng mình, một mạng chết, ta sẽ bắt lão già với thằng nhóc trả gấp mười!”

Không để hắn kịp phản ứng, Sorasak đã quay đi, đóng sầm cánh cửa sau lưng. Người của cậu ta đưa hắn ra cổng. Hắn chợt quay sang hỏi anh ta.

“Người giao nộp thư cho nhà vua là ai vậy?” Những lần qua lại nơi này, hắn cũng đã biết sơ người bên cạnh Sorasak. Nhận được thư mật can hệ tới Kosa Pan, hẳn cũng không phải kẻ tầm thường.

“Anh em họ xa của mẹ chao wang na.” Người nọ thận trọng trả lời. Hắn cau mày, rồi gật đầu.

Đi ra cửa, họ chợt bắt gặp một bóng áo đen. Người phụ nữ lai Tây dương thấy bọn họ liền quỳ sụp trên đất chào theo lối của hạ nhân. Thấy cô, người cạnh hắn tỏ vẻ ngạc nhiên.

“Cô lại đưa đồ ăn tới?” Maria làm việc trong bếp cung đình, đến lúc này cô đem thức ăn tới, Sorasak chưa chắc đã nhận.

Chao wang na cho gọi.” Vẫn cúi đầu sát đất, thiếu phụ trả lời. Hắn quỳ xuống cạnh cô, mở lồng đậy giỏ thức ăn, nhìn món điểm tâm là lạ ở trong.

“Đây là món gì?” Hắn cười hỏi. Thiếu phụ trả lời mà không nhìn hắn.

“Món ăn của Phú Lang Sa.” Cô nói, hắn gật đầu, đậy lồng lại.

Chao wang na cũng biết tiếng Phú Lang Sa. Nghe nói trước đây vua Narai cho mở lớp dạy tiếng Tây dương, phải không?” Hắn nói, thiếu phụ hơi ngẩng đầu, liếc mắt qua hắn. Hắn hạ giọng nói nhỏ. “Ngài ấy thường xúc động vô cớ, nhưng cũng chẳng phải nghĩ thế thật đâu.”

“Lúc này chao wang na chắc đang buồn lắm.” Mỉm cười với thiếu phụ, hắn đứng lên, cùng đoàn người của Sorasak đi khỏi.

Ngay lúc ấy, hắn biết rằng mình sẽ không thể gặp lại Sorasak.

Kosa Pan can hệ tới cuộc nổi loạn ở Khorat có lẽ là thật, nhà vua Phetracha không thể xét xử một đại thần vô cớ. Nhưng thư do một thân thuộc bên cạnh Sorasak đưa tới, và có lẽ, ngay cả Kosa Pan cũng chỉ là thế thân cho một người khác.

Nhóm nổi loạn ở Khorat khó có thể thắng được triều đình Ayutthaya, có cố gắng cũng chỉ giữ được thành cố thủ. Loan truyền tin tức về ngai vàng cho Phra Kwan, rốt cuộc có lợi cho ai?

Những năm này, sự ưu ái của nhà vua Phetracha dành cho Phra Kwan lộ rõ, một lễ sinh nhật của cậu bé này trở thành đại hội toàn quốc kéo dài đến chín ngày. Và có lẽ, Sorasak đã không thể chịu đựng được.

Nhà vua Phetracha đã phản công. Sorasak lần này bị đòn đánh của mình dội ngược về, phải đem tất cả sinh lực ra chống đỡ nhằm giữ lấy mạng sống. Nên lần này, cậu ta cần hắn.

Hắn không tin anh trai mình có can hệ tới cuộc nổi dậy ở Khorat – nhưng dù sao, Sorasak vẫn có thể khiến mọi sự liên quan vào. Mục đích của cậu ta ngoài đánh lạc hướng mục tiêu của vua Phetracha, còn có cả phô trương thanh thế.

Hắn đem tất cả người ở Vạn Tuế Sơn và Tha Chin đi, sẽ chẳng còn nơi nào khác để đến ngoài Sài Mạt. Một khi trốn thoát, họ trở thành ‘tay chân’ của Sorasak ở ngoài biên giới Ayutthaya, đe dọa triều đình Phetracha. Ngoài lực lượng đã có, Sorasak đang ra sức giơ nanh múa vuốt, khiến nhà vua Phetracha không thể vuốt râu hùm mà đụng chạm tới cậu ta.

Đồng thời, cậu ta vẫn muốn giữ thanh thế cùng liên hệ của mình với nhóm thương nhân ngoại quốc. Sau vụ việc lần này, sự kiểm soát với cậu ta sẽ bị siết chặt. Nhưng Sorasak không phải là người chịu chấp nhận sự an bài của kẻ khác và đi đường chính đạo bao giờ.

Rời khỏi Ayutthaya, hắn và nhóm người của anh trai sẽ không bao giờ có thể trở lại. Nhưng đồng thời, cũng được bảo đảm an toàn cùng với sự tồn tại của Sorasak trong triều đình Ayutthaya.

Hắn chẳng thể làm điều gì khác cho Sorasak. Lần này, oán hận của cậu ta đã không còn có thể giải trừ.

Cuối năm 1699 theo lịch Tây dương, triều đình Ayutthaya chấn động khi nhà vua Phetracha cho bắt giữ các quan đại thần liên can đến vụ nổi loạn tại Khorat, xử tử hàng trăm người. Kosa Pan bị cắt mũi, qua đời vì trọng thương. Một cuộc thanh trừng lớn diễn ra trong toàn cõi Ayutthaya, các quan trông coi nền ngoại thương của vương quốc này bị thay thế toàn bộ. Đến đầu năm sau, quân triều đình chiếm lại Khorat, bắt đầu lại cuộc tàn sát kẻ phản loạn khắp vương quốc.

Cuối năm ấy, đoàn người từ Vạn Tuế Sơn vượt biển về Sài Mạt.

Nhà vua Nặc Thu đã cho đắp lũy nghênh chiến với Nam Hà, không còn chú tâm tới phương Nam. Nhóm người vừa tới xây nhà dựng phố ở Lũng Kỳ, nhân biến động ở Đại Thành và Chân Lạp mà tạo thành một phố cảng tạm thời, thu hút thương buôn vốn đã có quan hệ từ trước đến. Nhóm người này vốn đã đông đúc, lại thạo việc, chỉ qua vài tháng đã xây thành một khu phố sầm uất chẳng kém nơi nào.

Tháng ba năm Canh Thìn, Trần Thượng Xuyên và quân Long Môn làm tiên phong đánh vào Chân Lạp. Nguyễn Hữu Kính chỉ huy quân Nam Hà đánh Nam Vang. Đại vương Nặc Thu thân chinh đón đánh. Qua một trận ác chiến, quân Nam Hà đánh bại Chân Lạp, nhà vua Nặc Thu phải bỏ chạy. Nguyễn Hữu Kính vào thành Vũng Long, giữ nguyên quân tình, thu nhận hàng binh, kêu gọi vua Nặc Thu trở về. Nhà vua Nặc Thu đến xin hàng, Nguyễn Hữu Kính thuận cho về thành La Bích chiêu tập dân chúng chạy loạn quay lại sinh sống, không bắt tội thêm. Quân Nam Hà lui về Lao Đôi, định lại phân chia biên thùy.

Tháng năm, Chưởng cơ Trấn thủ Bình Khang Nguyễn Hữu Kính qua đời tại Rạch Gầm.

Vua Nặc Thu một lần nữa buộc phải thoái vị, nhường ngôi cho Nặc Yêm. Nhà vua mới thân Nam Hà cho định lại việc cống nộp, cam kết giữ yên biên giới.

Năm Tân Tị, lễ khánh hạ ngày mùng một tháng giêng, khúc Thái bình rộn rã vang trên phủ chúa Phú Xuân.

Tiếng súng đã lặng, ở vùng đất cực Nam, một vùng đất mới hình thành.

Đất Mang Khảm nằm cạnh Đại Thành, phía Nam Chân Lạp, phía Bắc là núi, nhìn ra vịnh Xiêm La. Khi triều đình Đại Thành không ngừng biến động, nơi này trở thành một phố cảng mới thu hút thương thuyền bốn phương tụ về. Lãnh đạo là Mạc Cửu lại mộ thêm người khai khẩn đất đai, khiến cho dân cư càng thêm đông đúc. Vùng đất ngày càng rộng, Mạc Cửu cho lập thành bảy xã thôn tự mình quản hạt.

Mùa thu, gió nồm thổi vi vút sau mưa. Lễ Trung nguyên, nhà nhà thả đèn trời ước nguyện. Những bóng lửa đèn chập chờn chớp tắt trên trời cao. Hương nhang trầm thoang thoảng ngõ phố hẹp. Tre trúc rì rào bốn phương, nghe như một bài ca bất tận.

“Trúc này thiếu gia trồng?” Ngoảnh đầu nhìn quanh, Trương Cầu, thuộc hạ của lão Cửu hỏi. Bọn họ đang ngồi trên núi thấp trông ra biển, có thể nhìn rõ quang cảnh bốn phía. Hắn gật đầu.

“Lão gia đóng ở Lũng Kỳ thì giao lưu thuận tiện, nhưng bốn mặt đều trống, lại quá gần Đại Thành, tôi nghĩ ta nên có thành lũy phụ thì tốt hơn.” Hắn vẫn thích ở vùng đất Prek Ten này hơn. Núi cong cong bao bọc một mặt hồ yên tĩnh, có đảo có biển. Đây lại là nơi đầu tiên hắn đặt chân đến, đem người về đất phương Nam này, vốn có ý nghĩa quan trọng. Nghĩ một lúc, hắn nói thêm. “Nặc Thu lại phế Nặc Yêm, tự mình lên ngôi, rồi lại nhường ngôi cho con là Nặc Thâm, chẳng có lúc nào yên, không rõ đang muốn gì? Người sợ tiếng, lợn sợ béo, ta cứ bình lặng sống không sao, nhưng một khi đã lớn mạnh thì thể nào cũng có chuyện.”

“Sorasak đã thành vua của Đại Thành, ít nhất ta không phải lo[2].” Trương Cầu cười. Hắn xoay chén rượu trong tay, không đáp.

Hắn vẫn muốn được gặp lại cậu ta, vẫn muốn ngăn cậu ta lại. Đúng như hắn nghĩ, hận thù đã nuốt chửng Sorasak. Những án tử hình khủng khiếp đã nối tiếp cuộc nổi dậy, hàng loạt quan lại bị giết cả nhà, kể cả các thương nhân người Mã Lai, Nhật Bản. Chỉ chờ vua Phetracha chết đi, Sorasak liền đoạt lấy ngai vàng. Yothathep đã không ngồi yên, tự lập cho mình một bè phái đại thần mạnh mẽ để phù trợ cho con trai. Nhưng Sorasak đánh hơi được sự bất thường khi vua Phetracha ngã bệnh, đã cho quân bao vây cung điện, bắt giữ các quan, lên ngôi ngay khi vua cha vừa qua đời.

Rồi sau đó, Phra Kwan bị đánh đến chết, ngay bên mộ Phetracha. Rồi sau đó, chỉ còn lại một vua Hổ hung ác tàn nhẫn, ác mộng của toàn dân chúng Đại Thành.

“Đừng chọc con hổ ấy nổi điên thì tốt hơn.” Dường đoán được ý nghĩ của hắn, Trương Cầu nói. Hắn chỉ cười.

Họ im lặng nghe tiếng gió. Có tiếng trẻ con đâu đó vọng tới. Bọn trẻ đem đèn tới chơi ở bãi biển, hát vang vang.

“Lão gia vừa cho người về Quảng Đông xem tình hình lão thái gia. Bà cũng rất nhớ hai người, lão gia bảo có điều kiện thì đón bà đến đây ngay.” Trương Cầu như chợt nhớ ra, nói. Hắn gật đầu.

“Cứ đón về đây, mẹ con còn được ở bên nhau mấy ngày, đời người có bao nhiêu đâu mà sợ đông sợ tây.” Hắn nói rất bình thường, nhưng đổi lại là ánh mắt ái ngại của Trương Cầu. Ông nhìn qua hắn, rồi lại quay sang bóng trúc xanh.

“Giống như một cái thành, thành bằng trúc.” Trương Cầu cười, nói lảng. “Thiếu gia định đặt tên là gì?”

“Phương thành[3].” Hắn trả lời, như thể lơ đãng. Trương Cầu không hỏi thêm, uống cạn chén rượu, ông chợt nói.

“Thiếu gia có nghe tin gì về Nam Chưởng?” Ông nghiêng người về phía hắn, gật đầu. “Quân ba nước Đại Thành, Chân Lạp, Bắc Hà can thiệp vào, Nam Chưởng bị chia làm ba. Đại Thành chiếm được mảng to lớn nhất. Nghe nói quân đội Đại Thành ở Nam Chưởng có một người… Nhờ thành công ở Nam Chưởng, Sorasak giữ được vị thế trong triều, lật đổ được Yothathep.

“Sorasak làm việc phần nhiều mờ ám, năm nào đó cũng chẳng biết ‘thủ lĩnh nổi loạn’ ở Khorat là ai, quân triều xông vào thì đã chạy mất rồi.” Trương Cầu cân nhắc nói. “Có khi Sorasak lại chiêu mộ được người làm việc bí mật cho mình…”

“Không cần tìm nữa. Nếu muốn về thì sẽ về, chừng nào cảm thấy ở được thì ở.” Hắn lắc đầu, chợt mỉm cười. “Ta ở đây có nhà có người, chính là để đón người.”

Một nơi như thế này, có hồ có trúc, có núi có biển, là những gì bọn hắn đã mơ ước, vẫn mơ ước.

Phương thành của hắn đã được xây nên, dù giấc mơ của hắn không thành, vẫn là nơi để trở về.

Tiễn Trương Cầu về phòng, hắn đi một vòng canh tuần khu thành vắng. Đất này còn chưa đông người, trong đêm chỉ nghe tiếng trúc rì rào, lan xa trùng điệp. Trăng vằng vặc trên cao, soi bóng trúc rơi trên nền đất, lập lòe qua những kẽ lá lay động tựa ngàn sao. Xa xa, mặt hồ trải rộng soi trăng bạc. Trăng ngàn gió bãi đến lúc tụ về đọng bên đá trầm mặc tháng năm. Chim hồng mây xám âm vang đồng vọng khúc thương ngàn. Ngư long tỉnh mộng sóng đào, sông in bóng nguyệt trôi dằng dặc.

Bóng lá in trăng tản mát tựa rơi trước mắt, giơ tay ra lại chỉ nắm được ánh trăng.

Trăng soi sợi tóc bay qua mắt óng ánh như bạc. Mười năm đã qua, nhanh như chớp mắt. Chẳng kịp nhớ, cũng chẳng kịp quên. Tương phùng ngắn ngủi, mộng lại quá dài.

Hắn không còn lo lắng cho Ngô Lãng, vì đã từng bắt gặp Tư Tư đến nơi này một lần. Nàng ta đi thăm dò, hỏi han về hắn, dáng vẻ rất bình thản. Tư Tư vốn theo sát Ngô Lãng như hình với bóng, thấy nàng ta, hắn đã tin rằng y vẫn bình an.

Hắn cũng đã từng gặp Diêu ghé qua Lũng Kỳ. Không hiểu tại sao, hắn nhận ra y sau khuôn mặt đầy những vết cào rạch sống động lạ thường. Cũng có thể, vì y mặc cái áo đỏ rực cũng kỳ dị không kém, khiến ai cũng phải chú ý đến. Dè chừng Diêu đến thăm dò với ý đồ nào đó, hắn cho người theo dõi, lại chẳng thấy y có hành động gì. Diêu chỉ đến dạo quanh phố xá, chẳng nói chuyện với ai, rồi y bỏ đi, lang thang qua vài nơi trên vùng đất này. Y biến mất cũng bất ngờ như khi đến.

Thỉnh thoảng, theo những chuyến tàu hàng, tin tức từ Hội An chuyển đến. Vị chúa Nam Hà đã cho cải tổ lại phố thị này, và sau chuyến ghé thăm của thiền sư Thạch Liêm, đàn chay lớn chưa từng có tại chùa Thiên Mụ với hàng trăm nhà sư được mời tới, đưa tất cả người Đường ở Đông Phố thành dân hộ, ngài ta đã cho thấy ý muốn khống chế, thu tóm lẫn kêu gọi tất cả mọi người đến với mình. Bằng quyền lực của mình, ngài ta sẽ che chở họ, mọi người mọi kẻ nói. Ngay cả cuộc tấn công vào Côn Lôn của Anh Cát Lợi cũng đã bị đánh bại[4], quyền lực và sức mạnh của Nam Hà đang được xác lập.

Xuân Tử thi thoảng vẫn gửi vài món quà tới cho hắn. Đã nhiều năm rồi, cô không còn nôn nóng thúc giục hắn, cũng dường như đã hiểu ra.

Trúc nơi ấy hẳn vẫn xanh. Giữa những lối trúc, người đến người đi không ngớt.

Người trên núi thi thoảng lại có vài câu chuyện lạ. Như hình ảnh cô gái áo trắng mà nhiều người từng bắt gặp giữa rừng. Đó là một vị thần, họ nói, nàng ta chỉ họ đến với hắn. Và rồi, hắn dần dà tin lời Như Yên cũng có một phần sự thật.

Hắn vẫn tin nàng, sau chừng ấy thời gian.

Nghe tiếng loạt soạt trên ngọn trúc, một cái đèn trời tắt lửa rơi xuống gần ngay tầm tay hắn. Tò mò, hắn với tay lấy cái đèn, toan nhìn xem người thả có để lại dấu vết nào trên nó.

Bụi trúc vừa rẽ ra một quãng nhỏ, hắn đã chợt thấy người đứng bên kia tường trúc. Ánh trăng sáng rực soi tỏ mái tóc mai đã điểm sương, đôi mắt như nước sâu, khuôn mặt đã in dấu phong trần, vết tang thương của thời gian dằng dặc.

Nhìn thấy hắn, ngẩn người một lúc, y bước lại gần. Vẫn cách một bức tường trúc, y chỉ có thể thấy nụ cười ẩn hiện sau lá trúc.

    “Đã về rồi.”

 

 

Chú thích:

    [1] Doanh Châu nay thuộc Vĩnh Long.

    [2] Trong suốt thời kỳ trị vì của Sorasak, Hà Tiên được yên ổn. Khi Sorasak bệnh nặng rồi qua đời, Mạc Cửu mới lo sợ bị Xiêm La tấn công nên về với chúa Nguyễn.

    [3] Chữ Phương này tiếng Hán nghĩa là hương thơm, không phải hình vuông. Vì thành này trồng tre trúc bao quanh nên Hà Tiên còn được gọi là Trúc Phiên thành.

    [4] Sự việc này xảy ra năm 1702 - 1703, 8 chiếc thuyền với hơn 200 quân của Anh đến chiếm đóng Côn Đảo, Trấn thủ Trấn Biên Trương Phúc Phan dùng kế gián điệp phá được.

 

 

 

 

Hết




Hồi 100: Giếng khơi
Wednesday, October 9, 2013 Author: Trường An

Tháng chín năm Ất Hợi, bọn tù binh Quảng Phú bị giải về từ Phú Yên.

Vốn nhóm phiến loạn đóng tại Quảng Ngãi phát triển mạnh, Linh lão tự xưng là Linh vương, xây dựng quân đội, đúc súng đóng thuyền mà từ trong vùng núi đánh lấn ra biển. Quan quân Quảng Ngãi không dẹp được, báo lên cho triều đình. Chúa sai dinh Quảng Nam hợp cùng hai phủ Quảng Ngãi, Phú Yên cùng giáp công. Khi các đạo quân xông tới sơn trại, Linh vương đã bị giết chết. Quảng Phú đem toán người thân tín trốn qua đường Thượng đạo về Phú Yên. Tại đây, gã bị người Thượng bắt giữ, giao lại cho quân Nam Hà.

Do có bão trên biển, đoàn giải tù dừng lại ở Quảng Ngãi trú tạm. Eo biển Vũng Tàu[1] tại Châu Sa đông chật tàu thuyền tránh bão. Người vào bờ dựng lán hoặc vào làng chài gần đó trú tạm. Đưa tù nhân vào dinh phủ ở Châu Sa, toán lính giải tù tranh thủ lúc đông đúc mà chạy ra ngoài nhập hội. Bão ào đến chỉ một ngày rồi tạnh, nhóm người này vẫn chưa vội rời đi, viện cớ bến đậu chật chội, thuyền chưa thể ra được.

Người đã vãn đi một ít, hắn mới nhận thấy người phụ nữ có dáng vẻ lạ lùng nọ. Ngồi trong một góc quán, trước mặt chỉ có một đĩa cơm nhỏ, cô ta ngẩn ngơ gõ đũa xuống bàn, ánh mắt thỉnh thoảng liếc về phía dinh quan Quảng Ngãi. Khuôn mặt cô ta sạm nắng, khắc khổ khiến khó đoán được tuổi tác. Bộ quần áo trên người dơ bẩn, đã rách nhiều, lớp này chồng lên lớp khác. Cô ta ngồi một lúc, chẳng hiểu sao lại chảy nước mắt. Không buồn lau đi, cô ta nhìn trân trân về phía cánh cửa đóng kín của thành lũy nhỏ. Người bán trong quán thỉnh thoảng liếc qua cô, vẻ khó chịu ra mặt, hẳn cô đã ngồi đây quá lâu.

Nhìn bóng nắng, hắn đứng lên, trả tiền cho chủ quán. Đi qua cô gái, hắn đặt một túi tiền xuống trước mặt cô.

“Hôm nay tôi vui, để tôi trả tiền.” Hắn cười nói với cô gái. Bộ dạng này giống hệt người đang gặp rắc rối nơi phủ quan, có ít tiền vẫn tốt hơn. Cô gái nhìn lên hắn, mắt chợt mở to, giật mình rõ rệt.

Nhưng cô ta trấn tĩnh rất nhanh. Môi mím lại thành một đường mảnh, cô chỉ đăm đăm nhìn hắn.

“Cô có việc ở phủ quan à?” Nghĩ cũng nên hỏi vài câu cho phải phép, hắn nói. Cô gái lắc đầu, rồi lại gật đầu.

“Chồng tôi bị giam ở đó.” Giọng nói của cô là lạ, cứng ngắc và miễn cưỡng. Cô lắc đầu trước ánh mắt hắn. “Không cần phải lo đâu.”

“Tôi tố cáo để họ bắt anh ta.” Vẫn với giọng thản nhiên khô khốc ấy, cô gái nói, vẫn nhìn hắn không chớp mắt. “Tôi đang chờ nhặt xác anh ta về.”

Không biết phải nói gì, hắn im lặng.

“Rồi sau này cô sống thế nào?” Dù sao, việc của bọn họ cũng chẳng liên quan đến hắn, hỏi nhiều không tiện. Nhìn dáng vẻ cô gái này như thể đã nhiều ngày không được nghỉ ngơi. Một người đàn bà không có chồng đã khó sống, hoàn cảnh này thì cô biết nương tựa vào ai?

Cô gái chớp mắt, chợt mỉm cười.

“Tôi có tiền, tiền cha tôi để lại, tiền họ thưởng cho khi cáo giác tội phạm.” Càng nói, giọng cô càng cao lên bất thường. “Chỉ cần nhặt xác anh ta về chôn cất là tôi đã hoàn thành nghĩa vụ, không cần phải để tâm đến họ nữa.”

Một lần nữa, hắn im lặng. Từ trong phủ, một người lính đi ra, vẫy tay gọi “Cô Hồng!”. Cô gái chậm chạp đứng lên, vẫn bằng dáng điệu cứng nhắc như khúc gỗ, cô ta cầm lấy túi tiền của hắn, quay lưng đi về phía phủ.

Càng đi, bước chân cô ta càng nhanh. Đầu ngẩng cao, vai cứng đơ, tay nắm chặt bên hông, cô ta bước đi như thể đã quyết tâm hướng về phía trước. Cũng có thể, như một người chẳng còn gì để sợ.

Ngập ngừng một thoáng, hắn quyết định không đi theo cô ta. Ở nơi này, hắn không thể hành động hàm hồ.

Đã đến giờ hẹn, hắn rời khỏi khu bến thuyền, đi về trong núi. Thành lũy cổ của người Chiêm Thành chắn vòng qua vùng đất, màu gạch đỏ đã lún dưới cỏ xanh. Dưới chân núi có một thôn xóm nhỏ in bóng vào nước sông xanh. Hắn đi ra sau thôn, trèo qua lũy mà lên núi. Vẫn còn vài tòa nhà và tháp nhỏ trong khu vực lũy cũ. Tìm kiếm một lúc, hắn phát hiện ra kẻ ấy ngồi thu lu trong một cái tháp thấp, cỏ mọc cao quá cửa tháp. Như thể gã cũng sợ bị hắn phát hiện ra.

“Tước.” Thở dài, hắn gọi. Đám cỏ lạo xạo như giật mình. Một lúc sau, gã đàn ông nhỏ choắt cũng chịu vạch cỏ đi ra, ánh mắt lấm lét lại chẳng nhìn thẳng vào hắn.

“Tước, tôi đây.” Hắn hạ cái mũ xuống, nhưng tin rằng gã đã nhận ra giọng mình. Người của hắn khi tìm được Tước hẳn cũng đã báo ai hẹn gặp gã hôm nay.

Ánh mắt Tước đảo rất nhanh về phía sau hắn. Mím môi mấy lần, gã mới thận trọng mở miệng.

“Không có ai theo anh chứ? Cha nuôi tôi…”

“Vẫn không biết anh ở đây.” Hắn nhanh chóng hiểu ra nỗi lo sợ của Tước. Sau việc ở Thượng Dã, gã cũng trốn đi mất tích, hẳn vì sợ Po Chongchan trừng phạt sau thất bại.

Và có thể, vì còn quá nhiều điều phải trốn tránh.

“Hai người kia ở đâu?” Cũng chẳng có lòng dạ để phân vân ướm thử, hắn hỏi thẳng. Tước mở miệng, vừa chạm phải ánh mắt hắn đã mím môi, tránh mắt đi nơi khác.

Hắn nhìn gã như thể chỉ cần thêm một câu lòng vòng trốn tránh, hắn sẽ chôn gã xuống đây, ngay lập tức.

Hơn một năm qua, hắn đã tìm đủ mọi cách lùng sục Ngô Lãng và Như Yên nhưng vô hiệu, ngay cả khi hắn về Sài Mạt, nhờ mạng lưới người của Lý lão, Mộc Long lẫn anh trai hắn dò tìm cả ở Đại Thành, Nam Chưởng, Bắc Hà, thậm chí tận Hoa Nam. Gần đây, trong một lần tình cờ gặp Po Chongchan ở Đại Thành, hắn mới tình cờ biết được kế hoạch ngày ấy của Ngô Lãng, y để Tước ở giữa Dã Dương và Phan Rang nhằm có người tiếp tế khi nguy cấp. Vì Tước chẳng có liên hệ với ai, việc này chỉ có y, gã và Po Chongchan ngoài cuộc biết qua một lần Tước báo về.

Không còn manh mối nào khác hơn, hắn chuyển hướng, cho người lùng tìm Tước, cuối cùng có kẻ thấy gã ở Quảng Ngãi này. Người bạn làm ăn này khôn khéo cho thuộc hạ vây gã lại không cho trốn thoát rồi mới về Sài Mạt báo với hắn.

Vẻ mặt Tước biến hóa thành chừng chục biểu hiện khác nhau trước khi gã thở ra một cái dài sườn sượt.

“Tôi cũng không muốn, là do tiểu thư bảo…” Gã áy náy nói, khuôn mặt trẻ con lại mếu máo như chực khóc. “Tiểu thư bảo tôi có bán xới ra khỏi đất này hay tự đào hố mà chui xuống cũng không được báo với anh…”

“Tiểu thư… Khi kẻ kia đưa cô ấy về chỗ tôi, tình trạng cô ấy đã tệ lắm.” Một lúc lâu không thấy hắn lên tiếng, Tước nói tiếp, ngập ngừng lúng túng. “Tình trạng cả hai đều tệ, kẻ kia thì thương tích khắp người, sức cùng lực kiệt, tiểu thư thì…”

Hắn vẫn đứng yên. Hơn một năm qua, hắn đã đủ cả kiên nhẫn lẫn bình tĩnh để chờ đợi.

“Tiểu thư vốn đã trúng độc từ lâu. Chất độc họ dùng để xử quyết cô ấy vẫn chưa được giải hẳn, cô ấy lại vất vả nhiều ngày, nhiễm lạnh, sầu lo nhiều, chất độc ăn vào căn cốt. Rồi không hiểu sao cô ấy tiếp tục trúng độc. Khi đến chỗ tôi, tiểu thư chỉ còn thoi thóp mà thôi.” Phát ra một tiếng khàn khàn trong cổ, Tước lắc đầu. “Tôi đã làm hết cách, nhưng…

“Tiểu thư tỉnh táo được một lúc, bảo tôi phải thề là biến mất sao cho anh không tìm được. Kẻ kia thì lại phát khùng, bảo tôi có muốn chết thì để cô ấy chết. Nhưng tôi đâu phải là thần thánh? Tôi bảo, chẳng còn cách nào nữa. Y im lặng một lúc, rồi bảo tôi lấy ngựa để y đem tiểu thư đi. Y bảo, đi về phương Nam.

“Lúc ấy tiểu thư đã lại hôn mê rồi, nhưng y nhất quyết phải đưa tiểu thư về phương Nam. Y cứ thế đưa cô ấy lên ngựa, rồi cả hai lại chạy đi mất.”

“Sau đó, tôi trốn đi…” Càng nói, Tước càng lí nhí, câu cuối nhỏ như tiếng thì thào.

Hắn chỉ nhìn gã, chờ đợi. Nhưng Tước mím môi, mở miệng mấy lần cũng không thành tiếng, như thể gã cũng không biết phải nói gì.

“Cám ơn.” Cuối cùng, hắn gật đầu. Không nhìn lại Tước, hắn đã quay lưng rời khỏi. Nghe như Tước gọi với theo hắn, nhưng vì giọng gã rất nhỏ, hắn không để tâm đến.

Triền núi trải dài đến bờ sông bát ngát xanh. Bóng nước in trời xam xám trong dư tàn của cơn bão vừa tạnh. Gió thổi cỏ như sóng. Hắn vấp chân vào một bờ lũy đổ, cơn đau nhói trên chân đánh thức lại chút tỉnh táo.

Hơn một năm qua, đây là điều hắn đã từng nghĩ đến, chẳng phải là như thế? Với tâm tính Ngô Lãng và Như Yên, còn lý do gì khác để cả hai cùng biến mất?

Nhưng hắn đã nghĩ đến những lý do còn hoang đường hơn thế, kể cả việc bọn họ bỏ đi cùng nhau, đi cùng nhau và bỏ hắn lại – cũng vẫn còn tốt hơn.

Nên khi nghe Tước nói, hắn không còn kinh ngạc hay thậm chí đau buồn. Chỉ có một sự trống rỗng dường choáng váng đổ ập xuống, lạnh buốt cả trái tim lẫn tâm trí. Cái lạnh âm ỉ trong từng mạch máu, như gặm nhấm, như sôi sục, lại như chết lặng, khiến hắn không còn có thể nghĩ được gì.

Theo triền gió nổi, hắn lang thang đi dọc theo bờ sông. Hết thôn làng rồi đến đồng ruộng, rừng cây, sông vắng. Đến chiều hôm ấy, hắn đi tới một quả núi bên bờ sông. Núi cao khoảng trăm trượng, đỉnh phẳng và bốn mặt vuông bằng trông như cái ấn.

Núi Thiên Ấn? Nhìn hình dạng ngọn núi, hắn chợt nghĩ. Hôm trước, người của hắn cũng đã bắt gặp Lê Diệt nơi đây. Cậu ta lập một thảo am trên núi để tu hành, dứt bỏ hết mọi việc thế tục. Sau khi Xapatan qua đời, hắn không còn gặp Lê Diệt, khi nghe tin cũng phải lấy làm ngạc nhiên.

Dù không rõ có thật ngọn núi này là Thiên Ấn hay chăng, hắn vẫn cứ leo lên.

Hắn lên đến đỉnh núi thì trời đã tối. Ánh lửa trong thảo am soi sáng cho hắn bước tới. Không thắp đèn, sư thầy trẻ mặc áo nâu sồng ngồi cạnh đám lửa nhóm để nấu cơm, lật giở một cuốn sách mỏng. Nghe tiếng chân người, cậu ta giật mình quay lại, ngạc nhiên nhận ra hắn.

“Thiếu gia…” Lê Diệt bật thốt. Chẳng rõ dáng vẻ lẫn khuôn mặt hắn đang biểu lộ điều gì, sự kinh ngạc của Lê Diệt biến thành lo lắng. Cậu ta vội đóng sách đứng dậy. “Thiếu gia… có việc gì?...”

“Đã đi tu thì nên gọi ta là Mạc thí chủ.” Hắn nở nụ cười nhạt thếch, đến ngồi bên đống lửa, nhìn vào trong nhà. “Bây giờ pháp danh của thầy là gì để ta còn gọi?”

“Pháp Hóa, hiệu Minh Hải Phật Bảo.” Im lặng một thoáng, Lê Diệt trả lời. Cậu ta vào nhà lấy ấm nước rót cho hắn một chén, đặt xuống trước mặt hắn. Cả hai ngồi trên đất, nhìn nhau qua đống lửa. Nghe cái tên, hắn cau mày rồi lại cười.

“Nghĩa là biển trí tuệ sáng rực hay biển vô minh vô biên? Cuối cùng đệ vẫn cứ sợ biển.”

“Phải, rất sợ.” Lê Diệt bình thản gật đầu. Ánh mắt cậu ta vẫn không bớt lo lắng. “Có việc gì…?”

“Có thể đi tu như thế này cũng tốt nhỉ?” Hắn đã quay đầu nhìn quanh. Khu đất được vạt một khoảng trống rào lại làm thảo am. Giậu mồng tơi đã leo xanh giàn. Bốn phía rừng thâm u đen đặc, vang vọng tiếng dế kêu. Xung quanh, gió núi vấn vít vần vũ. Cảm giác như thể một mình ở giữa thinh không. “Ở nơi này, rồi chẳng còn cần nhớ điều gì.”

“Thiếu…” Lê Diệt vừa nói, hắn đã ngắt lời cậu ta.

“Cái gì gọi là Không, Pháp Hóa đại sư?” Hắn lướt mắt qua đám lửa rồi đến bầu trời phía trên cánh rừng. Đêm cuối tháng không trăng, bầu trời cao vời vợi, hun hút trên khoảng trống. “Sinh lão bệnh tử, Ái biệt ly, Oán tằng hội, Cầu bất đắc, vì có nên mới phải khổ sao? Vì có nên mới nhớ, mới đau buồn sao? Người ta đau buồn vì đủ mọi lý do, kẻ lại có đủ mọi lý do để đau buồn. Cửa nát nhà tan, vong quốc, trách nhiệm, oán hận, thương tâm… đủ mọi lý do sống động, thực tế làm tan nát tim gan.

“Nhưng nếu ‘không có’ thì sao? Mọi thứ cứ mất đi, cứ hiện ra rồi biến mất mà thậm chí còn chẳng kịp đau buồn, chẳng biết phải nghĩ thế nào, thì sao? Có biết được ôm xác thân nhân trong tay cũng là một loại hạnh phúc không? Có biết rằng cảm thấy được phẫn hận đau buồn cũng đã là may mắn không? Có biết có một mục tiêu để theo đuổi cũng là thanh thản không? Có biết rằng ngay cả thất bại cũng có ý nghĩa không?

“Mọi thứ cứ việc biến mất, chỉ vậy thôi, biến mất, không có, không còn nữa. Cố gắng bao nhiêu, quyết tâm làm cái gì, cuối cùng cũng chỉ là Không. Chẳng để làm gì hết, như rơi tòm vào biển. Mà rơi vào biển thì còn có hình tích, ở đây chỉ là biến mất, như đưa tay ra chạm tới không khí vậy.

“Đạo giáo bảo phải nhận thức cái Không? Rồi sẽ thông minh, thanh thản, hạnh phúc hơn sao? Rồi sẽ học biết cách sống cách chết như cành cây ngọn cỏ sao? Tại sao một cuộc đời như thế lại nặng nề như vậy?”

Hắn nói một thôi dài, rồi bất chợt ngừng. Lê Diệt cũng không gặng hỏi, chỉ nâng chén nước đưa cho hắn.

“Uống đi rồi nghỉ ngơi.” Cậu ta mỉm cười. Trong ánh lửa, nụ cười của cậu ta đã phảng phất mang mấy phần của tượng trong Phật điện.

Uống hết chén nước, hắn dựa lưng vào thân cây gần đó, nhắm mắt. Cơn buồn ngủ không tới, chỉ có cảm giác ngầy ngật chông chênh như chìm giữa đại dương bóng tối sóng sánh. Đại dương tràn tiếng sóng.

Những đêm dằng dặc nghe tiếng biển vỗ bờ, nghe tiếng nước trôi giữa hai bờ sông lạnh. Những giấc mơ trống rỗng đáng sợ hơn mọi ác mộng đau buồn. Những vô vọng dài hơn mọi đợi chờ, tang thương hơn cả nỗi niềm tuyệt vọng.

Mất đi, chỉ đơn giản là mất đi. Không còn hình tích, dấu vết nào lưu lại, không còn cả ký ức, không cả đau khổ hay buồn thương. Bóng hoa rực rỡ của ngày hôm ấy, tựa bóng nắng trên thềm, vệt mờ bên đường, lướt qua và tan biến. Mọi thứ trong cuộc đời hắn, như định mệnh, như lời nguyền, tan biến – hoặc chưa bao giờ có. Tan biến và chưa bao giờ có, để đời hắn trở thành một trò đùa, một cơn mộng nực cười.

Những ngày và những đêm, những giấc mơ và những khi tỉnh thức, những con sóng nối tiếp trùng trùng, phủ lấp lên nhau. Mỗi ngày, học cách chấp nhận, và thấy trái tim chết đi dần dần, thấy cuộc đời trôi về phía bên kia, khôn vãn hồi, bất khả thuyết. Mỗi ngày, chìm sâu hơn vào tịch lặng, chẳng còn lại dù chỉ chút ngậm ngùi.

Tiếc thương sao, tiếc ai ai tiếc thương ai?

Lê Diệt lục đục mở khạp lấy nước mưa nấu trà. Hắn mở mắt, nhìn cậu ta một lúc rồi lên tiếng.

“Ở trên đây không đào giếng, chỉ dùng nước mưa thì đến mùa khô phải làm sao?” Giọng hắn vẫn bình thản, còn bình thản hơn là hắn tưởng.

“Bần tăng có đào một cái giếng, nhưng đến hai mươi trượng rồi mà vẫn không có nước.” Lê Diệt thở ra. “Đành tiết kiệm nước dùng dần, may mà núi này không cao, túng thì vẫn có thể xuống núi lấy nước.”

“Ở kia à?” Thấy một gò đất nho nhỏ trước vườn, hắn hỏi, đứng dậy đi tới. Bên giếng đã làm một hệ thống ròng rọc để chuyển đất lên và dây thang để trèo xuống. Giếng sâu hút. Không nói không rằng, hắn trèo xuống giếng, lấy cuốc mà tiếp tục đào.

Nghe động, Lê Diệt chạy tới. Nhưng cậu ta không ngăn cản hắn, chỉ ngồi trên miệng giếng thi thoảng chuyển bình nước xuống cho hắn. Cậu ta cũng chẳng khuyên nhủ hay bảo hắn đi nghỉ, lẳng lặng chuyển đất được đào lên đi.

Hắn đào từ lúc trăng lên cho tới khi mặt trời hửng phía Đông, từ lúc mặt trời mọc cho tới khi trăng lặn.

Từng nhát cuốc cắm xuống, có lúc xúc được đất mềm, có khi va phải đá cứng, hắn tìm mọi cách bẩy chúng đi. Có Lê Diệt phụ việc trên miệng giếng, hắn làm việc nhanh hơn. Càng xuống sâu, khí xung quanh càng lạnh, đậm đặc dồn ứ trong ngực. Hắn dồn toàn bộ sự chú ý lẫn sức lực vào cái cuốc, hòng để  chịu đựng được cơn lạnh thấm vào đến tận xương tủy. Cổ hắn đắng ngắt, tâm trí như say như dại, tựa hắn đã uống vò rượu mạnh nhất thế gian. Và rồi, hậu vị của nó là cơn say trống rỗng.

Hồng Trần Túy, không sắc không hương không vị. Chỉ có đau đớn, mê cuồng là thật.

Lòng giếng u ám tối mờ, khoảng sáng trên miệng giếng càng lúc càng xa. Hắn cần mẫn đào, đôi lúc ngừng tay ăn vội miếng cơm Lê Diệt bỏ xuống. Thời gian trôi đi bao lâu hắn cũng không hay biết. Đến lúc tình cờ ngẩng nhìn lên thấy miệng giếng chỉ còn là một chấm nhỏ trên cao, hắn mới nhận ra mình đã đào quá sâu. Xuống đến nơi này, thậm chí ánh sáng cũng không còn rọi tới. Bóng tối nhờ nhờ đè nặng tới tức thở. Có lẽ hắn đã đào tới chân của ngọn núi này.

Giếng vẫn không có nước.

Nhưng hắn vẫn tiếp tục đào. Hắn không nôn nóng, cũng chẳng mong chờ, lòng hắn bình lặng, dường như là dửng dưng. Hắn tiếp tục những nhát cuốc bổ vào đất, vùi sâu mình vào trong đất, đào xuống lòng đất tối hun hút. Bóng đêm đổ xuống, để hắn lại trong khoảng trống hẹp sâu thẳm cực cùng. Nơi này, mọi tiếng động đã không còn vọng tới. Bóng tối cô đặc, bất biến, lạnh lẽo và dửng dưng. Hắn để mình chìm sâu xuống trong cô độc tột cùng, không có nơi để quay đi, trốn thoát.

Rồi ngày lại lên, đêm lại xuống. Cơ bắp hắn dần dần rời rã, cơn mệt mỏi bải hoải dần dà xâm chiếm. Hắn vẫn cắn răng tiếp tục đào.

Ngày lên, từ vài sợi nắng mỏng tang rơi xuống rồi dần rạng rõ. Hắn đào trúng một vỉ đá cứng, phải khoét đáy giếng rộng hơn để mang nó lên. Dưới vỉ đá, đất mềm hơn, nhão như bùn. Hắn bổ cuốc xuống, thấy nước ri rỉ chảy ra. Hắn đào sâu hơn, nước loang ra đất, chầm chậm chảy thành dòng.

Hắn buông cuốc, ngẩng đầu nhìn lên.

Ánh sáng buổi trưa chiếu thẳng đứng xuống giếng, thành một mảng chói ngời như thái dương. Mảng sáng khiến đôi mắt đã quen với bóng tối của hắn lòa đi. Ánh sáng không chạm xuống tới lòng giếng tối, chỉ rực rỡ một mảng trắng xóa trên cao. Nơi bóng tối và ánh sáng giao hòa, bụi mờ bảy sắc chập chờn như khói.

Mắt hắn cay rát, nhưng hắn vẫn đứng nhìn trừng trừng mảng sáng trên đầu. Làn nước dưới chân vẫn âm ỉ chảy, dâng lên ướt đôi giày. Ánh sáng rọi xuống, nước chiếu lên một mảng trắng lấp lánh. Lòng giếng sâu hút, ánh sáng cũng va đập vào nhau, tụ lại, chói chang sáng rực. Làn khói mỏng bốc lên, đổ xuống không ngừng, tan trong ánh sáng, tan trong bóng tối.

Đã có sợi ánh sáng nào soi vào thẳm sâu cõi lòng hắn, khiến hắn bần thần như bị sét đánh mà ngẩng nhìn giếng cao. Trong một lúc, hắn quên hẳn sự tồn tại của mình, thấy mình như làn khói tan đi trong nắng.

Như Yên, Như Yên. Nàng trong buổi sớm của ngày hôm ấy, vàng khua ngọc chạm, môi đỏ tóc huyền, như gió như mây.

Nàng trong buổi sớm của ngày hôm ấy, đỏ rực chói chang giữa trùng trùng sóng nắng. Cháy bỏng nơi đáy mắt. Cảnh tượng huy hoàng của hủy hoại và tàn phai.

Cơn đau đột ngột ập tới như muốn xé nát tim hắn. Nỗi đau đớn tưởng chừng nổ bùng trong thân thể, cháy tan từng mạch máu thớ da. Hắn phải tựa lưng vào thành giếng, định thần lại.

Ở trên, Lê Diệt sau một lúc thấy hắn không còn chuyển đất lên liền leo xuống giếng. Đến đáy giếng, cậu ta thấy hắn đã bỏ cuốc đứng yên, dưới chân hắn, nước đã dâng lên thành một vũng lớn.

“Có nước rồi!” Lê Diệt reo khẽ. Hắn vẫn nhìn mông lung vào bóng tối mờ trong giếng. Lê Diệt kéo tay hắn giật khẽ. “Ta lên thôi, kẻo nước dâng.”

Hắn gật đầu, cùng Lê Diệt trèo lên trên. Giếng hắn đào quá sâu, phải đến hơn năm mươi trượng[2], khiến hắn cũng phải vất vả mới leo được đến nơi. Lên đến miệng giếng, hắn nằm lăn ra đất, chẳng còn có thể nhúc nhích được mảy may.

“Để tôi đem đồ ăn tới.” Lê Diệt thấy hắn đã kiệt sức thì vội nói, đi vào nhà lấy ra mấy món đồ chay. Khi đi ra, cậu ta thấy hắn vẫn nằm ngửa nhìn trời. Vẻ cay đắng thất thần khi đến đây đã mất, đôi mắt hắn trong suốt, phản chiếu ánh nắng như nhìn vào lòng giếng khơi.

Hắn đang lẩm nhẩm một bài ca của bọn trẻ phương Nam.

    … Trả buồng cau cho chú
    Trả bánh ú cho cô
    Trả bánh khô cho chị
    Trả trái thị cho ông
    Bắt con công, đem về nhà…”

Dứt lời hát, hắn cười.

Tiếng cười tựa âm vọng trong lòng giếng, nửa nghe như cười, nửa lại nghe như khóc.

 

 

Chú thích:

    [1] Eo biển Vũng Tàu này nằm ở Châu Thuận Biển, xã Bình Châu, Quảng Ngãi ngày nay. Ở eo biển này khai quật được rất nhiều tàu đắm, cổ vật có niên đại từ thế kỷ XIII đến XVIII, cho thấy đây là nơi neo đậu tránh bão của thuyền bè ngày trước, có thể là bến đậu tàu cho Cổ Lũy.

    [2] Giếng này sâu 55 trượng (hơn 200m, bằng tòa nhà cao 50 tầng). Tục truyền giếng  do một người bạn của sư trụ trì Lê Diệt tới đào, đào xong rồi bỏ đi. Người dân Quảng Ngãi còn lưu truyền câu ca dao về việc này:

    “Ông thầy đào giếng trên non
    Đến khi có nước không còn tăm hơi.”

    Nhà sư Pháp Hải tục danh Lê Diệt đến núi Thiên Ấn xây thảo am tu hành vào năm 1694. Hơn 20 năm sau,vào 1716, ông cho xây chùa Thiên Ấn, được chúa Nguyễn Phúc Chu ban điển ngạch “Sắc tứ Thiên Ấn tự”. Chùa này sau trở thành nơi linh thiêng, danh lam bậc nhất của Quảng Ngãi. Năm 1777, chùa bị Tây Sơn phá, đến đời Gia Long cho xây lại. Năm 1947, chùa tiếp tục bị phá, chùa hiện nay được trùng tu vào 1956.  




Hồi 99: Thỏa thuận
Saturday, October 5, 2013 Author: Trường An

“Hay thật!” Im lặng một lúc trong tiếng lao xao của quân lính xung quanh trước lời hắn vừa nói, Nguyễn Hữu Kính chợt bật cười. “Vậy tại sao ‘người qua đường’ lại chọn quân Chiêm Thành để bảo vệ? Đánh nhau chỉ là chuyện người thắng ta bại, không phải kẻ này thì kẻ kia bị giết. Chiêm quốc mất nước, nhưng chẳng lẽ chúng ta để yên thì chúng ta lại được an toàn sao? Đã chọn một bên, lẽ nào còn bảo là bàng quan?”

“Tôi không chỉ vì Chiêm Thành, mà cả Nam Hà nữa.” Hắn chỉ lẳng lặng cười. “Tướng quân dùng quân đội tạo thanh thế ép mặt ngoài, cho Kế Bà Tử đi thuyết hàng, chẳng lẽ chỉ muốn ‘tiêu diệt quân phản loạn’?”

“Chúa Nam Hà chẳng lẽ hao công tổn sức đến vậy chỉ vì vùng đất cát nhỏ này?”

Những câu hỏi của hắn rơi vào gió núi ù ù. Nguyễn Hữu Kính lại không trả lời.

“Thư giải vây sẽ được đưa đến cho Khám lý Kế Bà Tử, chỉ ông ấy có thể thuyết phục được quân bên ngoài và quân trên núi. Nhưng những người này nổi loạn vì lý do gì, có thể khiến họ nản lòng hôm nay, không thể nói chuyện ngày mai.” Hồi lâu, hắn chầm chậm nói. “Nhân ngày trước tạo thành quả hôm nay, càng chấp càng gây thêm nhiều nghiệp, rồi sẽ đến ngày phải trả. Đã có người nói với tôi, một vị tướng ra trận không chỉ vì chiến thắng trong một lúc, mà còn phải nghĩ cho chủ nhân, đất nước, đỡ đi cái họa ngàn đời.”

“Quả ta cũng đã nghe.” Nguyễn Hữu Kính chỉ mỉm cười, trên gương mặt dãi dầu nắng gió chẳng biểu hiện một thái độ nào. Chỉ thấy ông khẽ cau mày, trong mắt lại thoáng vẻ đau buồn.

Sự thấu hiểu âm thầm giữa họ nghe cồn cào như tiếng gió xa.

Vì hành động ấy, Nguyễn Hữu Hào đã phải trả giá. Và có lẽ, cả bọn họ ở nơi này cũng đang phải trả giá. Mối họa tiềm tàng ở phương Nam không được dập tắt, tạo thành cái kết quả bây giờ. Đúng hay sai? Trăm năm, ngàn năm hay là hiện tại?

Để trả giá cho ‘trăm năm’, cần biết bao nhiêu là máu xương?

Hay vốn dĩ, trong vòng xoáy vô minh này, thứ cần phải học không phải là tranh đấu, mà là buông tay, không phải để tiếp tục, mà là chấm dứt? Không phải tồn tại, mà là chấp nhận?

Lại nghe một tiếng nổ ngoài xa. Quân bên ngoài vẫn còn cố tiến vào trận cát. Họ đã tìm cách trèo lên cồn cát để vượt qua trận. Đêm đang qua, ngày đang tới, gió càng thổi mạnh, mù mịt khoảng không. Đám cát vừa bị hất lên bởi vụ nổ trộn cùng gió xoáy ào ào trút xuống người bên dưới như hàng vạn mũi kim, lưỡi dao cắt, khiến họ kêu la đau đớn.

“Tướng quân, ta ra ngoài thôi.” Nghe thấy thanh âm đằng xa, hắn thở dài, quay lại nói với Nguyễn Hữu Kính. Ông gật đầu, nghĩ một thoáng rồi chợt nói với hắn.

“Người trên núi xuống hẳn vừa đói khát vừa bị thương, ta ra ngoài mới sắp xếp nơi ở tạm cho bọn họ được.”

Hắn cười khẽ, quay lưng đi trước. Đoàn quân Nam Hà theo hướng hắn chỉ, vượt qua những cồn cát bay. Có những cồn cốt dựng bằng đá đứng yên, làm trụ mốc lẫn bức chắn gió cho trận cát này. Khi gió quật, gặp phải những ‘bức tường’ ngăn cản, phải đổi hướng, tạo thành những lốc xoáy nhỏ cực mạnh, từ đó dẫn cát lưu chuyển. Trong một đồng cát rộng mênh mông, chẳng ai có thể nhận ra những cồn cát đứng yên ngoại trừ người tạo thành ra nó.

Gió vẫn quăng quật như muốn hất bay cả người, cảnh tượng đồng cát thiên biến vạn hóa trong bụi mịt mù khiến người bên trong có cảm tưởng như chỉ trong chớp mắt đã đổi khác. Họ cũng chẳng thể mở mắt ra nhìn cho rõ ràng, chỉ cốt che chắn mắt mũi trong bụi cát rào rào. Hắn gõ đao làm hiệu cho họ theo bước. Đến nửa đường, nghe thấy tiếng người bên ngoài đã gần, Nguyễn Hữu Kính bỗng lên tiếng gọi hắn.

“Ngươi về với nhóm quân kia luôn chứ?” Ông hỏi, thấy hắn lắc đầu liền nói ngay. “Nơi này người đông phức tạp, ta có thể…”

“Không.” Hắn chặn lời Nguyễn Hữu Kính, không cho ông nói tiếp, cũng chẳng có ý định để ông tiếp tục thuyết phục mình.

Nơi này người đông phức tạp, hắn làm cách nào để thoát ra khỏi vùng đất đã bị bao vây lớp lớp? Dù quân Chiêm có hàng, hắn mang danh phận gì để quân Nam Hà nương tay? Huống hồ, danh phận hắn khi đã lộ ra thì càng rắc rối hơn gấp nhiều lần. Quân Nam Hà ở Bình Khang, những người đi đánh Chân Lạp thuở trước, hẳn vẫn chưa quên mặt hắn.

Nguyễn Hữu Kính đề nghị hắn theo về cùng để ngăn người xung quanh ra tay với hắn. Nhưng hắn đã từng làm hại Nguyễn Hữu Hào một lần, hiểu rằng ngay cả những Thống binh này cũng chẳng có quyền năng tuyệt đối với quân đội mà họ lãnh đạo. Chỉ cần một sơ suất, họ sẽ phải trả bằng cả sự nghiệp. Nếu Nguyễn Hữu Kính quả thật định hòa giải với Chiêm Thành, hắn càng không nên can hệ sâu hơn với ông.

“Họ lại xông vào rồi.” Đứng trên cao, hắn chợt nói, ra dấu về một phía. Quân Nam Hà bên ngoài vẫn liên trì tìm cách vượt qua trận cát. Ở đây, hắn đã thấy được người cùng voi đang trèo lên cồn cát, những người khác đóng cọc xuống làm mốc chỉ đường – và vất vả giữ nó không bị cát lấp mất.

“Không khéo lại cho nổ bộc phá.” Nguyễn Hữu Kính lo lắng nói, bảo quân đánh thanh la ra hiệu cho nhóm người bên ngoài. Hai bên đã nhìn thấy nhau, lên tiếng gọi í ới. Trời hưng hửng sáng, gió lặng đi mấy phần, để nhóm quân bên trong an nhàn vượt cồn cát ra ngoài.

Khi Nguyễn Hữu Kính ngoảnh lại, hắn đã biến mất.

Ông hỏi han người bên ngoài về tình hình ở núi Chúa, biết rằng quả thật Kế Bà Tử đã đến, đem theo những hoàng thân, quan tướng của Chiêm Thành để thuyết phục quân trên núi bỏ giáo đầu hàng. Hiện thời bọn họ đã tạm thời thỏa thuận được với nhau, nhưng quân Chiêm vẫn còn chưa xuống núi, e ngại sẽ lọt vào bẫy kẻ địch. Ngoại trừ lệnh giải vây của Thống binh đưa ra, họ vẫn chưa có được sự đảm bảo an toàn nào.

“Lệnh cho quân đội toàn vùng giải vây.” Nguyễn Hữu Kính nói với viên thuộc tướng đến đón ông, trước khi trở về Đầm Nại. “Việc đã xong rồi, đừng cản trở người dân trong vùng sinh sống.”

“Nếu phát hiện kẻ khả nghi, có thể bắt giữ nhưng đừng làm hại họ.” Ông dặn thêm. Nơi này còn nhiều sự phức tạp, không thể bỏ lơi, càng chẳng thể hàm hồ khinh suất.

Đoàn quân của Nguyễn Hữu Kính trở lại Đầm Nại khi trời đã sáng hẳn. Ông bảo đảm với Khám lý Kế Bà Tử về sự an toàn của hàng binh, xây những lán trại tạm cho họ. Trong ngày hôm ấy, Khám lý Kế Bà Tử phát ra thông báo không bắt tội người tham gia phiến loạn cũ, kêu gọi họ trở về thôn xóm. Những hàng binh đã cam kết được thả về ngay.

Lê Anh đón họ ngoài doanh trại Nam Hà, phát cho mỗi người vài quan tiền làm lộ phí trở về quê nhà.

Trời đã xế, hắn mới trở bước rời đi. Hắn đã trở về Đầm Nại nghe ngóng tình hình, giờ mới yên tâm. Vượt qua núi Chúa là đến bờ biển, có thể hắn sẽ tìm được một chuyến thuyền rời khỏi vùng đất này, đến Phố Hài. Từ đó, hắn sẽ trở ngược lại dò tìm hai người nọ. Nhánh quân Quảng Phú để cho Vayu coi sóc trên núi vẫn còn, có thể y vẫn sẽ tìm tới.

Qua khu rừng gai góc, hắn tới bờ biển khi chiều đã buông. Đứng dưới lùm cây bụi thấp, hắn đưa mắt nhìn bờ cát trải dài, bãi đá tròn lởm chởm. Đã có vài chiếc thuyền câu đêm chuẩn bị ra khơi, nhưng làng chài ở khá xa nơi hắn đứng. Hắn vừa đi vòng qua bờ biển định tới, một tiếng kêu sau lùm cây chặn hắn lại.

“Này!” Một hai cái đầu đội nón chóp của lính Nam Hà thò qua tán cây thấp, vẫy hắn lại. “Ngươi là ai, làm gì ở đây?”

“Tôi là người buôn bán…” Hắn nói, ngay lập tức nhận ra ánh mắt của kẻ đối diện. Người buôn bán là lý do hợp lý nhất để một kẻ hoàn toàn không giống người Chiêm như hắn ở nơi này, nhưng cũng là mục tiêu bòn rút hăm dọa của đám lính canh vắng chủ.

“Người buôn bán? Có tiền không mà nói là đi buôn?” Toán lính phía sau bụi cùng đi ra, vây quanh hắn. Tán cây vừa rẽ, hắn đã thấy một trại quân được xây ẩn trong rừng.

Trong người hắn hiện tại chỉ còn mấy đồng bạc lẻ. Vừa mở miệng định tìm một lý do nào đó để thanh minh, một tên lính đứng gần hắn nhất chợt giơ tay giật bao hành lý trên lưng hắn xuống. Lớp vải đã không còn tốt rách một đường, để bọc vải nặng trịch trong bao rơi ngay xuống. Tên lính đứng cạnh nhanh tay chộp lấy, giật vải bao ngoài ra.

Ánh sáng xanh tỏa đầy sát khí dường cũng khiến tất cả sững sờ.

Hắn phản ứng trước tiên, giật lại thanh đao từ tay tên lính, gạt kẻ xung quanh ra mà phóng người chạy đi. Toán lính gào thét theo ngay lập tức, phóng dao, giáo về phía hắn. Lính Nam Hà trong đồn trại phía sau túa ra, kéo theo hàng loạt trại quân bên bờ biển. Hôm trước bọn họ đóng nơi này canh phòng cho doanh trại Đầm Nại, giờ vẫn chưa giải tán.

Ánh đao xanh phản chiếu nắng chiều rờ rỡ, khiến sự ồn ào bùng nổ trên bờ biển. Trên bãi cát dài, bị chặn đường trở về núi, hắn chẳng thể trốn đi đâu, chỉ nhắm phía mấy con thuyền mà chạy. May ra, hắn có thể lấy thuyền ra biển…

Lính canh phòng của Nam Hà như cũng đoán ra. Vừa lên tiếng gọi người, bọn họ vừa xua voi ngựa ra tấn công hắn. Võ công của quân lính không cao, nhưng họ đổ đến càng lúc càng đông. Hắn đưa đao đỡ gạt những cú tấn công, nhích từng bước về phía định tới.

Nhận ra ‘tướng địch’, lính canh đốt phong hỏa đài báo cho người ở Đầm Nại. Thấy lửa báo, Thống binh Nguyễn Hữu Kính vội lên voi phóng tới bờ biển. Khi ông tới, mặt trời đã gần lặn hết xuống núi, trận chiến bên bờ biển đã diễn ra một lúc lâu.

“Kia là…” Người quản tượng của Nguyễn Hữu Kính nhận ra ánh đao xanh cùng bóng người đêm trước, kinh ngạc thốt. Nguyễn Hữu Kính cũng ngạc nhiên, nhưng vì một lý do khác.

“Đường đao kia…” Nhận ra hắn, qua khắc hốt hoảng, ông lại ngẩn người dường quên cả kêu gọi đám lính ngừng tay.

Ánh đao múa vun vút trong bóng tối, phảng phất như chớp sáng, như mưa rơi, tựa nắng chiều, dường mây quấn. Nhanh như gió giật không kịp chớp mắt, sấm nổ không kịp bưng tai. Nhưng hoàn toàn không phạm đến người.

Đao chặn lại những cú đánh, gạt đi những đường tấn công của chừng ấy con người, nhưng như gió rẽ qua đồng cỏ, vẽ thành đường thành sóng mà lướt vào những nơi trống trải. Hắn đánh đã lâu, nhưng đường đao không hề chậm đi, ngược lại còn lưu loát mau lẹ hơn.

Có thể đón đỡ chống trả chừng ấy người đã khó, làm cách nào để chống trả như vậy?

Người sử đao võ công đã cao thâm, mà ngay cả thanh đao cũng dường có linh hồn nhận thức. Ánh sáng xanh của nó biến đổi, vẫn lạnh lùng sắc bén nhưng lại trong trẻo, bớt đi mấy phần sát khí mà lại thêm vài phần linh hoạt rực rỡ.

Những người đối đầu với hắn lúc này cảm thấy như bị một bức tường chặn lại. Ánh xanh lòa mắt lướt qua họ, gạt họ sang bên, phá tan vũ khí trên tay họ nhưng dường vẫn còn cách họ một quãng, không có cách nào chạm tới. Hết lớp người này đến lớp người khác xông vào, vũ khí rơi đầy trên đất, họ dùng cả gậy gộc, đá gạch, tất cả đều bị chém phăng.

Đao cắt qua bóng chiều loang loáng ánh nước, chập chờn khói sóng, tan tác bóng cát bay. Nhóm người loạn đả bên biển không kịp thắp lửa, chỉ còn chút ánh sáng nhờ nhờ soi tỏ. Trong đám đông hỗn loạn, hắn cũng chỉ nhìn thấy duy nhất ánh sáng từ thanh đao trên tay.

Như cái đêm ở ngôi chùa đầy dơi nọ, hắn để nó dẫn đường cho mình.

Dường như có tiếng sóng, vọng ầm ì trong không gian, dưới chân, trong lồng ngực hắn. Dường như có tiếng gọi, của muôn muôn vạn vạn con người, những kẻ đang ở nơi đây, những người đã không có mặt. Trong không gian lưu chuyển một làn khí mơ hồ, dường như đang chảy trôi qua hắn, trong từng mạch máu, biến thời gian thành từng nhịp đập của tế bào bưng bưng trong tai. Hắn không biết mình đang dùng loại võ công nào, Vô Âm hay Tuyết Hoa, cả hai hoặc chẳng phải là cả hai. Cảm giác nặng nề thường trực chợt biến mất, bị khí lạnh của thanh đao quét sạch. Đao lạnh như nước, thức tỉnh từng sợi linh hồn. Sát khí như lửa, chợt đốt sạch vô minh.

Đao kiếm có thể giết người, cũng có thể bảo vệ người. Chẳng qua, người ta không biết cách nào để bảo vệ ngoài giết chóc.

Sát khí tích tụ, oán linh kêu gào, do nỗi hận khôn tan.

Lúc này, hắn chẳng hề có ý muốn làm bị thương bất cứ ai. Một sự tổn hại nào bây giờ đều đem lại kết quả vô cùng tệ hại cho cuộc đàm phán, ném tất cả công sức của hắn xuống biển. Nhưng hắn cũng không muốn chết. Chẳng phải là sự bất cần thuở trước, khi hắn đem mạng mình treo đầu ngọn gió. Hắn tuyệt đối không thể chết bây giờ. Hắn còn phải tìm Ngô Lãng và Như Yên.

Ý muốn ấy mãnh liệt đến mức thanh đao cũng phải rung lên, rồi tuân phục hắn.

Trong lúc Nguyễn Hữu Kính còn ngẩn ngơ nhìn đường đao như ma như quỷ nọ, quân chạy theo ông đã ùn ùn xông tới, ánh lửa sáng trời, tiếng hô dậy đất. Còn đang bị vây khốn, hắn chỉ kịp nhìn thoáng qua toán quân đang tới. Hẳn quân cả Phan Rang đã được báo động, dù hắn có lấy được thuyền thì họ cũng sẽ đem thuyền chiến ra chặn đường biển.

Hắn chợt quát một tiếng, đao lướt ngược về sau. Trong bóng tối, chiêu thức vẽ thành đường như ánh chớp, khí lực mãnh liệt đến độ hất văng hàng loạt người về sau, đao kiếm đồng loạt gãy tan. Khí gió quật qua mặt người, thốt nhiên khiến tất cả hãi hùng lùi lại.

Đánh dạt nhóm quân sau lưng sang bên, hắn phóng về bờ biển. Bãi đá đến nơi này đã kết thúc, để một bờ dốc cao dẫn xuống lòng biển đen ngòm.

“Dừng lại!” Giật mình, Nguyễn Hữu Kính vội hét. Nhưng hắn đã phóng người nhảy xuống biển. Chỉ nghe ầm một tiếng, bóng người lẫn đao đã biến mất trong biển khơi.

Nhóm người lố nhố trên bờ đứng chờ một lúc lâu sau đó, vẫn chẳng thấy tăm hơi hắn.

“Hẳn kẻ ấy chết rồi.” Nguyễn Hữu Kính chặn người đang định lấy thuyền ra tìm, lắc đầu. “Đừng làm việc vô ích, còn bao nhiêu chuyện ta phải giải quyết, về thôi.”

Tin báo về triều đình Nam Hà ghi vài dòng kết quả ngắn gọn: Nhóm quân ở Thượng Dã đã bị phá, hạ được A Ban. Toàn quân phiến loạn bị dẹp yên.

Thống binh Nguyễn Hữu Kính một lần nữa khải hoàn trở về Phú Xuân. Lần này, ông không đem theo tù nhân, chỉ có thư khẩn cầu của Khám lý Kế Bà Tử.

“Từ khi vị hiệu cải cách đến giờ, xảy ra nạn đói kém luôn, dân chết vì tật dịch rất nhiều, lòng trời không thuận.” Đọc xong bức thư, chúa Nguyễn Phúc Chu mỉm cười, đặt lại lá thư lên thư án, nheo mắt nhìn viên Chưởng cơ vừa về. “Một lý do như vậy đã đủ cho việc trả lại Thuận Thành?”

“Có thể, thưa chúa công.” Nguyễn Hữu Kính nhẹ cúi đầu. Trong thư phòng này chỉ có hai người, ông không ngần ngại nói thẳng. “Các quan viên khác hẳn cũng đã thấy Bình Thuận chiếm dễ giữ khó, không mặn mà thiết tha gì cho lắm. Vả lại Thuận Thành chỉ là việc nhỏ, không đáng để chúng ta lún sâu mãi bây giờ. Chúa công đem việc này bàn bạc, hẳn cũng không khó tìm được sự đồng tình.”

“Hay cho câu ‘Thuận Thành chỉ là việc nhỏ’.” Nguyễn Phúc Chu lắc đầu. Vị chúa đứng dậy, tự lấy một bức thư đưa cho Nguyễn Hữu Kính. “Khi khanh còn ở Bình Khang, ta đã cho người thăm dò Chân Lạp. Nhóm người Chiêm Thành chạy qua nơi ấy được Đại vương Chân Lạp thu nhận, lại có những quan hệ mờ ám. Kẻ nào hỗ trợ nhóm người ở Thượng Dã? Vừa rồi Oc-nha That đem tàn quân chạy về nương náu trong đất Chân Lạp, ta tuy có danh nghĩa dẹp được loạn đảng, nhưng thật ra chẳng bắt được kẻ nào.”

“Đại vương Chân Lạp là lão cáo già, đã rũ bỏ hết trách nhiệm rồi.” Nhún vai, Nguyễn Phúc Chu ném lá thư trở lại bàn, lấy ra một tờ biểu khác. “Lão tự động thoái vị, nhường ngôi cho cháu trai, con của vua trước từ đầu năm, bản thân lên làm Thượng hoàng. Bây giờ ta hỏi tội Chân Lạp thì cũng chỉ trừng phạt được con bù nhìn làm bia chắn cho lão. Nặc Yêm có muốn nhân danh nghĩa gì mà dòm ngó tới ngai vàng hay vị trí Nhị vương cũng không còn hy vọng.”

“Nam Chưởng cũng vừa sinh biến, nhà vua bên ấy qua đời mà không có người nối dõi. Sứ giả đến báo tang cho ta bảo sớm muộn gì cũng loạn to. Có khi Nặc Thu thoái vị để chuẩn bị cho việc ấy đấy thôi. Chân Lạp hay Đại Thành lấn sang được Nam Chưởng thì cũng đã tiến sát ngay Phú Xuân này rồi.” Trở về chỗ ngồi, Nguyễn Phúc Chu chống cằm lên tay, nhìn gương mặt trầm ngâm của viên tướng. “Tiên chúa lường trước tới việc này nên mới củng cố quân đội, phô trương thanh thế, thu phục lân bang. Người cũng từng nói, đừng để trong nhà mải mê đánh nhau, đến lúc bị chiếm giữ lại điên cuồng chống trả, nghiêng đông nghiêng tây trở thành công cụ cho người ta lợi dụng. Chỉ cần yếu đi, mất đi sự khống chế một mảy may, ta sẽ bị cuốn trôi trong lũ ngay lập tức.”

“Đất đai nơi này không thể làm đê điều, chỉ có thể điều chỉnh dòng chảy, sống chung cùng bão lũ.” Nguyễn Hữu Kính cúi đầu, mờ nhạt cười. Gương mặt phong sương của ông lại che đi tất cả biểu hiện cảm xúc. “Điều quan trọng là ta phải chuẩn bị thật tốt, ứng biến thật nhanh.”

“Và quản lý thật chặt.” Nguyễn Phúc Chu mỉm cười. “Khanh làm Trấn thủ Bình Khang, nghĩa là chỉ huy của toàn phương Nam. Bắc thì coi sóc Phú Yên, Nam thì canh chừng Chiêm Thành, Chân Lạp, liên quan đến an nguy của toàn vùng biên giới. Việc nên làm thì nhất định phải làm.”

“Thần hiểu.” Nguyễn Hữu Kính vẫn cúi đầu.

Khi viên Chưởng cơ rời đi, thế chỗ ông là nhóm người khác cũng vừa trở lại. Năm người quỳ dưới bậc thềm, cất tiếng chúc vạn phúc rồi mới đứng lên theo lời vị chúa. Bọn họ đều mặc áo đoạn đen kiểu thư sinh, nét phong trần mệt mỏi vẫn còn in trên gương mặt.

“Ta đã nghe việc bất hạnh của Trường và Nhã, rất tiếc…” Nguyễn Phúc Chu ngậm ngùi nói, nhìn gương mặt đã bị tàn phá một nửa của Kỳ. Viên đội trưởng nhóm Tiểu sai chỉ lặng lẽ dâng lên cho vị chúa một cây đàn cổ.

“Đàn này năm xưa tiên chúa tặng cho các anh em thần. Nay đàn đã đứt dây không thể gảy, chúng thần đành phụ lòng tiên chúa. Mong chúa công có thể nối lại dây đàn, hòa một bản nhạc khác.” Kỳ cung kính nói. Ý định này của bọn họ đã được báo trước cho vị chúa, Nguyễn Phúc Chu không có vẻ ngạc nhiên. Ngài ta chỉ đăm đăm nhìn bọn họ, cuối cùng gật đầu.

Ánh nắng cuối ngày rơi vào bậc thềm họ để lại.

Nguyễn Phúc Chu rời khỏi thư án, bước ra hàng hiên ngẩng đầu nhìn trời. Ngài đã không hỏi nơi bọn họ sẽ đến, vì nghĩ rằng mình đã biết nơi ấy.

Những cánh chim đang bay về dãy núi xa, tiếng kêu vang động bóng chiều.

Trả lại quyền tự trị cho Thuận Thành, đặt lại Kế Bà Tử làm Phiên vương. Cho người yên ủi nhóm họ Trần ở Đông Phố để coi chừng Chân Lạp. Củng cố lại Quảng Bình để ngăn ngừa quân Trịnh và biến động tại Nam Chưởng.

Phát triển quân đội, duyệt tuyển nho sinh. Kiểm tra lại tất cả công việc ở các nha phủ huyện, siết chặt quản lý. Đám cháy phát từ Tướng thần lại ty năm nào không thể tìm ra nguyên do, nhưng phải chặt đứt hậu quả tận gốc.

Xây chùa trấn quốc. Cho người sang Quảng Đông đón sư tăng chuẩn bị lập đàn tế lớn nhất chưa từng có.

Để người nơi này biết họ đang ở trong nền cai trị của ai. Để tất cả đều biết đã có một thế lực mới hình thành. Để rồi, một quốc gia tạo lập.

Rồi ngài, chính ngài, sẽ tạo thành tất cả, sẽ tạc bia ghi dấu, sẽ viết sách lập sử về những bước đường bọn họ đã đi. Trăm năm, ngàn năm, sẽ được tạo thành từ những năm tháng này.

Nhưng trang giấy không ghi được cánh chim trời trong chiều muộn. Bóng thành quách lâu đài ngả dài lặng lẽ im lìm.

Tiếng chuông chùa vang, từng đợt ngân dài vào thinh không bao la vô tận. Ngài nghĩ tới những điều sẽ làm vào ngày tháng sau này, những điều còn đang dự định, những việc còn phải hoàn thành. Và những gì sẽ nối tiếp năm năm tháng tháng…

Trong bóng đổ hoàng hôn tràn ngập mắt trong.




Hồi 98: Giải vây
Thursday, October 3, 2013 Author: Trường An

Quân Bình Khang do Trấn thủ Nguyễn Hữu Kính chỉ huy đến Phan Rang, đóng bên Đầm Nại. Vừa ổn định xong quân, Nguyễn Hữu Kính đã cho gọi Nguyễn Thắng Hổ kiểm kê binh lính, tấn công vào vùng núi phía Tây. Đã bắt giữ được nhiều tù binh đêm trước, lại đem quân Chiêm do Kế Bà Tử dẫn đường, quân Nam Hà xuyên qua vùng đất khô cằn Phan Rang tấn công lên núi.

Thấy Kế Bà Tử và quân Chiêm đi trước, nhóm người trong núi đâm ra chần chừ. Kế Bà Tử vừa đi vừa kêu gọi đầu hàng, lời lẽ khẩn thiết, lại có nhóm quân Nam Hà đi sau phòng bị, quân Chiêm trong núi không dám tùy tiện phóng bẫy như họ đã dự kiến. Tuy Kế Bà Tử không dám đi sâu vào rừng, viên Khám lý này cũng không gặp một sự chống cự nào. Những địa điểm phòng thủ đầu tiên của quân nổi dậy bỏ trống, bị phóng lửa đốt rụi.

Đến cuối ngày hôm ấy, Quảng Phú cũng đã nhận ra nguy cơ kế hoạch của mình tan vỡ.

Dùng Kế Bà Tử làm bia chắn, quân Nam Hà có thể đánh sâu vào rừng. Tấn công làm hại vị hoàng thân này thì sẽ gặp phản ứng mạnh ngay từ trong dân bản xứ. Giết Kế Bà Tử không được, để yên cho ông ta ngày này sang ngày khác càn quét cả cánh rừng, triệt tiêu các căn cứ, rồi toán quân này cũng sẽ không đánh mà tan, chẳng còn nơi nào trú ngụ ngoài chạy lên núi.

“Chết tiệt!” Nghiến răng trèo trẹo, Quảng Phú thầm nguyền rủa cả Nam Hà lẫn Kế Bà Tử. Những người xung quanh vẫn nhìn gã chờ đợi, như thể hy vọng gã sẽ tìm ra phương cách nào.

Đến cả Ngô Lãng còn phải rút lui khi Nam Hà cột Kế Bà Tử vào cổng thành đỡ đạn, gã còn có thể làm gì?

Thở phì phì một lúc, Quảng Phú chợt vẫy Vayu lại gần.

“Quân Nguyễn Hữu Kính đang ở Đầm Nại?” Không đợi Vayu xác nhận, Quảng Phú đã ngoảnh nhin tấm bản đồ dưới nền lán, ngón chân di di lên vị trí Đầm Nại. “Nơi này phía Đông Bắc thì có núi Chúa, phía Tây Nam thì có núi Cà Đú. Ta có thể chủ động tấn công rồi rút vào núi.”

“Núi Cà Đú nhiều hang động, có thể ẩn náu được. Chỉ có điều, nơi này cũng như núi Chúa nằm ở phía Đông gần biển hơn là rừng, nếu ta rút vào rồi bị bao vây thì sẽ gặp khó khăn lắm. Mùa này khô hạn[1], ở những nơi ấy cũng chỉ có xương rồng, cây tạp…” Vayu thận trọng đáp. Quảng Phú lại nôn nóng phẩy tay.

“Đợi đến lúc ta ăn sạch cả núi thì quân Nam Hà cũng đã bị nắng nóng nướng chín rồi. Chúng đưa quân tản ra bao vây thì càng tiện cho ta đánh du kích xuống, bắt vài đứa lên mà moi tim nhắm rượu.” Gã đập đập chân vào mép tấm bản đồ, gật đầu. “Cốt đánh cho quân ấy hoảng loạn phân tán chứ không cần thắng.”

“Nhưng Nam Hà đóng quân ở đó, lại chẳng lường trước được sao?” Vayu vẫn cẩn thận cân nhắc. Quảng Phú cười lớn.

“Đi đánh nhau thì kẻ này đều lường được kẻ kia làm gì, chẳng qua kẻ nào khôn khéo hơn thôi.” Gã ngẩng nhìn qua cửa lán, nheo mắt. “Ngày mai có gió lớn, cát di chuyển, ta nương theo mà đi, thần thánh mới tìm được.”

Nói là làm, Quảng Phú ngay lập tức gọi người chuẩn bị một toán quân vòng lên Cà Đú, một toán đi về núi Chúa. Thấy ý chí quân tình đã có vẻ nao núng, gã liền đích thân dẫn toán quân đến núi Chúa. E ngại Kế Bà Tử lại đến, Quảng Phú chỉ cho Vayu cùng một toán quân nhỏ ở lại núi, tất cả quân còn lại chia ba. Ngoài hai nhánh đến núi, một nhánh khác phân tán trong vùng, chờ đợi hiệu lệnh tiếp ứng.

Hôm sau, quả nhiên gió lớn. Gió bốc từ trong núi, lưu chuyển giữa ba phía núi và biển mà cuộn xoáy không theo một hướng nào. Những cồn cát theo gió mà thay hình đổi dạng, chợt hiện chợt mất. Xua một đàn bò đi trước nghi binh, quân do Quảng Phú chỉ huy âm thầm nương theo bóng cát mà đi. Họ vòng về phía Bắc rồi mới men theo vùng Cam Ranh sang núi Chúa. Nắng như đổ lửa trên đầu, cát nóng rẫy dưới chân, gió thổi cát bay qua da thịt ran rát như bỏng, vùng đất này đang ở trong thời điểm khô hạn nhất. Vài khu ruộng nhỏ cũng nứt nẻ trơ khấc dưới nắng. Nắng nhanh chóng hun kiệt sức lực của con người. Dù sức khỏe tốt, nhưng không quen với thứ nắng hạn gắt gao này, đi được nửa đường, Quảng Phú đã thấy trước mắt choáng váng. Gió thổi cát bay bụi mù trời, biến ảo muôn hình vạn trạng mơ hồ chói chang, những cụm xương rồng như cũng đang bay lướt đi trong cát.

Quân Chiêm vốn đã quen thủy thổ nên chỉ im lặng mà đi, Quảng Phú cũng chẳng dám kêu ca. Đến cuối ngày hôm ấy, họ đến chân núi Chúa khi trời đã tối. Đêm tối, họ không dám xông vào khu rừng đầy xương rồng và gai nhọn, phải đóng trại trên cát, giữa một bãi đá. Quảng Phú nốc ừng ực nước vừa được đem về, nhăn mặt vì cát lẫn với bùn. Mùa khô, suối trên núi gần cạn hết, khó khăn lắm mới tìm được nước.

‘Giải quyết nhanh đi thôi.’ Chép miệng, gã nghĩ thầm, ý định quấy phá Nam Hà hồi lâu cũng nhạt đi. Đằng nào toán quân này cũng không có cơ hội thắng, dằng dai hành hạ nhau thêm một lúc ở nơi như lò lửa này có ích lợi gì?

Nghĩ thế, gã phấn chấn lại, vạch ra kế hoạch tấn công ngay hôm sau. Từ phía bên này núi Chúa, bọn họ sẽ đi thêm một ngày đến Phan Rang, tấn công doanh trại Nam Hà tại Đầm Nại ban đêm. Đã gần rằm, trăng sáng tỏ, thích hợp cho một cuộc chiến ban đêm.

Đêm tối, cát khơi, rừng núi sẽ nuốt trọn tất cả, chẳng ai hay ai biết.

Hôm sau, nhóm quân lại xuyên qua rừng mà đi. Rừng vùng hạn, xương rồng mọc thành lớp dưới chân, cây cối gai góc giăng chằng chịt, gai đâm tua tủa từ mọi hướng, trên mọi cành cây cái lá xung quanh. Bọn họ phải phát rừng mà đi, đến nơi đã định đúng hạn nhưng vất vả trên đường cũng bào mòn đi nhiều sức lực. Những vết do gai tầm dã[2] đâm phải cũng loét ra, mưng mủ nhức nhối.

Thấy bóng tối đã buông, Quảng Phú vội giục bọn họ chuẩn bị nhanh. Trăng vừa lên quá ngọn cây, gã đã gọi người tập hợp, chia đội nhóm men theo bờ suối cạn đi về phía Đầm Nại. Nếu theo đúng kế hoạch, toán quân đến Cà Đú theo đường gần hơn cũng đã tới nơi. Dừng chân ở chân núi, Quảng Phú cho người đi liên lạc với bọn họ. Bắt được tín hiệu đồng tình, gã lập tức cho quân nhắm ánh lửa sáng bên đầm nước tiến tới.

Sườn núi thoai thoải dốc xuống đầm nước lớn đổ ra biển, đất lạo xạo cát lẫn với đá. Dòng suối mùa này chỉ còn chút nước cạn chảy leo lắt, Quảng Phú cho quân lội xuống, dựa vào đường hào tự nhiên này đi tới. Đến đoạn suối đổ ra đầm, nước dâng cao, nhóm quân này mới trèo lên, lẩn vào bóng cây bụi. Một nhóm quân nhỏ thả bè theo dòng âm thầm trôi tới đầm. Đầm nước rộng nằm lọt giữa ba phía núi trập trùng, đất ven bờ cát lẫn với vài cụm cây nhỏ rải rác. Quân Nam Hà đã đóng doanh trại ở phía bờ Tây của đầm, xây hai lầu gỗ cao để quan sát.

Đất bằng thoáng đãng, trăng lại sáng, họ chẳng mấy khó khăn để nhận ra những bóng đen đang di chuyển lại gần.

Lúc ấy, quân Chiêm cũng đã tiến đến khoảng cách vừa đủ. Thấy quân Nam Hà lên tiếng báo động, Quảng Phú cũng cho thổi tù và, đánh thanh la, đốt pháo báo hiệu cho toán quân bên kia. Quân Nam Hà vừa đổ ra lũy, quân Chiêm đã lợi dụng địa thế đẩy đá quấn rơm cháy phừng phừng tới. Ở phía Nam, quân đánh từ Cà Đú thả bò núi rầm rập chạy tới lũy Nam Hà, kéo theo những xe chất củi khô đã đốt lửa. Chỉ trong thoáng chốc, doanh trại Nam Hà đã như bị một vòng lửa sáng rực bao vây.

Quân Chiêm theo lửa xông tới áp sát doanh trại Nam Hà, bất chấp vài khẩu pháo đã nổ. Vừa chạy, họ vừa kéo theo những bó củi, xe gỗ rưới dầu rái, dầu trám theo, phần ném vào doanh trại, phần chất vây quanh lũy. Tên, giáo bắn xuyên qua bức tường lửa bắt cháy, đã đốt lên vài đám lửa trong chiến lũy của Nam Hà.

Nhưng quân Nam Hà qua khắc đầu tiên đã lấy lại bình tĩnh. Pháo nổ, bức quân Chiêm cùng đàn bò núi thoái lui. Xạ thủ nổ súng hạ những kẻ địch đã áp sát lũy. Sau những đụn cát, quân Chiêm vẫn kiên trì bám trụ, bắn tên và lăn đá đến tấn công. Mấy nhóm người nâng tấm gỗ buộc rơm lên đầu đỡ tên đạn, chầm chậm tiến về phía doanh trại Nam Hà. Pháo Nam Hà bắn vào trong cát tung bụi mù trời, cùng với khói tỏa dày đặc, chẳng mấy chốc đã phủ cả khu đầm trong màn khói bụi mịt mùng không còn nhìn đâu ra nhân dạng. Dựa vào cát, bụi và lửa, quân Chiêm ngoan cường tiến trong đạn pháo. Quân Nam Hà chỉ có thể ngăn họ áp sát lũy.

Nghe phía Nam có ba tiếng nổ lớn, thanh âm ồn ào lại vọng bốn phương. Nghe động, quân Chiêm đã phân tán trong vùng gần đó lập tức hưởng ứng, kéo theo cả người dân đi theo. Chừng chục con voi lừng lững đi tới, dẫn toán quân đông chừng ngàn người tiếp ứng cho nhóm tấn công trước đó. Quân Nam Hà trong lũy đã bị phân tán về hai hướng, chậm chuyển quân thủ phía Tây, để nhóm quân Chiêm vượt qua tầm pháo tiến vào.

Quân Chiêm cậy vào số đông và màn đêm che giấu, muốn phân tán quân Nam Hà thủ lũy khiến họ chẳng mấy chốc mà rối loạn. Pháo Nam Hà quả nhiên bắn cập rập một lúc rồi đâm vấp váp, để kẽ hở cho quân Chiêm ào qua. Bức tường lửa ngày càng được đẩy đến sát lũy Nam Hà.

Tiếng động ầm vang của chiến trận đã xóa nhòa đi những thanh âm khác. Đứng ở khoảng đất xa xa thúc quân xông tới, Quảng Phú đột nhiên giật mình nhìn quanh khi nghe âm thanh truyền tới từ đầm nước. Ngoảnh lại, gã nhận ra ngay lập tức thuyền chiến của Nam Hà.

Những chiếc thuyền này hẳn đã dựa men vào bóng núi, hoặc đậu ở cửa đầm nên không bị phát hiện ra. Lúc này, mọi khẩu pháo trên thuyền đã hướng vào trong bờ.

Nhưng Quảng Phú quay đầu, xem như không hề nhận ra.

Những người say máu chiến ngoài lũy chỉ biết đến sự xuất hiện của đoàn thuyền chiến khi pháo trên thuyền phát nổ, hất tung những lũy cát bên ngoài.

Những chiếc thuyền Nam Hà tản ra trên mặt đầm, nổ pháo vào trận địa ngoài doanh trại Nam Hà. Quân Nam Hà trong lũy nổ súng và pháo hưởng ứng, toán quân Chiêm bên ngoài nháo nhào bỏ chạy trước hai làn đạn như lật tung cả đất lên.

Phía Tây Nam, lại nghe pháo hiệu nổ. Quân Nam Hà đóng gần đó cũng đã tới tiếp ứng, đánh sau lưng nhóm quân Chiêm vừa tới, cắt đứt đường lui về Cà Đú. Lũy Nam Hà mở, quân Nam Hà xông ra, giáp chiến với quân Chiêm cũng đang quay đầu định bỏ chạy.

Ở bốn phía, trong khói bụi đen đặc và đạn pháo dập dồn, quân Chiêm hoảng loạn chạy trốn tứ tán, không biết chạy về đâu cho phải. Những viên tướng ra sức kêu gào, không át được thanh âm sợ hãi.

Quảng Phú đã biến mất trong làn khói. Toán quân xung quanh gã phát hiện chủ tướng mất tích, không khỏi hoảng hốt. Sự hoảng loạn loan ra toàn quân. Trong đạn pháo Nam Hà đan mắc rít gào, quân Chiêm vỡ trận, mỗi người tự cắm đầu chạy một hướng.

Từ bốn phía, quân Nam Hà siết chặt vòng vây, lùa quân Chiêm tụ về một góc bờ đầm. Trong lũy, ánh lửa sáng lòa, soi tỏ con voi to lớn cùng người đứng trên lưng nó. Trấn thủ Bình Khang Nguyễn Hữu Kính phất cờ hiệu, lệnh cho quân lính mau chóng giải quyết chiến trường. Thấy tướng địch, nghĩ đã lâm vào đường cùng, quân Chiêm bất ngờ phản kháng. Một vài người chạy sang bên, lấy thân che đỡ cho nhóm ở giữa, lao về phía Nguyễn Hữu Kính. Lại nghe tiếng chiêng dồn, Kuvera vốn vẫn còn náu tại chân núi Cà Đú đem số quân còn lại phá vỡ một góc vòng vây của Nam Hà, xua đàn bò cả trăm con đem theo nùi lửa xông vào giữa bãi đất, đốt cháy một hòm đạn pháo. Tiếng nổ kinh động, ánh lửa bắn sáng một góc trời đẩy dạt người xung quanh đi. Nhân lúc rối loạn, một người lính Chiêm lao tới, quăng câu liêm định móc Nguyễn Hữu Kính khỏi bành voi, ông giơ đao gạt được. Thấy chủ tướng bị nguy, quân Nam Hà đâm sôi máu, xông lên đánh giáp lá cà với quân Chiêm Thành.

Vốn đã đông hơn, lại trang bị hỏa lực mạnh, quân Nam Hà chẳng khó khăn đẩy quân Chiêm lùi lại. Sự ngoan cường của quân Chiêm Thành lại càng khiến kẻ địch nổi nóng. Đạn pháo lại lên nòng, sẵn sàng triệt hạ cho bằng hết số quân ‘phản loạn’ này.

Vừa lúc ấy, một tiếng nổ lớn chợt vang. Lửa bùng lên từ một cồn cát nhỏ, chạy dọc một đường về phía lũy Nam Hà, cắt ngang chiến địa. Ánh lửa rừng rực cháy soi tỏ bóng người trên cồn. Một nhóm quân Chiêm tụ tập bên con voi xám. Trên bành voi thấp thoáng ánh đao xanh lạnh buốt.

Kẻ trên voi giơ đao chỉ lên trời, đao bắt lấy ánh trăng như lòe lòe tỏa sáng.

A Ban…” Tiếng thì thào, tiếng gọi, tiếng thốt lên lan ra trong cả quân Nam Hà lẫn Chiêm Thành. Nhóm người ở cồn đánh chiêng thu quân. Nghe hiệu, thấy ‘A Ban’ xuất hiện, quân Chiêm trong trận bỏ chạy về hướng ấy. Đường lửa cháy cứ thế lan ra theo vệt dầu rái trên đất, tạo thành một góc mở cho quân Chiêm thoát ra.

Nguyễn Hữu Kính vội gọi người đuổi theo. Bên kia, quân cứu viện cũng xông tới, vừa bắn yểm trợ vừa làm thanh thế chặn quân Nam Hà. Con voi xám lừng lững chạy đến, thốt nhiên khiến lính Nam Hà đang tới phải thối lui. Đạn pháo lác đác nổ, nhưng hầu như toàn bộ ánh mắt đã đổ dồn về phía con người cùng thứ vũ khí đã tạo nên một loại huyền thoại không chỉ trong người Chiêm quốc.

Thấy thế, Nguyễn Hữu Kính thúc voi xông tới, cùng quân chủ lực đến tấn công ‘A Ban’ nọ. Người quản tượng đánh dứ mấy đường, con voi chợt quay đầu bỏ chạy.

Nhắm theo bóng con voi xám, quân Nam Hà đuổi theo bén gót. Nguyễn Hữu Kính đã từng nghe về những mưu kế của A Ban, nhưng vùng đất này đã hoàn toàn nằm trong quyền kiểm soát của Nam Hà, ông tin rằng y chẳng còn cách nào trốn thoát. Chỉ cần y xuất hiện, tình thế chiến trường đã hoàn toàn thay đổi. Một kẻ như thế, không thể để thoát.

Con voi xám chạy hết tốc lực, vòng qua những cồn, đồi và bụi thấp, men theo chân núi Chúa chạy về phía Bắc. Nguyễn Hữu Kính vừa cảm thấy ngờ ngợ phương hướng bất thường của đàn voi, ông cũng chợt nhận ra quân Chiêm không chạy theo ‘A Ban’. Đuổi theo y chỉ có quân tướng Nam Hà.

Vài khẩu súng nổ, nhưng vướng phải cồn cát và cây bụi, không nhắm trúng được con voi cùng kẻ trên nó.

Nguyễn Hữu Kính định cho đốt pháo hiệu báo cho quân đóng ở phía Bắc, đã thấy con voi xám đột ngột dừng trên một đồi thấp. Bọn họ đã lọt vào một vùng đất hoang lố nhố cồn cát, cát tuy bằng phẳng nhưng lún qua mắt cá chân người.

Ở khoảng cách này, ông đã nhìn rõ người trên bành voi xám. Tóc bị gió thổi tạt che nửa mặt, ánh đao xanh lập lòe chiếu lên sắc áo trắng, trong bóng trăng, trông ma mị tựa như một oan hồn. Nhưng cái cử tay nhấc chân của y lại dứt khoát mạnh mẽ, tựa cái bóng trong gió thổi.

Kẻ ấy vừa phất tay, gió đã rào rào nổi lên.

Trong vùng đất bị núi chắn này, gió có thể thổi không theo một hướng nào, cuộn xoáy, quăng quật đủ mọi chiều. Nguyễn Hữu Kính không lạ những đợt gió bất ngờ như thế này, gọi quân ổn định chờ gió lặng.

Gió thổi một lúc rồi yên. Bụi mù vừa tan, quân Nam Hà, kể cả Nguyễn Hữu Kính, vừa nhìn rõ đã bật thốt lên kinh ngạc.

Ngọn đồi mà kẻ kia vừa đứng đã biến mất. Gió tan, vùng đất này như thể đã biến đổi thành một cảnh tượng khác. Những đồi, cồn thay đổi vị trí, nơi ẩn nơi hiện. Cát bay theo gió, đổi dạng thay hình, chớp mắt đã hóa thành lạ lẫm.

Họ còn đang dõi mắt tìm kiếm kẻ kia trong vùng đất, gió lại ào ào nổi. Cứ ba bốn lượt như thế, Nguyễn Hữu Kính nhận ra mình đã bị vây bởi lớp lớp cồn cát.

Không hiểu bằng cách nào, gió xoáy đã tạo nên một vòng tròn cồn cát liền lạc trập trùng như thành lũy bao quanh nơi họ đứng. Nhìn bằng mắt thường, Nguyễn Hữu Kính cũng đã nhận ra phương vị kỳ lạ của một vài cồn, như thể một trận địa. Trong tiếng gió núi, âm thanh lao xao bên ngoài vẫn còn có thể nghe rõ. Kẻ ‘bên ngoài’ dựa vào thành cát này mà vây ngược lại ông.

Hoặc quân Chiêm vẫn còn đang đánh nhau với quân Nam Hà đuổi theo sau. Nguyễn Hữu Kính lắng tai nghe, nhận ra âm thanh đao kiếm và súng nổ rời rạc. Kẻ kia nghi binh, thu hút quân Nam Hà đuổi theo, để quân Chiêm rút chạy. Nhưng vì thế, toàn bộ quân Nam Hà trong vùng đất này sẽ tụ về đây.

“Không sao, quân ta vẫn còn ở ngoài.” Nguyễn Hữu Kính lắc đầu, trấn an quân lính. Gió vẫn tiếp tục nổi, nhưng lũy cát đã thành hình che chắn cho người ở trong không bị gió quật. Họ thấy bụi cát tung mù trời trên đầu.

Một tiếng nổ lớn chợt vang, khiến đất rung lên. Quân Nam Hà quả nhiên đang tới, cho bộc phá nổ cồn đất chắn đường.

“Không thể phá được cát đâu.” Tiếng cười chợt vọng trên đầu nhóm quân Nam Hà. Nguyễn Hữu Kính ngẩng nhìn, thấy kẻ áo trắng đã ở ngay trên cồn cát gần ông nhất. Cát bay quanh hắn như một màn sương chập chờn. Hắn nhìn lại ông, mỉm cười, đôi mắt trong sáng như ánh trăng trong đêm lạnh. “Cát bay đi, rồi chỉ cần một cơn gió lại tụ về. Càng đánh mạnh, càng vô ích.”

Một người trong nhóm kêu khẽ, bắn súng về phía hắn. Chỉ thấy cát bụi lay động, hắn đã đứng ở vị trí khác, chẳng buồn quay đầu nhìn kẻ vừa bắn.

“Ngươi định làm gì?” Nguyễn Hữu Kính cau mày hỏi. Mũi đao chúc xuống đất, dáng bộ nhàn nhã, trên gương mặt lẫn thần thái không có chút sát khí, thậm chí là đấu khí, hắn chẳng có vẻ giống người mà ông đã từng nghe. Hắn cũng chẳng định xông vào bọn họ bây giờ, nụ cười nhàn nhạt nửa như thản nhiên, nửa như trêu ngươi.

“Tướng quân, có thể bỏ vòng vây bên ngoài đi, được không?” Hắn vẫn cười. “Quân Chiêm vừa trốn ra hẳn chỉ có cách chạy lên núi. Quân Nam Hà không bỏ vòng vây, thậm chí Khám lý Kế Bà Tử không chấp nhận, bọn họ chỉ còn cách thủ chết trong núi. Tướng quân bỏ vây, tha thứ cho bọn họ, tôi sẽ có cách thuyết phục bọn họ quay về.”

“Lừa đảo!” Lời hắn chưa hết, một người trong quân đã hầm hừ quát. Đôi mày Nguyễn Hữu Kính cau càng sâu.

“Làm sao để ta tin ngươi?” Linh tính mách bảo ông rằng kẻ này không phải ‘A Ban’, thậm chí còn có đôi phần quen thuộc.

“Mạng tôi ở đây.” Hắn vẫn thản nhiên cười. “Giết địch cốt chém tướng, thu phục đất đai, ổn định lòng người là trên hết, sá gì mấy cái mạng con của lính? Chỉ cần tướng quân chịu buông tha cho họ, nếu có bất trắc cứ lấy mạng tôi.”

“Ngươi cũng đâu có chạy được.” Một người lại hừ khẽ. Hắn bật cười.

“Dưới đất này có gài pháo. Chỉ cần một vụ nổ, không cách nào tìm ra người bị cát vùi.” Ánh mắt hắn nhìn Nguyễn Hữu Kính lại thoáng vẻ thích thú là lạ. “Tướng quân hẳn cũng chẳng vui vẻ gì với trò hù dọa nhau thế này?”

“Ta làm cách nào liên lạc ra ngoài?” Im lặng một lúc, Nguyễn Hữu Kính hỏi. Hắn ném cho ông một bọc nhỏ, bên trong có thư gọi giải tán vòng vây đã chuẩn bị sẵn.

“Cần ấn tín của tướng quân.” Hắn nói. Không hỏi thêm, Nguyễn Hữu Kính đóng ấn tín vào giấy, ném trở lại. Người lính bên ông vội cất tiếng ngăn cản.

“Tướng địch đã cầu hòa, ta không hẹp lượng.” Nguyễn Hữu Kính xua tay. “Trận ta có thể đánh, người ta có thể bắt lại, lo lắng gì?”

“Tướng quân quả là em trai của Hào Lương hầu.” Cầm mảnh giấy, hắn cười nói. Trong bụi cát rào rào, họ chỉ thấy hắn ném thư cho một bóng người gần đó. Đợi kẻ ấy đi khuất, Nguyễn Hữu Kính chợt lên tiếng.

“Ngươi là ai?” Lúc này, ông tuyệt nhiên không tin kẻ trước mặt là A Ban. Đem mạng mình cầu tình cho toán lính Chiêm Thành, còn có kẻ nào?

“Người qua đường thôi.” Nụ cười của hắn vẫn trong sáng như trăng lạnh. Hắn gật đầu trước vẻ mặt của nhóm quân Nam Hà. “Đến bọn họ cũng chưa chắc đã biết tôi là ai.”



Chú thích:

    [1] Phan Rang, Ninh Thuận đến tháng 9,10 mới có mưa, cũng chỉ mưa trong 2 tháng. Vùng này mỗi năm có 9 tháng hạn, 2 tháng kiệt, 2 tháng mưa, là vùng khô cằn nhất VN.

    [2] Gai tầm dã hay còn gọi cỏ gai, mọc ở Ninh Thuận, Bình Thuận, đâm vào da sẽ loét và mưng mủ.




Hồi 97: Cùng quẫn
Sunday, September 29, 2013 Author: Trường An

Đánh tan đoàn quân Chiêm Thượng ở Dã Dương, Cai cơ Nguyễn Thắng Hổ lập tức dẫn quân trở về Phan Rang. Đoàn quân này thậm chí không hạ trại nghỉ ngơi, chỉ có đoàn thuyền từ Phố Hài đi dọc theo ven biển tiếp tế cho họ.

Nhóm quân của Nguyễn Thắng Hổ về bao vây Phan Rang hầu như cùng lúc với những người từ Dã Dương đến báo tin. Nghe tin, Quảng Phú ra lệnh rút quân vào trong núi, nhưng những trạm lũy chặn đường Nam Hà vẫn chưa được triệt phá. Quân Nguyễn Thắng Hổ liền đóng ở phía Đông Nam ven dòng sông Lũy, hợp sức cùng quân Nam Hà và người của Kế Bà Tử đã tỏa đi trước đó bao vây Phan Rang vòng trong vòng ngoài, cắt đứt chi viện cho Phố Hài.

Quân Nguyễn Thắng Hổ đã tới quá nhanh, Quảng Phú cùng Chế Vinh chỉ kịp phát lệnh rút quân vào núi, mọi sắp xếp đều trở nên hỗn loạn cập rập. E ngại Nam Hà tấn công cấp kỳ, quân Chiêm Thành bố trí lại chiến lũy phòng thủ ngay trong đêm. Từ đỉnh núi nhìn xuống, ánh lửa thấp thoáng trong khu rừng như ngàn con đom đóm đỏ.

Mây chợt ùn ùn kéo đến che phủ bầu trời, gió mạnh thổi đất bụi cùng sương bay rào rào. Bầu trời đỏ quạch màu đồng tối tăm như đổ ập xuống rừng tối đen ngòm. Rừng núi vặn mình vang động trong đêm, át đi hầu như tất cả thanh âm lọt vào trong nó.

Nửa đêm, tiếng sáo bỗng cất lên trên đỉnh núi. Theo gió bay đi, theo bụi cuốn tròn, theo thanh âm của rừng mà vang vọng. Trầm sâu như bóng tối, cuồn cuộn như bão gió, lại lạnh buốt tựa khí núi xông mây.

Chợt nhanh chợt chậm, tiếng sáo không theo một nhịp điệu nào, dần dà khiến lòng người nghe được cũng phải đâm hỗn loạn. Từng âm từng tiếng rõ ràng vang vọng, không cao chẳng thấp, nhưng sắc lạnh tựa dao đâm, xoáy sâu cồn cào như vực xoáy. Tiếng sáo thoáng nghe qua có vẻ bình hòa, chỉ một lúc đã thấy tâm tư rối loạn.

Nhưng đôi mắt hắn chỉ dõi vào bầu trời tràn mây đỏ, trong sáng tĩnh lặng, phản chiếu bóng đêm vô tận mịt mù. Trong gió, mái tóc rối tuột khỏi dây buộc bay tán loạn, sợi dây điều của sáo bay quấn quanh cổ tay hắn, hắn cũng chẳng nhận ra.

Theo gió, mùi hương thoang thoảng phả vào khứu giác hắn. Trên thân sáo lưu hương chưa nhạt, có lẽ cả hơi ấm của nàng vẫn còn quyến luyến chưa tan hết.

Nàng đã đem cây sáo trả lại hắn, thông qua bọn người Xuân Tử. Chiều tối này bọn họ vừa mới tới nơi, vẻ lo lắng pha lẫn giận dữ vẫn còn in hằn trên khuôn mặt. Tiểu thư lại tự tiện hành xử vô lý, Xuân Tử vốn điềm tĩnh nhu hòa cũng phải cất tiếng than phiền. Cô ấy lừa mỗi người chúng tôi đi một hướng, rồi đưa Ngô Lãng tẩu thoát.

Tiểu thư để lại thứ này trong hành lý, Xuân Tử nói, đưa cây sáo cho hắn, giọng thoáng vẻ áy náy. Ngừng lời một thoáng, như thể không kềm giữ được, cô thở dài. Tiểu thư đang không khỏe, đêm trước đứng còn không vững, giờ đi theo Ngô Lãng nơi rừng thiêng nước độc, bị người săn đuổi, nguy hiểm trùng trùng, chẳng biết có trụ được không?

Bọn họ sẽ không nương tay đâu. Lão Tứ lắc đầu nói tiếp. Ngay cả Bát tuyệt cũng đã vô cùng phẫn nộ. Đây là lần thứ hai tiểu thư thả người bất chấp hậu quả, bọn họ coi như mình bị lừa. E rằng tiểu thư còn gặp nguy hiểm hơn Ngô Lãng.

Nói với hắn tình hình sơ lược xong, nhóm người này nhanh chóng rời đi để lần trở lại đường cũ tìm tung tích Như Yên. Vừa lúc đó, Quảng Phú cuống quýt chạy về báo quân Nam Hà đã dàn hàng vây toàn bộ Phan Rang.

Trong ruột sáo nhét một mảnh giấy viết vội mấy chữ “Ta sẽ đưa y về, đừng lo”. Nét cuối của chữ cuối lẹm một đường ra biên giấy, như thể nàng đã vội vã giấu nó đi.

Hắn nghĩ, Ngô Lãng sẽ tìm tới nơi này, chiến địa cuối cùng của quân Chiêm Thành. Nhưng với điều kiện, y còn đủ sức.

Như Yên liệu còn có thể trụ được một chặng đường vất vả hung hiểm dường ấy?

Hắn chỉ muốn đi theo bọn người Xuân Tử mà lùng tìm bọn họ. Nhưng nếu nơi này vỡ trận trước khi Ngô Lãng tới, y sẽ lại biến mất. Hắn biết tìm bọn họ ở đâu giữa rừng? Chiến địa này là niềm hy vọng cuối cùng để hắn bám trụ.

Trận chiến này cũng là niềm hy vọng cuối cùng của quân Chiêm Thành lẫn Nam Hà.

Quân ở Thượng Dã bị phá vỡ, nhưng Oc-nha That đã nhanh chóng di tản bọn họ lên núi cao, Ngô Lãng cũng đã biến mất, quân Nam Hà chỉ thu được thắng lợi nửa vời trên danh nghĩa. Mọi hy vọng lập lại uy phong hay trấn áp vùng đất này chỉ còn thu được ở đây. Nên Nguyễn Thắng Hổ không thể chậm trễ thêm một thời khắc nào. Sự giận dữ của đoàn quân này đã được thổi bùng lên như bão lửa.

Đáp lại, quân Chiêm Thành sẽ chống cự quyết liệt. Chẳng phải chỉ vì những hoàng thân quốc thích quyết tử ở đây, mà còn vì Quảng Phú. Gã hăng hái thúc đẩy quân binh đi tới, bất chấp hậu quả. Vả lại, gã cũng chẳng quan tâm tới ‘hậu quả’ của những người này, những kẻ mà gã coi như công cụ.

Được đốt cháy bởi những lời động viên liều lĩnh và lý tưởng hào hùng vong mạng, bọn họ sẽ có thể làm tất cả. Ngoại trừ chiến thắng. Có hề gì, kẻ như Quảng Phú chỉ quan tâm đến kết quả cho gã. Đẩy quân Chiêm Thành xông lên, buộc Nam Hà phải trừ diệt cho bằng hết những kẻ không chịu khuất phục, và khiến cả hai căm thù nhau đến tận cốt tủy, thổi bùng lên ngọn lửa oán hận không tan. Người ngã xuống sẽ là máu tế cho vị thần chiến tranh mà gã đang ôm trong mộng tưởng.

Sự việc có lẽ đã phát triển ngoài tầm Ngô Lãng lường tới khi trước. Hoặc cũng có thể ngay cả sự xuất hiện của Quảng Phú đã nằm trong kế hoạch của y. Dùng máu để đốt lửa chiến tranh và đẩy tất cả trách nhiệm cho Quảng Phú, cuộc chiến này dù thắng hay thua thì cũng chẳng bao giờ kết thúc.

Tiếng sáo chợt khàn đi, im bặt. Hắn cau mày, buông cây sáo xuống bên hông. Dưới chân núi, lửa đốt trong phong hỏa đài bập bùng cháy sáng làm hiệu cho các nhóm quân di chuyển. Thấy ánh lửa tụ lại ngày càng nhiều dưới chân núi, hắn liền đi xuống nơi ấy. Quảng Phú đang gọi người tập hợp, vẻ nôn nóng khó giấu trên gương mặt.

“Định làm gì thế?” Nhìn quanh khu đất trống lố nhố người, hắn hỏi Quảng Phú. Hầu như tất cả người nơi đây đều mang theo vũ khí, nai nịt gọn gàng, vẻ nghiêm túc ngưng trọng trên mày mắt. Phía xa xa, ngựa và voi đã được đem tới, cũng đang bồn chồn di chuyển.

“Ta vòng qua sau sông Lũy, tấn công Nam Hà ngay đêm nay.” Quảng Phú nhìn lướt qua hắn, chỉ tay. “Quân Nam Hà vừa đến, lại đã trải qua một thời gian dài ở Dã Dương, hẳn chỉ giương nanh múa vuốt thị uy thế thôi chứ mệt đứt hơi đi rồi. Tấn công là cách phòng thủ tốt nhất, cứ đến thăm dò thử, được thì đánh cho chúng một trận thất điên bát đảo, không thì rút về xem xét tình hình sau.”

“Ngươi định đi ra làm bia cho đạn pháo Nam Hà?” Hắn nhíu mày, không thể tin được sự liều lĩnh của Quảng Phú. “Ven sông Lũy là căn cứ Chiêm Thành xưa, nay Nam Hà tới chiếm đóng, thành lũy vững chắc, đạn pháo đầy đủ, chỉ cần vài chục quân tỉnh táo canh pháo cũng đủ đẩy lui các người…”

“Nên ta mới chỉ dùng có chừng này người, tấn công bất ngờ. Áp sát vào rồi phóng hỏa, pháo chỉ còn nước bắn lên trời.” Quảng Phú nôn nóng phẩy tay. “Ngày trước Ngô Lãng dùng vài kế vặt mà đem bọn người Thượng phá từ Phố Hài đến Phan Rang, quân Nam Hà im thin thít trong thành lũy không dám ra cự chiến. Ngươi đừng nhìn trước ngó sau, cái gì cũng sợ thế chứ.”

Rồi y bị đánh lui trở về Thượng Dã, hắn nghĩ thầm nhưng không nói ra. Quảng Phú không giống như Ngô Lãng lúc ấy, việc thắng thua thành bại của toán quân này chẳng khiến gã bận tâm, có nói cũng vô ích. Hắn thì chẳng biết tiếng Chiêm Thành để trao đổi, bàn luận với Chế Vinh, bọn họ cũng tỏ vẻ không tin tưởng hắn, tránh né hắn hết mức có thể.

Chế Vinh đã cất tiếng gọi trên bành voi. Người tụ tập trong sân lần lượt lên voi ngựa rời khỏi. Hắn quay người đi lên núi, nhưng không đến doanh trại của Quảng Phú mà vòng ra sau lưng núi, đến một hang đá lớn. Vén dây leo rậm rịt che cửa hang, ánh lửa bập bùng đã soi ra, chiếu sáng người phụ nữ trong hang.

“Lê phu nhân.” Hắn gật đầu chào. Lê Anh cất tiếng chào đáp lễ, ngước mắt nhìn hắn đến ngồi bên đống lửa. Hắn thấy sự lo lắng hằn rõ giữa đôi mày bà. Không đợi Lê Anh hỏi, hắn nói ngay. “Quảng Phú đã cho người đến đánh úp doanh trại Nam Hà ở sông Lũy rồi.”

“Thắng hay thua, Nam Hà cũng bị chọc tức điên lên thôi.” Nhè nhẹ thở ra, hắn gật đầu. “Dù Quảng Phú có giành được lợi thế bây giờ, quân Nam Hà từ Bình Khang lẫn Bà Rịa sẽ đến ngay thôi. Người thám thính của tôi báo, quân Bình Khang đã có nhiều động thái bất thường. Có thể họ sẽ xuyên qua Thượng đạo đánh xuống, hoặc xuống thuyền từ biển đánh vào. Dã Dương đã bị phá, Nam Hà có phải san bằng nơi này thì một trận pháo cũng xong.”

“Bọn họ chẳng nghe đâu.” Lê Anh chớp mắt, nhìn xuống đám lửa, nét thất vọng pha lẫn giận dữ hằn trong mắt. “Tên Quảng Phú kia kích động bọn họ một sống hai chết, liều lĩnh mà giết hết tất cả mới thôi.”

Hắn im lặng, đưa mắt nhìn quanh. Lê Anh đến đây nhưng không tiện truyền thông báo ra ngoài, cũng chẳng còn bao nhiêu tiếng nói với các võ tướng trong quân Chiêm Thành. Họ vốn đã mang thái độ chẳng mặn chẳng nhạt với vị công nữ mang nửa dòng máu ngoại bang, sau sự thất bại của Lê Anh ở Dã Dương thì càng tỏ vẻ bất phục. Lê Anh không ở chung quân doanh với bọn Quảng Phú mà rời ra đây, cũng là để tránh mâu thuẫn ngày càng lớn hơn.

“Kỳ đâu rồi?” Một lúc sau, hắn hỏi. Lê Anh nhìn nhanh qua hắn, cân nhắc rồi mới trả lời.

“Anh ta vừa gặp thuộc hạ của Như Yên, liền thu xếp hành lý đi ngay rồi. Dù sao nơi đây canh phòng gắt gao, Kỳ không đi lại được, anh ta cũng chỉ muốn rời khỏi thôi.”

Hắn chỉ gật đầu. Nghe tin tức ấy, Kỳ lại chẳng đâm chột dạ, nghĩ rằng mình bị Như Yên lừa? Nhưng anh ta không có ở đây thì lại tiện cho hắn hơn.

“Có bao nhiêu người trong Cửu Tinh Tú và Bát Hộ Thần nghe lời phu nhân?” Dù sao, chẳng phải tất cả đều nghe theo Quảng Phú. Đối với sự liều mạng của gã, vài người còn tỉnh táo suy nghĩ vẫn đem lòng e ngại.

“Còn chừng một nửa.” Lê Anh thận trọng đáp. Hắn gật đầu.

“Phu nhân cho gọi bọn họ cùng tất cả người mà bọn họ quản lý, chúng ta đi làm việc thôi.” Hắn đứng lên, nhìn qua mành dây leo dày đến bầu trời đỏ quạch bên ngoài. “Đêm nay Quảng Phú còn phải lo việc, người ở khắp nơi chạy quanh, chẳng để ý đến đâu.”

Hắn nói, không giấu được sự nôn nóng, không đợi Lê Anh đáp đã đi ra cửa hang. Tin báo về quân Bình Khang đã tới từ nhiều ngày trước, có thể toán quân ấy đã áp sát Phan Rang.

Lê Anh cất tiếng gọi hắn lại. Bà lấy trong hốc đá của hang ra một bọc vải dài, đưa tới cho hắn. Mảnh vải bên ngoài vừa hé, ánh xanh lạnh buốt đã tỏa ra như đâm vào mắt.

“Thanh đao này có người đem tới cho ta.” Thấy vẻ mặt hắn, Lê Anh giải thích. Bà ngập ngừng một thoáng. “Ngô Lãng hiện đang mất tích, thanh đao này người Chiêm vừa kính vừa sợ, anh cầm nó có khi khiến bọn họ nghe lời.”

Hắn nhìn Lê Anh hồi lâu, rồi đưa tay nhận thanh đao. Cái lạnh của thép xuyên qua lớp vải vào lòng bàn tay hắn.

Không chỉ người Chiêm Thành mà cả Nam Hà cũng e sợ thanh đao này và kẻ từng cầm nó. Có nó trong tay, hắn thêm được một ít sức mạnh – và có thể, cả định mệnh mà Ngô Lãng từng trải qua.

Định mệnh, cũng đến lúc phải kết thúc.

Đêm sâu mù mịt trong màn mây cùng sương dày, cát bay rào rào như một cơn mưa. Doanh trại Nam Hà bên dòng sông Lũy im ắng. Từ khi Chiêm Thành thua trận mất Panduranga, triều đình phải rời khỏi Thành Lũy, Nam Hà đã xây một lũy đất dài ở bờ Đông hợp cùng thành cũ để canh phòng. Trong lũy, nhà đất nhấp nhô, cách quãng lại dựng đài cao. Gió đêm ù ù thổi, lửa trong đài leo lắt chớp tắt, mơ hồ giữa làn sương.

Âm thầm, những bóng đen chợt trồi lên từ dưới dòng sông, tiếp cận lũy, bám vào tường lũy mà trèo lên thành cao. Nhờ đêm tối vần vũ che giấu, chưa tới chục người lần mò lên những trụ pháo nhìn ra sông, hạ sát người lính canh. Thấy hòm đạn pháo cạnh đó, họ nhét đạn vào pháo, bắn ra dòng sông.

Tiếng pháo nổ đánh thức toàn bộ người trong lũy. Nhóm người kia ngay lập tức chuồi khỏi đài canh, lẩn vào những ngõ ngách sát chân tường của thành. Lính Nam Hà khua chiêng gióng trống chạy lên thành, lại không thấy một bóng người. Nhân lúc rối loạn, nhóm đột nhập trà trộn vào doanh trại, ném đuốc vào trong. Lửa đột ngột bùng lên, bắt lấy gỗ, rơm, rạ mà bốc cao ngùn ngụt trong gió thốc. Quân trong thành vừa chạy ra lại thấy bên trong phát hỏa, vội chạy trở vào. Bối rối hoảng hốt, họ không nhận ra một toán quân khác đã âm thầm tiến sát cửa lũy.

Tiếng bộc phá nổ vang trời, hất bay cửa lũy gỗ. Khói còn chưa tan hết, tiếng reo hò đã vang động. Từ ba phía rừng, voi ngựa cùng quân Chiêm xông ra, hợp cùng toán quân đã phá cửa thành, toan tấn công vào lũy.

Bên kia sông chợt nghe ba tiếng pháo hiệu nổ. Không một lời báo trước, đại pháo nổ ngay sau đó, bắn về phía bờ sông bên kia. Quân Nam Hà đã đắp đất và cát, phủ thêm ít lá cây để che giấu những khẩu pháo bên bờ Bắc. Quân trong lũy thu vào sau những tường thành cao để che đỡ pháo, trong khi quân tấn công bên ngoài hốt hoảng thối lui.

Từ thượng nguồn sông Lũy, hàng trăm bè nhỏ đắp lá chở quân tướng Nam Hà tràn xuống. Pháo vừa ngừng, voi ngựa trong thành đã được thả ra cho toán quân vừa tới truy đuổi nhóm tấn công. Biết đã gặp mai phục, quân Chiêm Thành vội vã bỏ chạy về trong núi. Quân Nam Hà không buông tha, đuổi theo sát gót, tên đạn bắn như vãi trấu theo. Thấy chỉ huy của quân Chiêm ngồi trên bành voi, tướng Nam Hà ra lệnh truy kích. Càng chạy, quân Chiêm càng phân tán ra gần hết, chỉ có nhóm quân Nam Hà đuổi theo Chế Vinh càng lúc càng gần.

Chế Vinh ngoảnh đầu lại, thấy quân Nam Hà chỉ còn cách vài chục trượng, trong khi quân lính xung quanh đã tản mát hết. Voi ngựa Nam Hà chạy lên trước, chặn đầu voi viên tướng Chiêm Thành. Gươm giáo sáng ngời, ngà voi nhọn hoắt, tên đạn sẵn sàng, cùng lúc chỉ về phía Chế Vinh.

Tướng lĩnh quản đường Thượng đạo của Chiêm Thành bị bắt gọn trong tay Nam Hà.

Đến sáng, tàn quân mới chạy về báo cho Quảng Phú. Còn đang bối rối, nhóm quân canh phía Bắc cũng gửi cấp báo về: Quân Nam Hà do đích thân Trấn thủ Bình Khang Nguyễn Hữu Kính chỉ huy đã xuất hiện ở núi Chúa.

Cả hai nhóm quân Nam Hà hợp thành gọng kềm Nam Bắc, đánh vào vùng núi Phan Rang.

Nghe tin báo, Quảng Phú thấy trong người phát lạnh. Gã đã nghĩ quân Bình Khang sẽ tới, nhưng chỉ trong trường hợp nguy cấp. Chẳng biết bằng cách nào, Nguyễn Hữu Kính đưa quân xuất hiện ở Panduranga, gần như cùng lúc với Nguyễn Thắng Hổ. Bọn họ đã lên kế hoạch trước, thần tốc đánh ngược từ Dã Dương lên Phan Rang, quyết diệt gọn quân Chiêm ‘phản loạn’.

Có thể nào… Họ đã lường trước việc Ngô Lãng mất tích, quân Chiêm không tan ngay tức khắc mà tụ về mưu toan lật ngược thế cờ, nên mới định một mẻ bắt sạch?

Với quân của Nguyễn Thắng Hổ, còn có thể tạm thời cầm cự. Nay quân của dinh Bình Khang kéo đến, hầu như không còn hy vọng thắng. Dù có là thần thánh trên trời cũng không đấu được với đại pháo và thuốc nổ.

“Gọi người…” Toan cho lệnh tất cả triệt thoái vào rừng, Quảng Phú bỗng quay đầu nhìn quanh. “Mạc công tử đâu rồi?”

“Đêm qua Mạc công tử đã gọi một số người đi đâu không rõ.” Vayu trong Hộ Thần cẩn trọng trả lời. Bọn họ vốn biết hắn không tán thành cuộc tấn công này lẫn đường hướng Quảng Phú vạch ra, lúc quan trọng thì hắn lại chẳng nói lời nào mà biến mất. Bây giờ, bọn họ đâm nghi ngờ hắn đã lường trước mà cao chạy xa bay.

Quảng Phú cau mày. Bất chợt gã đổi giọng.

“Gọi người củng cố phòng thủ, nhất quyết không để sơ suất. Nam Hà có giỏi thì đốt rừng phá núi mà đánh vào!” Quảng Phú hùng hồn nói lớn, vung tay sang bên. “Rừng của chúng ta là giang sơn của chúng ta. Đợi Oc-nha That ổn định lại Thượng Dã, đánh vào Phố Hài xem Nam Hà còn chạy quanh được đến bao giờ. Nguyễn Hữu Oai còn bị giết ngay tại trận, xem Nguyễn Hữu Kính hùng hổ được bao lâu.”

Chỉ cần chúng chui đầu vào rừng thì sẽ trở thành mồi nhắm cho chúng ta, Quảng Phú vẫn sang sảng nói. Nhớ đến Ngô Lãng một tay giết ba trọng tướng Nam Hà, thủ trong rừng suốt ba tháng trời, người quanh gã được trấn an, phấn chấn tinh thần hơn chút ít mà đi làm việc theo lệnh gã.

Sợ cái gì? Quảng Phú nói nốt theo sau Hộ Thần đã rời khỏi lán. Gã buông tay vung vẩy trên không xuống, thở phì.

Dù thắng hay thua, cái nhất quyết không thể để mất là sĩ khí.

Những lão cáo già phương Bắc quả nhiên nhìn xa trông rộng. Dù thắng hay thua, dù chết hay sống hay có bao nhiêu người chết, chỉ cần sĩ khí còn thì sẽ có cơ hội lật ngược thế cờ. Vài chục năm hay thậm chí cả ngàn năm, xác chết, máu đỏ và oán thù sẽ kết tụ dần dần, chỉ chờ đến lúc để bùng phát. Người có mạnh có yếu, thời có suy có thịnh, lớp người sau thay thế người trước, chỉ cần không mất tinh thần thì sẽ đợi được.

Thứ tinh thần được tạo bởi xác chết, máu đỏ và oán thù. Bằng vô số, vô số con người.

Nếu như tất cả kẻ nơi này phải trả giá cho điều đó, thì đã sao? Đằng nào bọn họ cũng đã chọn con đường này, cũng chẳng có thể trở lại. Nếu sống sót sau thất bại, họ cũng chỉ còn đường chạy lên núi, chạy sang lân bang, tiếp tục kiếp sống vất vưởng. Nếu vậy thì họ chết tốt hơn. Tất cả cùng chết, cho tinh thần kia sáng mãi.

Cảm giác gai gai người như một cơn hứng khởi trào dâng, niềm thích thú vô hạn khiến gã cũng phải đâm ngây ngất với ý nghĩ của mình.

Tuyệt đẹp, cái cảnh bao nhiêu con người lao vào chỗ chết thật là tuyệt đẹp. Như một áng thơ, lời hát hùng hồn vang vọng. Như một đàn thiêu thân lao vào lửa, mù lòa điên dại. Anh hùng ca được viết bằng máu đỏ và mạng người.

Chỉ có điều, những kẻ viết ra nó, tạo thành nó thì chẳng bao giờ ở trong đám đông ấy. Gã còn phải sống, vì lý tưởng của chính mình, để chinh phục những đỉnh cao hơn, cao hơn nữa. Để viết lên những khúc ca bằng máu đỏ ngợi ca chiến thắng và cái chết.

Làm vương thì không được nóng vội, kẻ kia nói. Cái kẻ xuất thân con buôn toan tính đủ đường ấy không hiểu còn có một cách khác để xây dựng ‘nền tảng’ cho mình: Oán thù và rối loạn. Chỉ cần gieo hạt mầm ấy nơi nơi, và chờ đợi mùa thu hoạch. Những lúc như thế này là thích hợp nhất, quẫn bách và hoảng loạn, người ta chẳng thể suy nghĩ nhiều, vớ ngay lấy phương pháp khả dụng duy nhất, dễ dàng bị thao túng. Và dễ dàng mù quáng oán hận.

Chỉ cần đẩy thêm một ngón tay vào đó. Đốt cháy bùng ngọn lửa.

Khúc anh hùng ca, khúc tráng ca, khúc bi ca lộng lẫy đốt cháy lòng người. Trong oán thù tột độ. Trong nỗi hận truyền đời.

Mỗi sự thất bại cần có một vẻ đẹp để nuôi dưỡng cái đã chết – không chết.

Lịch sử hít thở khí của những xác chết, được điều khiển bằng sự mù lòa – Trong những toan tính tột bậc của kẻ-không-chết.

Nếu thất bại, hãy lấy máu để luyện thành thanh đao kiếm sắc bén nhất thế gian. Có nó, gã sẽ mang theo sức mạnh vô địch.

Nếu thất bại, hãy để thế giới này trở thành lò luyện ngục.





Copyright © Trường An. All rights reserved.