Solitude

Cảnh như thị, nhân như thị

Hồi 66: Chuyện xưa
Monday, February 4, 2013 Author: Trường An

Dao Luật quả biết được nơi toán quân của Ngô Lãng đang trú ngụ, nên nàng cho nhóm Như Yên ở lại làng này, biết rằng hắn sẽ đi qua. Làng không ở gần Phố Châm, dù có xung đột xảy ra cũng không bị ảnh hưởng. Dù vậy, lại khó thăm dò động tĩnh của nhóm người Chiêm, hắn e rằng nếu có bất trắc xảy ra sẽ trở tay không kịp.

Nghe lóm được hắn nói chuyện với Dao Luật, chính Như Yên lại là người rủ hắn về Phố Châm thám thính.

“Ta nghe được tiếng Chiêm Thành.” Kéo hắn ra góc, Như Yên cười nói. Hắn ngờ ngợ nhìn nàng.

“Nàng học bao giờ?” Hắn hỏi, thấy Như Yên nhíu mày, nghiêng đầu.

“Không rõ, ta chỉ biết là nghe họ nói thì ta hiểu.” Nàng nhún vai, ra vẻ đã quen với những biểu hiện bất thường của trí nhớ hỗn loạn hiện tại. Không để hắn hỏi thêm, Như Yên kéo tay áo hắn. “Ngươi muốn biết họ định làm gì mà còn đối phó, không thể lơ ngơ mò tới làm phỗng đá được, đúng không?”

Vậy thì đi, không đợi hắn trả lời, Như Yên hớn hở xốc tay hắn đẩy ra ngoài. Có vẻ bị Dao Luật cùng Xuân Tử kềm cặp quá lâu, nàng lấy hắn làm cớ để sổ lồng đi chơi.

Khu rừng này núi xanh sông biếc, cổ thụ um tùm rợp bóng bên đồng cỏ trải dài, hoa lau trắng ngát bờ sông, hoa gạo đỏ rực ven đường. Ở những đoạn rừng rậm, cây lan ra ven bờ, phong lan treo lơ lửng trên cành với tay hái được. Xuôi dòng đi về Phố Châm, có lúc thấy đàn voi đông đúc nghỉ trên đồng cỏ, có lúc lại thấy tràm chim lao xao đập cánh. Tiếng vượn hót lảnh lót trong rừng được gió rì rào đệm như một bài ca.

Chưa đến Phố Châm, Như Yên đã hái được một ôm hoa, vớt được một rổ tôm cá. Nếu hắn không ngăn lại, nàng đã bẻ cây đốt lửa nướng cá ngay trên thuyền.

“Đi thám thính thì đừng làm cho người ta chú ý.” Hắn buộc phải nhắc, chẳng rõ lúc này nàng còn có mấy phần khôn ngoan giảo hoạt trước đây. Như Yên bĩu môi.

“Ta với ngươi giống bọn họ lắm sao mà không gây chú ý?” Nàng chỉ tay về trang phục của hắn và mình. “Chúng ta đang tỏ vẻ là người tới theo thuyền buôn phương Bắc, hành động càng kỳ lạ càng ít gây chú ý chứ tỏ vẻ thành thục quá bằng ‘lạy ông tôi ở bụi này’.”

“Đến nơi rồi thì ta cứ nói giọng Quảng Đông, có xông vào chỗ bọn họ ngồi thì cũng chẳng lo họ đề phòng.” Ngọn cỏ lau che nửa miệng, Như Yên khúc khích cười. Hắn nhìn qua nàng, lại quyết định không nói.

Dù hiện tại nàng đã hóa trang khác lạ đi một vài phần, mang dáng vẻ của con hầu trên thuyền buôn khá lôi thôi, lại thêm lối trang điểm nực cười với gò má quá hồng, môi quá đỏ, mày quá dày, cũng khó che giấu tư thái kiều diễm phảng phất trong nụ cười khóe mắt. Nàng có thể đội nón đi dạo xung quanh chứ khi lại gần khó ai không để ý.

Ánh mắt hắn dừng ở ôm hoa Như Yên vừa hái, liền buông chèo mà bước lại. Buộc những cọng cỏ lau thành một vòng nho nhỏ, cài thêm mấy bông hoa gạo rủ xuống, hắn đội cái vòng lên đầu Như Yên. Ngắm nghía một lúc, hắn gật gật đầu.

“Thế này trông được hơn.” Những bông cỏ to xù như đuôi cáo che hết vầng trán, phủ bóng lên mắt nàng, hai bông hoa gạo áp lên má, giấu đi hình dạng khuôn mặt. Dù gì nàng cũng đã chọn cách làm đỏm lố lăng, có thêm một phụ kiện hài hước như thế vẫn là bình thường.

Như Yên soi xuống nước, bất mãn ra mặt nhưng không bỏ cái vòng xuống. Ngồi ở đầu thuyền nghịch một lúc, nàng moi ra được cuốn sách hắn nhét trong khe của khoang thuyền. Đọc lướt qua sách, nàng nhìn lại hắn, cười nói.

“Ta không biết ngươi cũng đọc loại mọt sách này.” Nàng vẫy cuốn sách với hắn đang bận chèo thuyền. Hắn chỉ nhún vai.

“Mọt sách?” Hắn hỏi lại, thầm nghĩ đến kiến thức hầu như rỗng không của Như Yên về Dịch lý. Cuốn sách này hắn mua được bên đường từ một thầy cúng người Kinh, nhằm có thứ giải khuây đường xa cũng như ôn lại chút ít kiến thức. Như Yên hẳn nhận ra đây là sách của bọn thuật sĩ giang hồ, nhưng loại sách này giỏi tô vẽ tán tụng, phần nhiều nói chuyện hoang đường, không thể kể là ‘mọt sách’?

“Mọt sách đâu chỉ là loại mở miệng đóng miệng đều là sách. Bọn thứ nhất thì quả đúng như thế, đem lời trong sách nhai nhải khắp nơi, biến thành như chân lý. Bọn thứ hai thấy thế thì đem lời bọn thứ nhất đi giễu nhại châm chọc, coi như thế là mình đã giỏi giang hơn sách. Đem tiểu tiết biến thành đại thể, moi móc lỗi lầm để phủ định toàn cuộc, dương dương tiểu nhân đắc chí. Cả hai đều là loại kiến thức nông choèn, thấy bề mặt chứ không hiểu ngọn nguồn, đem giác quan cá nhân biến thành cái nhìn thiên lệch, thậm chí có thể còn chưa từng đọc sách, chỉ cố kéo mọi thứ xuống cho bằng mình. Chẳng qua có loại mọt sách nghiêm trang thì cũng có loại mọt sách lưu manh vậy thôi.” Như Yên hươ tay lật qua lật lại trang sách, bĩu môi nói. “Có loại đội sách lên đầu để thăng tiến thì cũng có loại xé sách để thành danh. Bọn dính đến sách đều là hỏng hết cả.”

“Thế người viết sách thì sao?” Hắn cảm thấy hơi buồn cười. Lòng thầm nghĩ, hóa ra đây là lý do Như Yên bài xích học hành. Nàng vẻ ngoài văn nhã, mồm miệng lem lẻm nhưng thật ra chỉ thích nói ngược lại lời thiên hạ.

Nghe câu hỏi, Như Yên nhíu mày, nghĩ một lúc rồi gật đầu.

“Cũng hỏng nốt.” Vẫy cành cỏ lau trên tay, nàng gật gù nói.

Đang lúc ấy, có một chiếc thuyền nhẹ ngược dòng đi ngang qua. Hắn thấy người trên thuyền ngoảnh đầu nhìn sang rồi lại quay đi. Hơi chột dạ, hắn chèo thuyền men vào bờ, nơi dòng nước bớt sâu.

“Lại gần đây!” Hắn gọi Như Yên khi chiếc thuyền kia đã trôi xa một quãng, thầm nhận ra sự bất trắc của nơi này.

Như Yên vừa nhổm dậy đã thình lình sững sờ, nhìn về phía sau hắn.

Từ chiếc thuyền đã trôi xa, một chiếc bè con được thả xuống, thuận theo dòng mà lướt đến thuyền bọn hắn. Trên bè, một người dáng cao gầy, đội nón sùm sụp đạp sóng làm chèo. Cách thuyền bọn hắn chừng hai sải chân, gã bỏ bè, nhún chân phóng lên thuyền. Hắn gạt chèo hất kẻ xâm nhập qua bên, gã liền bám tay ngay vào chèo, lộn người nhảy về sau lưng hắn. Hành động của gã nhanh như xuất quỷ nhập thần, thân thể mềm mại nhẹ nhàng như mèo. Trên con thuyền nhỏ, lực kéo trên đầu chèo khiến hắn hơi mất đà, vội chống chân giữ thăng bằng.

Ở phía bên kia, Như Yên lại chẳng nhanh nhẹn được như vậy. Thuyền nghiêng đi, nàng trượt hẳn sang bên, suýt rơi xuống nước, may mà bám được vào thành thuyền.

“Dừng lại!” Theo quán tính, nàng vội hét lên. Nhưng kẻ vừa đáp xuống thuyền đột ngột cứng người. Khi mái chèo trong tay hắn quật về sau, gã không nhảy tránh, cũng không đỡ gạt, lãnh cả cú đánh vào vai. Lần này, hắn kịp nắm gã lại không để gã lăn xuống sông.

Cái nón trên đầu gã trật đi, để lộ đầu tóc bạc phơ.

“Thắng Bình?” Hắn nghe Như Yên thảng thốt gọi. Kẻ trước mặt có gương mặt hắn không quen thuộc. Khi quay đầu, hắn lại phải ngạc nhiên trước vẻ mặt của Như Yên. Vẻ căm ghét mà hắn chưa bao giờ thấy hiện diện trong mắt nàng. Chưa kịp nhổm người dậy, nàng đã nghiến răng. “Ném lão xuống sông!”

“Vào bờ rồi nói.” Hắn nhìn qua Như Yên lần nữa, rồi đưa tay điểm huyệt kẻ vẫn cứng trơ bất động kỳ lạ. Hắn không biết kẻ này, nhưng nếu lão bám theo Như Yên thì hỏi rõ vẫn tốt hơn.

Thuyền tấp vào bờ, hắn lôi kẻ được gọi là Thắng Bình lên trảng cỏ, vẻ mặt Như Yên vẫn chẳng bớt u ám hơn. Vừa đứng vững, nàng đã chạy tới định đá lão, hắn phải cản lại.

“Có việc gì thế?” Hắn hỏi, nhưng chẳng ai để ý đến hắn. Trừng mắt nhìn Thắng Bình, Như Yên nghiến răng.

“Bám theo ta làm gì?” Trấn tĩnh trở lại, giọng nàng lạnh lùng đến gai người. Thắng Bình vẫn trầm mặc nhìn nàng, đôi mắt sâu tối trên gương mặt tái xanh, có vẻ cứng nhắc gần như tượng đá.

“Quả thật đã quên rồi.” Ông ta thở dài, chẳng trả lời câu hỏi của Như Yên. Hắn phải kéo nàng về sau lần nữa, đứng chắn trước nàng mà hỏi thay.

“Ông là ai, bám theo cô ấy làm gì?” Hắn vừa nói với Thắng Bình, vừa quay đầu hỏi Như Yên. “Nàng biết ông ta từ bao giờ?”

“Lão bắt cóc ta, đánh chết ông Ba.” Như Yên giận dữ nói. “Lão già này thần trí bất minh, làm toàn việc điên rồ. Lúc ta bị Linh lão đầu bắt cóc, lão cũng từ đâu nhảy ra đánh nhau với Linh lão, ta thừa cơ chạy đi được. Không ngờ lão đánh hơi bám theo đến tận đây.”

“Cũng coi như ông ta đã cứu nàng.” Hắn nhẹ giọng nói, thầm nhớ lại câu chuyện nghe được ngày xưa tại làng Phú Xuân, cũng chợt nhớ ra đã gặp ông lão này một lần ở căn cứ của Linh lão đầu tại Quảng Ngãi. Lúc đó tình hình rối loạn, khói lửa mịt mù, hắn không thể nhìn rõ ông ta. Ngày ấy, Thắng lão cũng đã xông vào căn cứ Linh lão tìm Như Yên, thần trí ông ta quả thật có vẻ không ổn.

“Lão bị điên!” Nghe lời nói của hắn, Như Yên càng giận thêm. Nhưng hắn lại quan tâm đến chuyện khác.

“Ông ta bám theo được đến đây, không biết còn có kẻ nào nữa?” Hắn nói, đưa mắt nhìn quanh. Nếu việc Như Yên còn sống lan ra ngoài, không biết sẽ còn bao nhiêu kẻ tìm tới. Không phải ai cũng biết nàng đã mất trí nhớ, phải trừ diệt nàng bằng được mới nghe.

“Chỉ có mình ta.” Thắng lão lắc đầu nói, vẫn đăm đăm nhìn Như Yên. “Ta lo lắng cho con bé.”

À… hắn nhìn Như Yên lại sắp nổi cơn thịnh nộ, dường như mơ hồ hiểu ra. Theo lời nàng kể trước đây, trong những dây mơ rễ má liên quan đến bà Tống Thị nào đó, ông lão này kể cũng là thân thuộc của nàng. Cha ông ta hại chết ông bà nàng, hẳn vì thế mà lão sư ngăn cản không cho ông ta đưa nàng đi. Người có thần kinh bất ổn càng dễ bị kích động.

“Chấp gì với người điên.” Hắn kéo tay Như Yên, lắc đầu. “Nàng lúc trước hành hạ ông ấy trả thù đủ rồi. Tình trạng ông ấy như bây giờ cũng tại nàng mà ra.”

“Ta?” Như Yên nhướn mày. Nhưng rồi nàng cười khẩy, quay đi. “Đáng đời!”

Dù vậy, thông tin ấy quả đã làm giảm đi cơn giận của Như Yên. Buổi dọ thám tại Phố Châm của bọn hắn đành phải kết thúc sớm. Không thể thả Thắng lão chạy lung tung, bọn hắn phải đưa ông ta về nơi ở tạm. Cùng với sự bổ sung của Xuân Tử và Chiêm Dao Luật, chuyện Như Yên đầu độc Thắng lão được kể lại ngọn ngành.

“Thuốc của người Thượng để thuần phục dã thú phá hủy thần kinh người vĩnh viễn.” Dao Luật nhàn nhạt nói, buông tay Thắng lão đã bắt mạch xong xuống. “Chữa trị chỉ được phần ngọn, không được phần gốc. Bây giờ ông ta giống như thú nuôi, phải bám lấy cô mới được.”

“Ngụy lão thả ông ta ra sao?” Xuân Tử nhíu mày, nghĩ đến việc khác. “Hẳn là sau khi Linh lão bị đuổi chạy vào rừng, không còn gặp cạnh tranh tại Quy Ninh, Ngụy lão cũng không cần giữ Thắng Bình làm bình phong. Nghĩ Linh lão hại chết tiểu thư, ông ta liền lùng tìm trả thù, may mà cứu được tiểu thư.”

Càng nghe, sắc mặt Như Yên dần dịu xuống. Nàng cắn môi, không lên tiếng. Nghe đến phương thuốc của người Thượng, hắn cũng đâm tò mò, bắt chước Dao Luật cầm tay Thắng lão mà bắt mạch. Nghe ngóng mạch tượng một lúc, hắn ngờ ngợ nhíu mày, đưa tay điểm lên các huyệt đạo chủ chốt trên người Thắng lão. Càng kiểm tra khí huyết ông ta, hắn lại càng có cảm giác quen thuộc.

Mấy năm này, để điều chỉnh khí huyết bản thân, hắn phải học cách thăm dò, nhận biết từng lưu chuyển của chân khí trong kinh mạch. Khí của người đàn ông này gần giống hệt như người tập Vô Âm đao.

Khi ông ta tấn công hắn trên thuyền, thân thủ nhẹ nhàng linh hoạt, gần như ma quỷ ấy chẳng phải là đặc trưng của Vô Âm?

Như Yên bảo thần trí ông ta vốn bất ổn từ rất lâu trước đó, gần như phụ thuộc vào thuốc để an thần, chẳng phải là do tác dụng phụ của Vô Âm?

“Ông tập môn võ gì?” Ngồi xuống trước mặt Thắng lão, hắn hỏi. Ông ta không trả lời, hắn phải nhờ Như Yên ‘ra lệnh’, nôn nóng hỏi tiếp ngay. “Ông có biết Vô Âm đao?”

“Võ của người phương Bắc.” Thắng lão gật đầu. Giọng ông ta đều đều, không hề có chút cảm xúc. “Năm mươi năm trước, có kẻ từ phương Bắc chạy xuống tránh Mãn Châu, đem theo nó. Cha ta có được.”

“Sao…?” Hắn hỏi lại, Như Yên bên cạnh đã ngắt lời.

“Có gì phải lạ? Người đến năm mươi năm trước ấy dựng nên quán rượu ở Hội An, làm ra món rượu Hồng Trần Túy chết toi nọ. Ông ta chết trước khi sư phụ ngươi tìm tới cũng được chục năm, quán rượu đổi chủ, chỉ có rượu dưới hầm bán mãi không ai mua, cũng không ai nỡ bỏ đi nên còn lại. Tính ra thì ông ấy cũng ở Hội An vài chục năm, quen biết vài người đâu có lạ.” Ngừng một lát, Như Yên gật gật đầu. “Lúc ấy Tống Thị thao túng kinh tế Nam Hà, có khi lại là chỗ thân quen cũng nên.”

“Ông ấy là ai?” Hắn hỏi, Thắng lão chỉ lắc đầu. Hắn liền chuyển hướng. “Ông ấy là người thế nào?”

“Cẩm y vệ.” Thắng lão trả lời hầu như ngay lập tức, khuôn mặt vẫn trơ trơ. “Người của Xưởng vệ, trong cung điện nhà Minh.”

“A…” Đến lượt Như Yên khẽ thốt, nghiêng hẳn người qua bàn mà chú tâm đến câu chuyện đang nói. Không đợi hắn hỏi, nàng đã lên tiếng. “Vậy môn võ Vô Âm đó…”

“Ở trong thư khố của Xưởng vệ.” Câu trả lời của Thắng lão không làm ai trong bọn hắn ngạc nhiên. Như Yên đưa mắt nhìn, thấy tay hắn đã nắm chặt trên gối.

“Có bản ghi chép đầy đủ không? Gồm hai phần… hay hơn thế nữa?” Hắn nôn nóng hỏi. Thắng lão lại lắc đầu.

“Không có bản ghi. Người ấy chỉ hỏi ta ‘Có muốn thử không?’.” Thắng lão gục gặc đầu như hồi tưởng lại. Như Yên chớp mắt, nàng bấm tay hắn ra hiệu, kéo hắn về phía sau nhà.

“Ngươi thấy tình trạng lão còn không hiểu?” Khuất tầm nghe, Như Yên nói. “Ta nghĩ lão bị đem ra làm thí nghiệm, để kẻ kia bào chế thứ rượu chết toi nọ. Lúc Huyền Khê đến gặp Sa, ta nghe lỏm họ nói rằng thứ rượu ấy mới được làm ra ở Nam Hà, cũng do kẻ ấy ‘mò mẫm’ tìm công thức.”

“Nhưng…” Hắn ngần ngừ, Như Yên hiểu ý liền cười nhạt.

“Kẻ ấy là người của Xưởng vệ, ngươi tưởng là thiện nam tín nữ à? Xưởng vệ của triều Minh, Đông xưởng thì bắt bớ tra tấn, Tây xưởng thì do thám giám sát, toàn là ‘Triều đình ưng khuyển’, không việc ác nào không làm. Có thằng bé lơ ngơ chạy tới thì tóm lấy làm thí nghiệm, có khi còn được tiếng tốt dạy dỗ huấn luyện con nhà người ta. Thắng Bố năm ấy làm môn khách của Trung Thành hầu, lượng võ sĩ, ám vệ trong triều Nam Hà cũng chẳng ít, rải đi giết trăm người một đêm cũng được, có khi đem cả con cho người ta dạy. Mà môn võ này đâu ai thấy hậu quả lâu dài ngay?” Nheo mắt nhìn hắn, Như Yên nhịp ngón tay lên môi. “Môn võ tuyệt tích đã lâu mà sư phụ ngươi có được, các ngươi lại chẳng thèm thắc mắc gì sao?”

Hắn im lặng, không tranh cãi với nàng, bất chợt sáng rõ một phần chuyện cũ. Vô Âm đao từng là truyền thuyết một thưở trên đất Giang Nam nhưng biệt tích đã lâu, bọn hắn là những truyền nhân cuối cùng, hóa ra đã nằm lại trong thư khố Xưởng vệ. Xưởng vệ, cơ quan an ninh được Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương thành lập ngay sau khi giành được đất nước, có nhiệm vụ trên thì giám sát quan lại, dưới thì do thám dân tình, thanh trừng kẻ phản loạn. Chu Nguyên Chương nhờ lực vua Đại Tống mà tổ chức đánh Nguyên, lấy Nam Kinh làm trung tâm, tiêu diệt các lực lượng cát cứ tại Giang Nam để nắm toàn quyền lãnh thổ. Sau khi lên ngôi, vị vua đa nghi này tìm cách trừ diệt, khống chế mọi kẻ chống đối. Có thể ngay trong thời gian ấy, hoặc sau đó, môn võ này đã lọt vào tay Xưởng vệ, bị xếp vào thư khố bí mật. Lý Tự Thành đánh Bắc Kinh, triều Minh sụp đổ, viên Cẩm y vệ này hẳn đã lấy được thư tịch trong rối loạn.

Theo Mộc Long cho biết, sư phụ hắn chẳng thể nào là người Cẩm y vệ nọ, tuổi tác cũng không đủ để có mặt tại cung điện Bắc Kinh khi Lý Tự Thành đánh vào. Nhưng giữa họ là mối liên hệ thế nào, khi kẻ thì cam tâm bỏ đi, người nhất quyết ở lại?

“Nghĩ cũng lạ.” Như Yên vẫn đang ngẫm nghĩ, chợt níu tay hắn. “Sư phụ ngươi tự dưng gặp các ngươi giữa đường, rồi cũng tự dưng truyền thụ môn võ thất truyền đã lâu à?”

“Nếu không phải vì ngươi, thì là vì y.” Hắn vừa chớp mắt, Như Yên đã nói ngay. Nàng lướt mắt qua hắn, chợt cười. “Có khi ngươi cũng đã được đem ra làm thí nghiệm.”

Hắn nhíu mày, nhưng cũng không phật lòng. Về điểm này, Như Yên quả thật đang có lý.

Hắn đã từng hơn một lần nghĩ đến chuyện sư phụ đem hắn làm thí nghiệm. Thứ hóa giải Vô Âm chính là Tuyết Hoa và ngược lại, món rượu kia chỉ là giải pháp nhất thời. Có thể sư phụ hắn cần hai đứa trẻ để thử nghiệm, cũng có thể quả thật như nàng nói, là vì y.

Môn võ công này thuộc về những người mang theo bí mật từ Tử Cấm Thành. Bí mật, như thân thế của y. Điều mà ngay cả hắn cũng không rõ.

Nhưng rồi hắn chỉ nhún vai.

“Thế thì sao?” Dù y có là con cháu chút chít của một dòng họ vang danh hay con của ăn mày, đã chẳng còn quan trọng.

“Thế sẵn vật thí nghiệm ở đây, ngươi không thử à?” Thấy phản ứng của hắn, Như Yên liền đổi giọng, chỉ tay vào gian nhà. “Lão rèn luyện đã lâu, trình độ ắt hẳn hơn cả Sa. Biết đâu lão nắm được vài yếu lĩnh nào đó mà cả sư phụ ngươi cũng không biết?”

Hắn nhìn vẻ hớn hở của Như Yên, không nói. Thấy yên ắng, nàng quay đầu lại, chớp mắt. Tay hắn vỗ nhẹ lên tóc nàng.

“Dù sao ông ta cũng bị bệnh, bỏ qua đi.” Hắn thở ra, nói khẽ. Tiểu yêu tinh này với người ngoài thì ranh ma bạc ác, chẳng cần biết nặng nhẹ đúng sai. Nhìn tình cảnh của người đàn ông kia bây giờ cũng có đôi chút bất nhẫn. Nghĩ thêm, hắn nói tiếp. “Có việc gì bỏ qua được thì bỏ qua đi.”

“Ta…” Như Yên định cãi, nhưng rồi lại thôi. Nàng cau mày, quay đi.

Nàng hiểu điều hắn định nói. Lão già kia chẳng qua là một nạn nhân bị rối loạn thần trí, hẳn y cũng như vậy.

Nhưng cũng có thể, rối loạn thần trí chỉ là một cái cớ. Không còn bị kềm giữ, dục vọng tự do điều khiển hành động, bùng phát thành hành động. Là do bản thân hay do hoàn cảnh?

“Ta không có hứng chơi với rối gỗ.” Thấy hắn vẫn đi theo, Như Yên bực bội gắt. Nàng ném một cái liếc mắt về phía hắn. “Mà nghĩ lại, chẳng phải ngươi cũng học môn võ ấy sao?”

“Không phải cùng một loại…” Hắn nói, bất chợt ngừng lời. Đột nhiên, hắn hiểu ra điều Như Yên đang định hỏi, liền hóa ngẩn người.

“Hay chỉ có ngươi mới ‘không cùng một loại’?” Như Yên cười khẽ. Nàng nghe hắn hỏi về hai phần của thư tịch, cũng đã mơ hồ đoán ra. “Ngươi cảm thấy mình bình thường thật à?”

Câu hỏi của nàng rơi vào khoảng không. Mải suy nghĩ, hắn không nghe được.

Hắn nhớ đến những cơn điên thình lình không thể kiểm soát trước đây, chợt thấy quặn trong lòng. Lần gần nhất, cơn điên dại trong khu rừng tại Phú Xuân rút gần cạn kiệt sức lực, suýt đẩy hắn vào cái chết. Và rồi hắn phải chật vật tìm cách kiểm soát tâm tư tình cảm chính mình, đè nén luồng khí nhộn nhạo sôi trào trong huyết mạch.

Để rồi, một ngày Dao Luật hỏi ‘Anh còn yêu được nữa không?’.

Hắn đã thực hiện cùng một hành động như bọn họ. Học ngược từ trên xuống, và rồi hắn đã tuần tự đi ngược về điểm bọn họ xuất phát. Vốn không có cứu giải hay khắc chế, chỉ là hai chiều của một con đường, hai lối rẽ của một vòng tròn. Người đời đa phần chọn Vô Âm không chỉ vì sức mạnh của nó, mà còn bởi con đường tu tập đơn giản và bằng phẳng hơn. Phần đông không vượt qua được thử thách khắc nghiệt đầu tiên của tâm trí và cảm xúc, kể cả sư phụ hắn, nhưng lúc nhận ra đã là quá trễ.

Vốn không có cứu giải, chỉ là hai nửa của vòng xoay, một vào hư vô, và một vào hủy diệt.




Hồi 65: Thay đổi
Sunday, January 27, 2013 Author: Trường An

Từ dòng La Nha đi lên phía Bắc, gần nơi tiếp giáp với dòng Dã Dương[1], nằm giữa vùng đất bằng trống trải có một hồ nước lớn[2]. Vào mùa khô, hồ vẫn rộng gần ngàn mẫu, đến mùa mưa lại to lớn thêm gấp mấy lần. Lòng hồ sâu hoắm, đôi đoạn có những gờ đất lan ra, cỏ lún phún nhú trên mặt nước. Vài căn nhà được dựng bên hồ, ngoài con đường dẫn vào trong ngôi làng sau rặng tre. Chiều đã buông, vẫn còn vài chiếc thuyền nhỏ trôi trên hồ rộng. Vài thuyền ra chỉnh bè lưới cá đang giăng giữa hồ, vài thuyền đang trên đường xuôi Nam Bắc nghỉ chân.

Hồ nước nằm giữa thung lũng, mênh mông mà êm đềm, nhìn lên là bầu trời mang mác mây đang ngả sắc, trông xuống là mặt nước sóng nhỏ lăn tăn, bờ cỏ rập rờn.

Những đàn chim bay về tổ, tiếng kêu xao xác cả dãy núi xa.

Hắn mở mắt khi chiếc thuyền va phải chỏm đất chờm ra sông, cỏ đâm vào chân hắn đang thò ra ngoài khoang. Hắn liền bò dậy, chồm người nhìn ra. Có vẻ trong lúc hắn ngủ, thuyền đã bị tuột dây cột mà trôi theo dòng đến hồ. Hắn không rành rẽ khu vực này, chẳng rõ đã trôi bao xa.

Từ từ quay lại cũng được, ngẩng nhìn trời đã tối, hắn nhủ thầm. Dù sao Oc-nha That và toán người vừa đến cũng đang bận rộn sắp xếp, không vội đi ngay. Hắn có ở gần bọn họ thì cũng không hiểu lấy một tiếng được nói, hệt như người câm điếc. Toán người ấy đã đông đúc, lại có thêm người chẳng biết từ đâu kéo tới, dường như càng không có ý định bỏ Phố Châm rút lui hẳn, vẫn còn dò xét nghe ngóng động tĩnh ở Phan Rí.

Trời đã tối, hắn chẳng thể ở mãi trên thuyền để trôi tự do đến dòng Dã Dương nghe đâu đầy rẫy cá sấu, liền cột thuyền vào bến trên bờ. Hắn vốn không định vào làng mà tìm chỗ ngủ ngay tại các chòi coi cá cạnh bờ sông. Vừa lấy chông trúc định đâm lấy vài con cá dưới hồ, hắn chợt ngẩng đầu khi nghe tiếng sáo vang từ sau rặng tre.

Điệu nhạc của người phương Bắc trong làng Thượng khiến hắn tò mò bước lại. Sau rặng tre, đường vào làng vốn là lối voi ngựa đi dẫn vào khoảng đất trống. Như những ngôi làng phức hợp và khép kín tại đây, làng này được ngăn cách với bên ngoài bằng những rặng tre trúc, kênh mương bao quanh khu đất trồng cấy rộng, nhà ở nằm lọt vào giữa. Có vài ngôi nhà sau bụi tre, bên cạnh dãy chòi canh, tiếng sáo đang phát ra từ nơi ấy. Càng bước đến gần, hắn càng cảm thấy ngờ ngợ khi nhận ra vài âm điệu sai lạc, làn hơi man mác ảnh hưởng của nhạc Nam.

Mải chú ý đến tiếng sáo, hắn phản ứng chậm mất một nhịp khi nghe tiếng ‘rắc’ khe khẽ trong bụi tre. Chân hắn vừa đạp lên một mô đất, cành tre đã quất thẳng xuống từ trên cao. Hắn không kịp nhảy tránh, chỉ đưa tay đỡ. Cành tre quất vào miếng giáp da trên tay hắn, gần rách toạc cả miếng da, khiến hắn phải nhăn mặt vì đau.

“A…” Cành tre vừa lăn sang bên, hắn đã nghe tiếng nói phát ra từ phía ngôi nhà hắn đang đến. Tiếng nói quen thuộc đến mức hắn phải giật mình.

Nhưng người vừa lên tiếng lập tức rụt đầu vào trong ngay khi hắn vừa quay lại. Hắn chỉ kịp thấy tà áo đỏ phất qua cửa. Thay vào đó, Chiêm Dao Luật mỉm cười nghiêng người sang, vẫy tay với hắn.

“Tôi đoán cũng đến lúc anh tới rồi.” Dao Luật nói ngay khi hắn đặt chân lên bậc cửa, nàng vội kéo hắn vào nhà, đóng cửa lại. Chiều nhập nhoạng nhưng phòng chưa thắp đèn, chỉ có đôi ánh lửa từ lò than sưởi cháy lập lòe. Hắn thấy cô gái áo đỏ ngồi thu chân trên sập gỗ, quay đầu nhìn ra cửa sổ. Dao Luật chỉ tay về phía cây sáo gác trên bàn bên kia. “Tôi nghĩ đằng nào anh cũng phải đi qua đây, liền thổi sáo làm hiệu.”

“Sao mọi người đi nhanh thế?” Hắn ngờ ngợ nói, mắt vẫn không rời khỏi người đang ngồi bên kia phòng. Dao Luật nhún vai, cũng ra dấu về phía nàng ta.

“Chúng tôi đi đến Quảng Ngãi vừa đúng lúc với đợt chuyển quân cuối cùng của Nam Hà. Cô ấy bảo không thích đi đường vất vả, ‘thuận tiện’ nhân lúc bến cảng cập rập mà trà trộn vào, thuê hẳn một chiếc thuyền đi đến Trấn Biên rồi vòng lại. Đường thủy nhanh chóng hơn, lại đúng lúc Nam Hà đánh Phố Hài, phía biên Đồng Nai bỏ trống không ai canh giữ, chúng tôi thuận tiện vào thẳng La Nha.” Bắt gặp ánh mắt kinh ngạc của hắn, Dao Luật làm một cử chỉ như bất đắc dĩ. “Nếu không liều thì chúng tôi cũng không thể vượt qua Quảng Ngãi. Đang đi đường trong núi, có bọn người ép chúng tôi chạy ra ngoài biển đấy chứ.”

“Linh lão đầu đang ở Quảng Ngãi.” Rùng vai một lần cuối, Dao Luật ngồi xuống bàn bên kia, ném lại hắn một cái nhìn đầy ẩn ý. “Tôi đưa mọi người vào một buôn sách, không ngờ lão ấy cũng đang trú ở đó. Lão nhận ra giọng một vài người, định ra tay bắt giữ. May mà chúng tôi thoát được, nhưng không thể đi đường Thượng đạo nữa.”

“Đã xảy ra chuyện gì?” Quay về phía người vẫn nhất quyết không chịu nhìn hắn, hắn hạ giọng hỏi. Giọng điệu của Dao Luật khiến hắn cảm thấy cuộc truy đuổi không đơn giản như vậy.

Dao Luật đột ngột im lặng. Trong bóng chiều, mặt Như Yên sắt lại như đá. Không thể không trả lời, Dao Luật đành thở ra.

“Chúng tôi đến buôn sách vào ban đêm, không biết có người trọ ở đó. Đến nửa đêm, lão mới ra tay. Không tiện làm kinh động buôn sách nên lão cho người phục thuốc bọn tôi trong bữa ăn trước. Thể chất tôi miễn nhiễm với chất độc bình thường nên không hề hấn, vẫn còn tỉnh táo khi bọn chúng xông vào. Nhưng một mình tôi không xoay xở được hết, cô Như Yên bị bắt đi…” Càng nói, giọng Dao Luật càng nhỏ. “Đến sáng, chúng tôi chạy vào rừng tìm thì thấy cô ấy chạy về.”

Câu cuối, Dao Luật tỏ ý ‘muốn biết rõ thì hỏi thẳng’. Nhưng Như Yên lầm lì đứng lên, quay người bỏ vào trong bếp. Không kịp gác đao kiếm sang bên, hắn vội đi theo nàng.

Như Yên lúi húi đốt bếp, khua nồi niêu chén đũa loảng xoảng. Hắn đứng sau lưng nàng, mở miệng mấy lần nhưng không biết phải nói gì. Cuối cùng, hắn đành kéo tay áo Như Yên.

“Nàng…” Tay áo bị kéo, Như Yên trừng mắt nhìn lại. Hắn đành hạ giọng. “Ta không để ý thì nàng để ý làm gì?”

Như Yên chớp mắt.

Hắn vừa chỉ kịp thấy má nàng đỏ bừng, trước khi cái chảo trên tay nàng – cùng dầu mỡ đang sôi xèo xèo bên trong – bay thẳng vào mặt hắn.

Hắn vội nhảy tránh, lại va vào đống nồi đất trong khu bếp chật. Cái chảo bay vào tường vốn chỉ là vách đan bằng trúc, văng hẳn ra phòng ngoài. Dao Luật chạy vào còn kịp cản Như Yên lấy con dao phay trên bếp mà ném hắn.

“Làm gì thế này?” Dao Luật quát khi mấy cái nồi đất vẫn còn đang lăn vỡ loảng xoảng sau lưng hắn. Không giật được dao ra khỏi tay Dao Luật, Như Yên mặt đỏ phừng phừng mà chỉ tay mắng.

“Ngươi…” Nghẹn giọng không nói ra lời, nàng cắn môi mấy lượt, chỉ thốt được hai tiếng. “… điên khùng…”

Nói rồi nàng quay lưng bỏ đi qua cửa hậu của gian bếp. Hắn nhìn theo, thấy Xuân Tử cùng vài người trong căn nhà bên nghe động chạy sang. Như Yên vào gian nhà ấy, kéo theo tất cả kẻ tò mò vừa tới.

“Có chuyện gì thế?” Bỏ con dao xuống, nhìn lên lỗ hổng trên vách bếp mà cái chảo đã phá, Dao Luật chống tay thở hắt ra. Hắn phủi mấy mảnh vỡ trên người, ngơ ngác nhìn lại. Nghe hắn thuật lại câu đã nói, Dao Luật cau mày, gật đầu. “Anh điên rồi à?”

“Người như cô ta, nếu có bị gì thì chịu để yên sao? Có đốt cả dãy Kẻ Mọi thì cô ta cũng phải lôi chúng ra trả thù.” Nhặt lại cái chảo dưới sàn, lau mỡ trên bếp, Dao Luật nhếch môi nhìn hắn như con bệnh vô phương cứu chữa. “Cô ta giận anh bỏ đi một mình, chẳng may gặp xui xẻo giữa đường nên giận thêm gấp đôi, thế thôi.”

Đến lượt hắn nghẹn lời. Dao Luật thuận tay đặt lại chảo, xem lại gạo để nấu cơm. Thấy hắn vẫn đứng ngẩn người cạnh đống nồi vỡ, nàng nghĩ ngợi rồi chợt cười.

“Lo lắng nhiều quá nên nghĩ quẩn nghĩ quanh, vừa bực mình vừa bực người.” Vừa đặt nồi lên bếp, Dao Luật nói như thể lơ đãng mà nghĩ ra, phác tay về phía đống đổ vỡ. “Thôi dọn dẹp đi cho nguội đầu.”

Không biết làm gì hơn, hắn đành lui cui đi dọn khu bếp tung tóe trong lúc Dao Luật nấu cơm chiều. Nàng nấu xong cơm thì trời cũng đã tối hẳn. Dao Luật vừa dọn cơm lên chiếu nhà trên, Xuân Tử đã mang một nồi đất bốc khói nghi ngút sang.

“Thêm cá tươi vừa bắt.” Xuân Tử gật đầu chào hắn, đặt cái nồi xuống mâm rồi rời đi. Bữa cơm Dao Luật nấu chỉ có cá và nấm khô sẵn trong bếp, món Xuân Tử vừa đem đến là canh cá, rau lẫn cá đều tươi mởn.

“Đã bảo cứ để kệ cô ta.” Nhìn thấy nồi canh cá, Dao Luật cười, gõ đũa vào chén hắn. “Ăn xong rồi đi dỗ.”

Hắn thắc mắc nhìn Dao Luật, nhưng nghĩ vạ miệng đã đủ liền nuốt nghi hoặc xuống, im lặng mà ăn. Bên nhà kia, mọi người cũng ăn xong sớm, một lát đã thấy Xuân Tử và lão Tứ đem chén bát ra giếng rửa. Nghĩ ở đó không còn ai, hắn liền nhẹ chân đến nghiêng ngó, lại chẳng thấy Như Yên.

Ba gian nhà liền nhau này vốn do nhóm người Như Yên xin làng cho dựng lên, chia nhau mà ở. So với khi còn ở Kẻ Mọi, nhóm đã ít đi. Như Yên ở cùng với Xuân Tử và Dao Luật, thấy hắn tới liền lánh mặt. Loanh quanh một lúc, hắn tìm ra nàng đang ngồi ngoài bờ rào tre, lấy cành tre nhỏ mà vạch xuống đất những hình thù vô nghĩa.

Nghe bước chân hắn đi đến, cố tình lay động mấy cành tre xạc xào, Như Yên liếc mắt nhìn qua nhưng vẫn không ngẩng đầu lên. Đến cạnh nàng, hắn đánh tiếng nhoẻn miệng cười.

“Canh cá…” Nghĩ lại, chẳng biết Như Yên có muốn để hắn biết nàng làm món ấy, hắn chuyển giọng. “… nàng đã ăn chưa?”

Như Yên mím môi, không thèm trả lời. Hắn đành khoanh chân ngồi xuống bên nàng. Ngửa mặt nhìn quanh quất bầu trời không trăng không sao một lúc, cuối cùng hắn không nhịn nổi mà lên tiếng lần nữa.

“Linh lão đầu nói gì với nàng?” Đến cả Dao Luật, Xuân Tử cũng không biết có chuyện gì xảy ra với nàng đêm ấy, hẳn không phải là việc bình thường. Nàng có thể giận dỗi hắn, nhưng nếu là việc quan trọng thì hắn đương nhiên có quyền được biết.

Như Yên vẫn cắm cúi nguệch ngoạc trên đất, hồi lâu mới mở miệng.

“Trước đây, ta là người thế nào?” Giọng nàng nhỏ, dường như sợ người bên kia bụi tre nghe được. Nhìn rất nhanh qua hắn, Như Yên lại cúi đầu. “Có phải, ta đã làm những việc rất… xấu?”

“Không, là rất to lớn.” Nàng cau mày, tự sửa câu nói của mình. “Lão bảo ta đã dựa vào thế lực nhà chồng, thế lực của Ngụy lão, của nguồn hàng gì đó mà làm rối loạn Quy Ninh, nhân cơ hội mà triệt hạ lão. Linh lão đầu có thế lực hằng mấy chục năm, bỗng chốc bị phá cho tan tành, không chỉ quan quân truy lùng mà ngay cả người trong vùng cũng xua đuổi. Lão ấy còn bảo, ngay cả ở Quảng Nam, Phú Xuân cũng như thế. Ta một tay che trời, đảo loạn nhân tình, thao túng thời thế. Vì vậy mà không ai để ta sống được. Ngay cả lão cũng không thể dung nạp ta.

“Xuân Tử cũng không biết hết những việc ta đã làm, Dao Luật lại càng không. Ta cứ tưởng mình vốn chỉ chiêu dụ Nguyễn Phúc Huệ làm phản, không ngờ còn có điều bí ẩn sau đó.” Cắm đầu que xuống đất, Như Yên quay sang hắn. “Làm bấy nhiêu việc, ta là người thế nào?

“Gian trá lật lọng, lừa người dối trời, tâm địa độc ác, lòng dạ như rắn rết. Lại còn dựa vào nhan sắc mà quyến dụ người, hư hỏng lăng loàn.” Như Yên lại tự trả lời, vẫn nhìn thẳng vào mắt hắn. “Lão đã nói ta như thế đấy, có đúng không?”

Mắt nàng hầu như không chớp. Hắn không nhận thấy được gì trong đôi mắt chứa đầy bóng tối ấy. Không phải là loại bóng tối ngày xưa, mà gần như là đôi mắt long lanh của ngày hắn gặp nàng lần đầu, phảng phất tựa một mặt nước in bóng hình của ngoại biên, che giấu tất cả bên trong.

Nàng hỏi hắn, với đôi mắt vẫn mang vẻ bình thản nhiều hơn khổ sở, tò mò nhiều hơn nghi hoặc. Nàng nhìn hắn với vẻ kiên định của người muốn khẳng định lại một điều hơn là tìm câu trả lời.

Cho nên, hắn gật đầu.

“Như vậy…” Không đợi hắn lên tiếng xác nhận, Như Yên đã nhướn mày. “Như vậy mà ngươi nói là thích ta sao?”

Có vẻ đây mới đúng là câu nàng muốn hỏi, hắn nghĩ thầm khi cẩn thận quan sát nàng. Sau một tháng thảnh thơi ngẫm nghĩ, nàng đã chấp nhận bất cứ hình dạng nào của bản thân trong quá khứ, cũng chẳng mấy ngạc nhiên về điều đó. Nàng chỉ muốn hiểu được một điều khác, rất khác.

Điều mà hắn đã nói với nàng đêm ấy, nguyên nhân chính đã đẩy nàng vào tình trạng bây giờ.

Điều mà nàng sẽ chẳng bao giờ hiểu được nữa, trong hiện tại.

“Lão già ấy không có tư cách mắng nàng.” Hắn chầm chậm mỉm cười. Nụ cười khi hắn không biết phải phản ứng ra sao. “Người tham gia, liên quan vào chính trị như bọn họ đều lừa gạt gian trá như nhau cả. Chính trị thì có cái gì đâu ngoài việc buôn nước bọt, chỉ khác là có con buôn giỏi giang và con buôn kém cỏi, kẻ muốn cái này người cần cái khác, không được vừa lòng thì quay ra mắng nhau thế thôi.

“Đói thì lấy đồ ăn, khát thì tìm nước uống, đó là việc rất bình thường, ta cũng không nghĩ bọn họ có điều gì đáng mắng. Tất nhiên, ai bảo đi tin?” Hắn nhún vai, không kềm được mà đưa tay vuốt tóc nàng. “Người càng sống lâu càng thay đổi, như tắc kè hoa đổi màu, cũng chẳng phải bản thân làm chủ được.”

Như Yên không tránh bàn tay hắn. Nàng đăm đăm nhìn hắn hồi lâu rồi mới thận trọng lên tiếng.

“Ngươi… thay đổi rồi?” Cắn môi, nàng nói khẽ. “Trước đây, ngươi có vẻ rất nhiều oán giận.”

Bàn tay hắn yên lặng bên má nàng.

Oán giận? Trong một lúc, hắn dường không hiểu ý nàng. Hẳn nàng nhắc tới chuyện đêm đó, nhưng có lẽ không chỉ thế. Hắn oán giận ai, trong những ngày ấy?

Hắn không oán giận ai, trong hiện tại?

Đầu ngón tay hắn chạm phớt qua làn da mịn màng bên má nàng. Nàng đã gầy gò hơn trước – thời điểm mà nàng chọn để kết thúc. Cuộc hành trình đã trả lại sự sống cho đôi mắt nàng, cũng như khí lực mà nàng từng có. Không còn vực sâu hun hút trong mắt nàng, không còn cả những khoảnh khắc chênh vênh rơi vỡ thảng hoặc thoáng qua trong dáng vẻ, không còn cả chút tính toán trầm mặc phảng phất ngày nàng mười bảy. Oán giận, nàng nói, với ánh mắt rất đơn thuần. Hắn luôn nghĩ, nàng vốn rất đơn thuần. Trong cả những oán giận và đau đớn, những tính toán và âm mưu.

Nàng nhìn hắn với ánh mắt sáng trong, không có yêu, cũng không có hận. Trong hình bóng nàng, hắn như thấy lại những ngày quá khứ, những bóng hình của quá khứ, những con người đã đi qua trong quá khứ thật dài.

Không có yêu, chẳng có hận. Tưởng như ngọn gió thổi qua, đem theo lớp bụi lưu của ngày cũ tung vào trời không còn vết tích. Tất cả những nhớ nhung thương tưởng, hối tiếc cùng oán trách mà hắn từng ôm giữ cuối cùng cũng chẳng để làm gì.

“Không, ta chỉ là bỏ qua.” Hắn mỉm cười. “Ta đã từng hứa bao dung cho một người, rồi lại không làm được. Rồi hết lần này đến lần khác tiếp tục bỏ lỡ cơ hội kéo cô ấy lại. Chúng ta muốn tha thứ cho người khác mà không tha thứ được cho bản thân, cuối cùng tự giữ lấy bao nhiêu oán giận, không cách nào bỏ xuống. Cứ như vậy mà hành hạ cả mình lẫn người, khi nghĩ lại mới cảm thấy thật không đáng.”

“Còn sống, là tốt rồi.” Tay hắn đặt lên má nàng, nàng cũng không tránh né.

Hồ nước mênh mông trước đồng cỏ thẫm sâu trong đêm, nghe gió thổi rì rào. Gió lùa qua rặng tre, đem theo hơi ngai ngái của nước và đất. Nghe như có tiếng ca bằng một ngôn ngữ xa lạ từ trong làng vẳng tới.

Vùng đất trong núi vào buổi đêm loáng thoáng mù sương. Gió càng lúc càng lạnh. Nàng cúi đầu, tay vuốt qua bụi mắc cỡ bên cạnh đã khép lá từ lâu. Còn có nhiều điều nàng muốn nói, nhưng lại không biết phải bắt đầu từ đâu.

Hắn bây giờ hầu như là con người khác so với kẻ mà nàng đã thấy sau khi tỉnh thức, lại càng khác so với kẻ đã dọa nàng sợ lạnh người đêm ấy, cũng chẳng còn như kẻ đã ôm lấy nàng, lời nói vừa oán giận vừa nhẫn nhịn lúc chia tay. Nàng mới chỉ vừa ‘biết’ hắn một thời gian quá ngắn, không thể hiểu nổi bao nhiêu trạng thái đối ngược mà hắn tỏ ra, càng không thể hiểu hắn đã dành một loại tình cảm như thế nào cho nàng. Có giận dữ, có đau lòng, có dịu dàng, thương xót, cũng có cả tiếc nuối, lại gần như oán hận… mọi thứ đều có quá nhiều. Khiến nàng không biết phải phản ứng ra sao.

Nàng muốn biết chuyện ngày xưa, nhưng khi nghe hắn nói lại cảm thấy vô cùng xa lạ, đến mức không thể hiểu được. Rồi nàng tự hỏi, có cần thiết phải biết?

Tay hắn vừa hạ xuống, nàng đã chợt nắm lấy cổ tay hắn kéo lại.

“Vết thương ban chiều phải không?” Nàng kéo tay áo hắn lên, nhìn vết thương đỏ bầm chạy dọc cổ tay do đỡ thanh tre quất vào, cau mày. “Sao không bôi thuốc? Để thế này quần áo cọ vào không xót à?”

“Vết thương nhỏ thì tự khỏi.” Hắn hàm hồ trả lời. Như Yên liếc mắt nhìn hắn, quay hái vài cái lá bên cạnh, nhai nát rồi đắp lên vết thương của hắn.

“Ngươi đi nhiều nơi, vết thương nhỏ cũng có thể nhiễm trùng lại không biết sao?” Nàng hất tay hắn trở về. “Sao lúc nào cũng để bị thương?”

Nàng nói chỉ vô tình, nhưng lại khiến hắn hơi giật mình.

Nàng đã nói bằng giọng gần như khi trách cứ Sa ngày trước vì những vết thương của y. Khi nàng nhìn qua hắn để thấy bóng dáng y.

Thấy phản ứng của hắn, Như Yên dường như cũng mang máng hiểu được. Nàng nhìn hắn bằng vẻ bình thản lạ thường.

“Đã tìm được Sa chưa?” Mắt nàng trong trẻo, không có một tia sóng gợn khi hỏi. Hắn chậm chạp lắc đầu.

“Ta không thông thuộc vùng núi này, không biết tìm bọn y ở đâu, định chờ đi theo nhóm người Chiêm tại đây.” Hắn cũng chỉ vừa mới đến, không ngờ còn chậm hơn Như Yên một bước.

“Ngươi định đi trước để ta không bám theo chứ gì.” Thông minh như nàng hiển nhiên nhận ra ý hắn, liền bĩu môi cười. Như Yên chợt hạ giọng, nghiêng người về phía hắn mà chỉ vào trong nhà. “Cô ta biết đấy.”

“Không hỏi thì hơn.” Hắn nhún vai. Dao Luật trước là người trong nhóm bọn họ, không hiểu vì sao lại rời đi. Nàng không muốn nói, hắn cũng không tiện hỏi, càng không tiện bảo nàng bán đứng đồng bạn cũ lúc này. Trước vẻ mặt của Như Yên, hắn đành giải thích. Nghe xong, Như Yên nhìn hắn bằng ánh mắt còn lạ lùng hơn.

“Thế cô ta bỏ đi tìm ngươi làm gì?” Nàng hỏi, chợt khiến hắn ngẩn người. Không muốn đào sâu sự việc thêm, hắn liền quấy quá trả lời.

“Hẳn là lúc đó cô ấy muốn lên phương Bắc xem có việc gì xảy ra, lại gặp ta.” Câu này chưa làm hài lòng Như Yên, nhưng hắn ngay lập tức chuyển hướng. “Nàng định tới gặp Sa thật à?”

“Ta…” Lần này, đến lượt Như Yên ngần ngừ im lặng. Ánh mắt nàng lướt qua rặng núi phía xa rồi dừng ở ngọn cỏ bên bờ sông. Mím môi mấy lần, nàng mới lặng lẽ nói. “Ta chỉ nghĩ, ta muốn xem.

“Ta cũng không biết mình đến đây làm gì, nhưng ngay từ ý nghĩ đầu tiên, ta đã muốn xem y thế nào.” Nàng ngắc ngứ nói, như thể sợ hắn không hiểu được. “Ngay khi được Hoắc Phương kể lại sự việc, tất cả những gì ta nghĩ chỉ có vậy thôi.”

“Được rồi, để ta lo.” Nghĩ đã hiểu, hắn nhè nhẹ gật đầu. Ánh mắt Như Yên lướt qua hắn, như có điều muốn nói nhưng lại thôi.

Hắn hẳn đã không hiểu đúng điều nàng nói. Những gì nàng đã cảm thấy trong lúc ấy, ngoài sự giận dữ nhất thời, còn là một ý nghĩ khiến nàng cũng phải rùng mình.

Một ý nghĩ gần như xác tín, đến không thể buông bỏ. Chính bản thân ý nghĩ ấy thôi thúc nàng, chứ có thể không phải vì nội dung của nó.

Ý nghĩ mang thanh âm của nàng, dửng dưng dịu dàng đến lạnh lùng thấu xương.

Ta thật lòng rất muốn được thấy Trời diệt ngươi như thế nào.

 

 

 

Chú thích:

[1] Sông Dã Dương: Là sông Đồng Nai phát xuất từ nguồn Di Linh, đọc theo âm của người Thượng là Đạ Đưng (Da Dung), nghĩa là “sông lớn”.

[2] Ngày nay hồ này tên gọi là Biển Lạc, nằm ở 2 huyện Tánh Linh và Đức Linh.




Hồi 64: Asura
Saturday, January 19, 2013 Author: Trường An

Người thông thái chẳng than vãn cho những kẻ đã chết, cũng như những kẻ hãy còn chưa như vậy.

Chưa từng có thời nào mà cả ta, cả ngươi, hay những vua chúa của các dân tộc kia lại không tồn tại; và sau này nữa, sẽ chẳng có một tương lai nào mà tất cả chúng ta lại thôi không hiện diện.

Chí tôn ca - Mahabharata

 

Tháng hai năm Giáp Tuất, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Kính đến dinh Bình Khang, nhậm chức Trấn thủ Bình Khang thay cho Nguyễn Hữu Oai vừa qua đời.

Toán quân Nam Hà đang bao vây Bình Thuận siết chặt vòng vây. Với đội thủy quân, Nam Hà dễ dàng đoạt lại Phố Hài. Được sự trợ giúp của người ven núi phía Tây Bắc, thủy quân đóng ở bờ biển biên Đông, đoàn quân này bao vây vùng đất của người Chiêm Thành vào giữa. Người ở vùng đất Parik phải lùi sâu về phía Tây, chút chống chọi mà họ đã làm được để đẩy lui quân Nam Hà khỏi đất Phố Châm gần như bị bóp nghẹt.

Đến cuối tháng hai năm ấy, người từ Parik đã chủ động đến lũy Bình Khang xin đàm phán.

Nhận được tin báo, Khám lý Kế Bà Tử đang ở tại Bình Khang vội ra đón sứ giả. Người này vốn thuộc họ xa của vương tộc, giữ vai trò trung lập, được nhờ đến đàm phán. Ngồi trong căn nhà chính, bà cúi thấp đầu khi Kế Bà Tử bước vào. Không có ai đi cùng vị vương của Chiêm Thành.

“Công nữ…” Thấy Lê Anh, Kế Bà Tử chợt đâm lúng túng với bộ trang phục đang mặc trên mình. Nhưng Lê Anh không nhìn ông ta, bà cũng không ngẩng đầu lên.

“Nhị vương… hay hiện tại chúng tôi phải gọi ngài là Đức vua mới phải?” Tấm khăn lớn che khuất gần hết khuôn mặt của Lê Anh, giọng bà khô khan, gần như đều đều vô cảm. “Chúng tôi xin đến đón ngài về Parik.”

“Bà…” Kế Bà Tử nghẹn lời. Chậm chạp, Lê Anh thẳng người ngồi lên, ánh mắt rơi đâu đó trên bả vai tà áo lụa thêu mây theo lối của quan lại Nam Hà.

“Hãy ngăn bọn họ lại, Đức vua. Hãy ngăn bọn họ hủy diệt chúng ta.” Giọng bà vẫn điềm tĩnh, nghe như gió thổi trên đầu ngọn sóng. “Đến lúc cuối cùng, chỉ ngài có thể cứu chúng ta.”

Kế Bà Tử nhìn Lê Anh, chầm chậm quay mình đi về phía bên kia phòng, ngồi xuống chiếu. Ở vị trí này, ông có thể nhìn thấy vết sẹo trên một bên má bà.

“Chẳng phải nhiệm vụ của ta là vậy sao?” Kế Bà Tử nhẹ nhàng nói, giọng mảnh như hơi thở. Giọng ông điềm nhiên, chẳng phiền muộn hay giận dữ, gần như nhẹ nhõm. Lê Anh nhìn sang, chỉ thấy đôi mắt phẳng lặng dõi thẳng bà.

Có bao nhiêu phiền muộn, u sầu, đau đớn trong đôi mắt ấy, hay chỉ là phản chiếu hình ảnh bà, hình ảnh của thế giới này?

Có bao nhiêu tuyệt vọng để một người chấp nhận những gì số phận giáng xuống mình điềm nhiên chừng ấy?

Ông không hỏi lại bà, cũng chẳng thắc mắc về những gì đang xảy đến, những gì bọn họ đang định liệu. Ông chỉ chấp nhận số phận của mình – sứ mệnh của mình – con bài cứu mạng cuối cùng.

Bọn họ vẫn chưa định buông bỏ, chắc chắn, nhưng đã đến lúc để liệu định tới phương án cuối cùng – một cách thoát ra khỏi thảm họa. Bọn họ chưa định buông bỏ, nhưng vì thế nên mới cần đến một phương cách bảo đảm an toàn.

Đưa vị vương mang danh Khám lý trở lại Parik, tránh một cuộc tấn công trả thù, khiến Nam Hà giải vây, và sau đó…

Vị vương này còn sống vì không chống lại, vì đã chấp nhận thuần phục, làm một con cờ trong tay kẻ thù. Vì thế, ông ta còn sống. Vì thế, ông ta trở thành có giá trị.

Đồng thời, là vô giá trị. Một con cờ chỉ có giá trị trong thời điểm nhất định, trước khi bàn cờ đột ngột biến đổi. Trước đây, người Chiêm Thành không để Kế Bà Tử trở về Parik. Giờ đây, kẻ ở trong cung điện Parik sẽ là viên Khám lý của Nam Hà mang dòng máu vương tộc – Một trong hai vai trò ấy đều mang theo hiểm nguy cùng sự mỉa mai khó lường. Có những kẻ, ở cả hai bên, sẵn sàng ra tay triệt hạ một trong hai vai trò ấy khi bàn cờ đột ngột chuyển biến.

Quân vương ở trong cung điện vốn là một con cờ gần như vô năng.

“Bà có cách thuyết phục Nam Hà không truy diệt?” Kế Bà Tử trầm tĩnh hỏi. Mím môi, Lê Anh gật đầu, lấy trong hành lý ra một cuộn da dày. Kẹp giữa hai tấm da là một tờ giấy in vân mây theo lối của người phương Bắc. Những dòng chữ vuông đều đặn viết theo chiều dọc được đóng đè lên trên bởi hai dấu ấn đỏ, ở dưới có lăn vân tay.

“Thủ bút của tiên chúa Nam Hà, Nguyễn Phúc Thái.” Vuốt phẳng mặt giấy trước khi đưa lại cho Kế Bà Tử, Lê Anh nói. “Chừng nào tôi còn sống, Nam Hà sẽ bảo đảm an toàn cho vương tộc.”

“Sao…” Kế Bà Tử chớp mắt, gần như ngạc nhiên, nhưng ông không tiếp tục câu hỏi.

Tại sao bà lại không đưa tờ hiệp ước này ra trước đây? Ông đã định hỏi. Nhưng bà cũng đã không đưa nó ra trước đó nữa, khi cuộc chiến này mới bắt đầu. Bà đã không ngăn cuộc chiến này xảy ra, còn thúc đẩy nó. Và cuối cùng, sử dụng lời hứa của kẻ đã chết để bảo đảm an toàn cho mình.

“Giống như đã đoán được tương lai.” Hiểu ý Kế Bà Tử, Lê Anh phảng phất cười. Mắt bà trong ánh nắng chiếu vào lại mơ hồ như ngấn lệ. “Chỉ sử dụng được một nửa tờ giấy.”

Một nửa còn lại, lời hứa ấy, bà không tuân thủ, người kia cũng không bao giờ cho rằng bà sẽ giữ. Nên người ấy chưa bao giờ trách cứ, cũng chẳng hỏi đến, dường như chẳng bận tâm.

Một nửa của lời hứa, hóa ra lại trở thành cơ hội cuối cùng.

Đoán được tương lai? Hay vốn chỉ là điều không thể đổi thay. Đến khi quay đầu nhìn lại, không nhận ra ai mới là kẻ buông tay trước hết.

“Ta sẽ nói chuyện với Trấn thủ.” Ngẫm nghĩ hồi lâu, Kế Bà Tử gật đầu, cuộn mảnh da lại, đứng dậy rời khỏi phòng. Lê Anh nghe tiếng ông gọi thêm người. Đem vật này đến gặp quan lại Nam Hà, Kế Bà Tử hiển nhiên cần thêm nhiều người chứng kiến và bảo vệ.

Nhưng cũng có thể không cần thiết. Nếu muốn, Nam Hà hoàn toàn có thể phủi tay, không chấp nhận cả lời cầu hòa. Kẻ đang thắng thế hoàn toàn có quyền quyết định – Chỉ có điều, ngay cả Nam Hà cũng không chắc chắn về điều ấy. Toán quân trong núi phía Tây Nam có thể nhỏ, nhưng phía sau nó là cả Chân Lạp, Nam Chưởng, Đại Thành; cả sự đồng thuận của người trong núi cũng không hề đáng tin cậy. Nam Hà đang có hai mặt trận phải chu toàn: Bình Thuận và Thượng Dã. Dấn sâu vào vùng núi Thượng Dã, chẳng ai bảo đảm một cuộc tấn công nữa không xảy ra ở sau lưng.

Dù Nam Hà đã dùng Thủy Xá, Hỏa Xá khống chế được phương Bắc vùng Thượng, vùng Thượng phía Nam lại là một vùng đất hoàn toàn bí hiểm với bọn họ. Vùng đất nằm giữa Chân Lạp và Chiêm Thành vốn không có một triều đình hay thể chế quản lý, có những tộc người vừa bí ẩn vừa nguy hiểm sống giữa các ngọn núi. Đi vào đó, đội quân Nam Hà lập tức dội lại, không có đường tiến tới.

Có một cách bảo đảm hơn: Thanh trừng ‘đầu não phản nghịch’ ở Bình Thuận, rồi đánh về Tây Nam. Nhưng những quý tộc Chiêm Thành vốn đã rút đi từ trước đó rất lâu, ở Bình Thuận chỉ còn những đầu lĩnh trên danh nghĩa. Như mầm cây mà rễ đã ăn lan sang vùng đất khác, không thể diệt trừ. Đúng với cả toán quân ở Thượng Dã.

Một mầm họa dai dẳng đã được cấy. Người Chiêm Thành đã rút đi, để chuẩn bị cho cuộc chiến lâu dài hơn. Ngàn năm nay, bọn họ đã dựa vào các ngọn núi để sống còn, chống trả và tồn tại. Hàng ngàn năm, bọn họ có đủ sự kiên nhẫn để đối đầu.

biết người ấy sẽ lựa chọn cách làm như thế nào trong hoàn cảnh này. Và bà cũng dựa vào đó mà nắm lấy cơ hội cho mình.

Cuộc chiến của bọn họ, vẫn còn đang tiếp tục.

Tháng hai năm Giáp Tuất, trước sức ép của quân đội Nam Hà, nhóm người nổi dậy ở Bình Thuận bị dẹp yên, Khám lý Kế Bà Tử được đưa về Parik trong vòng vây bảo vệ của quân Nam Hà. Cùng những người con của vua Bà Tranh giữ những chức vị khác nhau, Kế Bà Tử bỏ Thành Lũy chuyển sang dinh trấn mới ở phía Tây Bắc.

Khi quân Nam Hà từ phía Bắc hướng đến, toán người ở Bình Thuận rút lui về phương Nam. Từ dòng Đồng Nai tại Trấn Biên, họ xuôi về phía Tây qua La Nha[1], đến Phố Châm[2].

Dưới núi Phố Châm, vùng đất bằng phẳng chừng hơn vạn mẫu nằm lọt giữa bốn bề núi non bao bọc, có dòng sông La Nha chảy qua, tạo thành một trung tâm trao đổi hàng hóa lớn của người Thượng, Chiêm xuống đồng bằng. Nơi này, các khu vực của người Thượng dựng gần nhau, khai khẩn đất đai lập làng. Mỗi làng là một khu đất rộng gồm khu nhà ở, đất đai, ruộng nương, kênh đào... được ngăn cách bởi sông suối hay các đoạn lũy. Vừa qua một cuộc xung đột khi quân Nam Hà kéo đến truy lùng toán quân đã rút vào Thượng Dã, lũy của các làng dựng chắc chắn hơn, có voi gác. Đầu đoạn sông dẫn vào vùng đặt trạm canh.

Nhận được ám hiệu, người ở trạm canh cho đoàn thuyền đi qua. Tháng hai, gió bấc vẫn thổi, những chiếc thuyền của người phương Bắc vẫn còn đậu chật khoảng sông chảy qua nguồn. Đã nửa đêm về sáng, đoàn thuyền vừa đến tấp lại một bến nước hơi xa cách với nơi đậu của thuyền buôn. Phần đông vẫn ở trên thuyền, chỉ có một người đàn ông cao lớn đi xuống bến, chầm chậm bước qua những căn nhà lợp lá xập xệ bên sông. Ban sáng, những căn nhà này chỉ là nơi bày biện hàng hóa hay dành cho người nghỉ tạm. Thương buôn vốn đã thuê nhà trong các làng, chỉ có vài người nghỉ lại coi thuyền. Đêm cuối tháng, trăng mảnh như móng tay. Đêm tối chỉ ánh lên vài con đom đóm chập chờn bay trên nước.

Bóng tối cùng sự yên lặng đan dày khiến tiếng thì thầm lại trở nên rõ rệt đến mức khiến người đàn ông đứng lại. Tiếng nói đang rì rầm bằng một thứ ngôn ngữ ông không mấy quen thuộc, ngôn ngữ của bọn nhà buôn phương Bắc, lại là một nhánh nào đó trong thứ tiếng ấy. Ông nhận biết được một vài từ trong đó, và đứng lại.

“Người anh em, hát gì thế?” Sự tò mò khiến ông lên tiếng, bằng thứ ngôn ngữ thông dụng của phương Bắc. Phía bên kia, trên con thuyền không xa lắm, kẻ đang nửa nằm nửa ngồi ở đầu thuyền cựa mình nhìn về phía ông. Giọng vừa uể oải vừa rộng lượng, kẻ ấy dịch lại.

“Ta là thời gian, sự hủy diệt mọi thế giới, đã chín muồi, và bây giờ đây chỉ quan tâm đến thiêu hủy thế gian. Kể cả nhà ngươi chẳng có ở đây để ra tay, thì tất thảy những chiến binh đứng dàn hàng trong những đội quân đối địch kia, cũng sẽ không còn nữa.

“Hãy để lại mọi hành động cho Ta, tinh thần ngươi hãy tập trung vào Bản ngã, hãy vượt thoát khỏi mọi dục vọng và ý thức sở hữu, tâm bệnh của ngươi sẽ thuyên giảm, hãy giao chiến.”

‘Bhagavad-gitopanishad…’ Ông thầm nhủ, chỉ trong tâm trí, và nói ra điều khác. “Khúc ca thật lạ lùng.”

“Khúc ca của người Ấn Độ.” Kẻ trên thuyền cười. “Khi tôi ở phương Nam, một hôm có kẻ hát rong đi qua, kéo đàn và kể sử thi. Nghe đâu đây là một bản sử thi rất dài, rất nổi tiếng của người Ấn Độ. Kẻ ấy kể mấy ngày liền, bằng đủ thứ tiếng khác nhau, mỗi lần kể mỗi khác. Chỉ có ông bạn của tôi là chăm chú lắng nghe, đem về kể cho tôi.”

“Ông chưa từng nghe qua?” Kẻ trên thuyền bất chợt đổi hướng câu chuyện. Ông im lặng một lúc, rồi trả lời.

“Ta thường đọc bằng thứ ngôn ngữ khác, nghe hơi lạ tai.” Tiếng nói của ông không thành thục bằng dân bản xứ, hẳn dễ dàng nhận ra ông không phải người phương Bắc. Gật nhẹ đầu, ông xác nhận. “Mở đầu sử thi, trước khi trận chiến mở màn, được gọi là ‘Sách của Bhisma’. Được coi như thánh thư Upanishad[3].”

“Quan trọng tới thế?” Kẻ kia hỏi lại, bằng giọng chẳng mấy ngạc nhiên, khiến ông hiểu rằng gã chẳng biết thế nào là sự quan trọng của các Upanishad, hay thậm chí đó là gì.

Nhưng ông cũng không quan tâm tới điều đó. Chẳng thể yêu cầu một kẻ phương Bắc hiểu rõ những ngóc ngách của phương Nam. Vì thế, ông chỉ thở dài, nhìn lên vầng trăng nhạt như khói bên kia rặng núi. Đã nửa đêm về sáng, bóng tối vẫn còn bao trùm khoảng không.

Trong một nỗi thảng thốt gần như hoang mang khi làn gió mang đầy hơi nước thổi qua, ông bỗng đọc lên một câu chợt nhớ.

“Tôi chẳng thèm khát chiến thắng, ôi Krisna, hay vương quyền, hay khoái lạc. Ôi Gôvinda, chúng tôi biết phải làm gì với vương quyền, với khoái lạc, hay thậm chí với bản thân cuộc sống nữa?” Ông đọc bằng tiếng nói phương Nam, ngôn ngữ của ông. Kẻ trên thuyền hẳn không hiểu, nhưng gã không hỏi. Ngược lại, gã bật cười.

“Ông có giọng giống như tên hát rong đó.” Dứt tiếng cười, gã nói. “Một kẻ hát rong biết thật nhiều thứ tiếng. Tôi chỉ nghĩ đến hai loại người có khả năng ấy: Quý tộc và kẻ phản loạn. Ngay cả thương buôn cũng không biết nhiều thứ tiếng đến thế, không cần thiết.”

“Ta cũng không rõ kẻ thế nào lại ghi nhớ, ngâm ngợi thánh thư vào lúc nửa đêm.” Vốn đã định im lặng, ông vẫn nói. “Nếu không phải tăng lữ thì là kẻ giết người.”

“Kẻ giết người?” Gã hỏi lại, tựa như ngẫm ngợi, rồi gật đầu. “Đó là khúc ca của kẻ giết người?”

Lần này, ông không trả lời.

Kẻ trên thuyền cựa mình, dường quay đầu nhìn về phía đoàn thuyền của ông vừa đến. Rồi gã lại ngả người nằm ra sàn thuyền, gối đầu lên tay.

“Các thánh thần bảo rằng chúng ta không cầu, không vọng, không căm giận, từ bỏ tất cả thì sẽ siêu thoát, đúng không?” Giọng gã nghe như cười. “Nhưng tại sao trước kia tôi không cầu vọng thì cũng chẳng siêu thoát, bây giờ tôi không căm giận thì cũng chẳng thanh thản?”

“Giác quan.” Ông chậm rãi trả lời, theo những gì ông biết. Câu trả lời nghe lạ lùng ngay cả với ông. “Kẻ chẳng biết bản ngã, khi đã tha hóa, lại thành kẻ thù của chính mình.”

Nghe gió thổi giữa hai bờ sông rộng. Bốn phía núi non trùng điệp ăn lan vào bầu trời. Gà đã gáy râm ran trong ổ. Kẻ trên thuyền lại cựa mình, chiếc nón che trên ngực rơi xuống cạnh hông. Trong bóng trăng nhàn nhạt và ánh những con đom đóm bay qua, ông dường như nhận thấy gã mỉm cười.

Nụ cười tựa ánh trăng suông, mang vẻ dửng dưng hơn cả khi khuôn mặt bất động.

“Ông bạn tôi giảng rất nhiều, nhưng tôi chẳng chịu tập trung nghe.” Gã ngồi lên, hướng về phía ông mà mỉm cười, giọng nói đã mang vẻ chú tâm nhũn nhặn. “Những thần thánh đã nói gì, hiền giả?”

Khi làm chủ bản ngã, con người đạt tới an bình, và Bản ngã tối thượng của anh ta mãi tập trung trong sự quân bình tuyệt đối, không phân biệt, giữa nóng và lạnh, khoái lạc và đau đớn, vinh dự và ô nhục.” Ông hơi gờn gợn với cách gã gọi mình, nhưng vẫn đáp. Y hệt như những lúc ông giảng đạo trong các đền thờ. Những bài giảng lặp đi lặp lại qua năm tháng, rồi cũng trở thành nhạt nhòa với chính ông. “Con người mà thái độ chẳng phân biệt đối với ân nhân, bạn hữu, kẻ thù, với kẻ thờ ơ, kẻ đáng ghét, người dưng hay họ hàng, với thánh nhân hay thậm chí những kẻ độc ác, con người như thế nổi trội giữa muôn loài.”

“Và như vậy, thần linh thúc đẩy con người ra trận, làm công cụ của thần. Hãy giết chóc đi, vì chính ta đã quyết định hủy diệt bọn họ. Chỉ làm một công cụ thôi, chẳng hơn gì nữa.” Vẫn là nụ cười dường như miên viễn, như ảo ảnh hắt vọng về giữa bóng tối, kẻ kia nói. Bất chợt, gã đổi giọng. “Ông có căm ghét thần linh không, hiền giả?”

Lần này, ông lại im lặng.

“Những kẻ chống đối thần linh sẽ bị ném xuống địa ngục, sẽ bị đọa đày đời đời, lầm lạc đời đời, càng ngày càng rơi xuống sâu hơn. Những kẻ ấy tạo thành thế gian này. Còn các bậc hiền nhân đã siêu thoát cả rồi, họ đã bỏ đi cả rồi.” Vẫn có tiếng cười lẫn trong âm giọng của kẻ kia. Và ông nghe cả tiếng dòng sông rì rầm, rì rào. Bóng tối đang tan đi trong gió. “Thế gian này ngày càng đáng buồn. Càng ngày, càng đáng buồn.”

Gió đang lên từ phía núi, thổi tan tác những mảnh sáng của đom đóm vào bóng tối. Phía bên kia bến, người bắt đầu xuống thuyền, lên tiếng gọi ông. Ông vội quay lại đáp lời, chỉ cho họ đến nơi đợi.

Khi ông nhìn lại, kẻ trên thuyền đã biến mất. Những tia sáng đầu tiên của bình minh hắt lên bên kia núi, ánh trên mặt nước và đầu ngọn cỏ đẫm sương.

“Ngài Oc…” Một người chạy đến, định gọi ông nhưng lại ngắc ngứ giữa chừng. Cái tên của ông không phải để gọi ra nơi này. Thấy ông ngẩn người nhìn những con thuyền trên dòng sông, kẻ ấy sốt ruột hỏi. “Ngài thấy gì sao?”

“Asura[4].” Rời mắt khỏi dòng sông, ông lắc đầu, quay đi. Trước ánh mắt ngạc nhiên của người bên cạnh, ông nhủ thầm như chỉ tự nói với mình. “Những kẻ báng bổ thần linh.”

Khát vọng của chúng cũng vô ích, hành động của chúng vô ích, kiến thức của chúng vô ích, trí tuệ của chúng lầm lạc…

Những kẻ bị thánh thần bỏ rơi.

Sinh ra để bị tiêu diệt. Sinh ra để bị nghiền nát trong định mệnh. Sinh ra để trở thành công cụ của thần.

Sinh ra trong ngọn lửa, bị thiêu cháy cùng thế giới đã đến ngày lụi tàn.

Ông có căm ghét thần linh không?

Ông thở dài, khoát tay gọi toán người đang đợi, bảo tùy tùng vào làng báo tin. Nguồn Phố Châm không phải là nơi bọn họ có thể ở lại, nhưng là tiền đồn đầu tiên báo trước mỗi khi kẻ thù tấn công. Có lẽ ông sẽ gửi vài toán người ở lại trong các buôn sách gần đây. Phân tán quân lực để không ai có thể tiêu diệt được. Tuy sẽ khó khăn để tập hợp được toán quân mạnh như trước, nhưng ông đủ kiên nhẫn.

Nếu tình hình quá bất lợi, những toán quân này có thể lập làng ở lại trong vùng, xây dựng nên vùng đất mới. Bọn họ có thể chờ đợi.

Ông đã chọn giải pháp đàm phán ngay khi cảm thấy bất lợi chỉ vì để bảo toàn con người. Bảo toàn cho Đức vương, quân lính, chúng dân, và tinh thần. Chỉ cần còn sống, tất cả đều có thể thay đổi.

Cuộc chiến này dù kéo dài hàng trăm năm, ông vẫn đủ kiên nhẫn.

Dù đó là số phận do các vị thần đã an bài, ông vẫn chống lại.

Hoặc sẽ đưa tất cả vào ngọn lửa của thần, theo định mệnh hủy hoại đã an bài. Ông cũng chỉ là một phàm nhân trên thế gian, không bao giờ hiểu rõ ý định của thần.

Con người có thể chống lại thần bằng sự tồn tại.

Do đó, họ bị trừng phạt. Bằng cuộc sống, đời đời.

 

 

 

Chú thích:

[1] Sông La Nha: Nay là sông La Ngà, chảy từ cao nguyên Di Linh qua Lâm Đồng, Bình Thuận đến Đồng Nai, là biên giới tự nhiên giữa hai tỉnh Bình Thuận và Đồng Nai.

[2] Phố Châm, hay Phố Chiêm nay thuộc Lâm Đồng, trong tài liệu của Aymonier (“Notes sur l’Annam Le Binh thuận”, Excursions et Reconnaissances, 1885, t. 210) gọi là Patjam, gần Tánh Linh. Trước đây là nơi ở của người Chiêm và người Thượng Đê Ba Vành (hay Ba Phủ) – hẳn là người Churu, người qua lại đông đúc. Qua nhiều cuộc xung đột liên tiếp đầu thời Gia Long, dân Phố Châm theo ĐNNTC đã phân tán đi nơi khác, nơi này bị bỏ hoang. Cuộc xung đột của quân Nguyễn và người trong vùng Nam Tây Nguyên kéo dài khá dai dẳng.

Người Churu tự xem mình là con cháu của người Chiêm, vốn có ngôn ngữ, trang phục và phong tục rất giống người Chiêm.

[3] Chí Tôn ca trong tư tưởng Ấn Độ, sự phổ biến của nó còn quan trọng hơn cả nguồn gốc của tác phẩm. Gần như tất cả mọi trường phái Hindu giáo đều coi đây là một Thánh thư tương đương với các kinh Vệ Đà và Upanishad; người ta coi nó là cánh cửa dẫn đến Giác ngộ (Cruti) trong khi phần còn lại của Mahabharata thì dẫn tới Truyền thống (Smiriti).

[4] Asura: Là Atula đọc theo âm tiếng Phạn. Được coi là thần nhưng nằm ngoài tam giới, nửa thần nửa người, có khi được dịch là Phi Thiên. Cùng với Deva (Chư thiên), là con của Kashyap (đấng Chí tôn) nhưng luôn chống lại thần. Asura được coi là hay gây chiến, nhưng gồm cả thần thiện và ác, có nhiều vị thần quan trọng vốn là Asura như thần Nước Varuna, thần Lửa Agni, thần Mưa Parjanya…

Theo kinh Lăng Nghiêm, Asura có 4 loại: quỷ thần có công được hóa thành, sinh ra từ trứng, thuộc về quỷ thần; là thần nhưng bị trừng phạt, sinh ra từ bào thai, thuộc về loài người; sinh ra trong giới súc sinh; và loại do trời sinh nên có quyền lực vô hạn. Các Asura được sinh ra vì sân, mạn và nghi (sân hận, kiêu ngạo và nghi ngờ).

Trong tôn giáo tối cổ Hỏa giáo ở Iran của tiên tri Zarathustra, các Asura (được gọi là Ahura) bảo vệ cho Sự thật, còn các Deva (Daeva) bảo vệ cho Dối trá.




Hồi 63: Phản gián
Sunday, January 13, 2013 Author: Trường An

Từ biệt Trương lão, hắn cùng Lê Diệt về thành lũy để lấy đồ đạc trước khi vào rừng. Vừa nhìn thấy cửa lũy, hắn đã có cảm giác ngờ ngợ. Hai cánh cửa lớn đóng chặt, lính vây trong ngoài. Tuy tình hình hiện tại đang phức tạp nhưng người đang đổ tới rất đông, vẫn đang tập trung xôn xao ngoài lũy, lại không có ai tiếp đón. Thấy Lê Diệt, lính canh nhìn nhau hội ý hồi lâu rồi mới mở cửa cho xe vào. Dường Lê Diệt cũng nhận ra sự kỳ lạ, đến nửa quãng đường vào lũy, cậu ta cho xe chạy ngoặt về sau một khu nhà, vòng ra sân sau.

Lê Diệt thả hắn vào một căn nhà rồi vội vã rời đi, hắn cũng không lấy làm gấp gáp theo dõi cậu ta. Dù sao, hắn vốn không hiểu ngôn ngữ hay thân thuộc với người nơi này để hiểu được điều gì đang xảy ra. Thong thả thu dọn hành lý ra xe, hắn ngồi đợi Lê Diệt trở về. Mãi đến hơn canh giờ sau, cậu ta mới trở lại, nét mặt già dặn sớm vẫn giữ vẻ lạnh lùng nhưng hai thái dương ròng ròng mồ hôi.

Hắn để Lê Diệt điều khiển xe ngựa rời khỏi lũy, không có ý định lên tiếng hỏi han. Sự im lặng ấy rốt cuộc khiến Lê Diệt trở nên sốt ruột. Ngừng xe ở bìa rừng, cậu ta lên tiếng trước khi hắn vừa nhấc hành lý lên vai.

“Thiếu gia có thể ở lại đây thêm một lúc?” Mím môi vài lần, Lê Diệt quyết định nói. “Chỉ e sắp có biến… không lợi cho Xapatan.

“Thầy mo nổi tiếng nhất vùng vừa được mời tới. Lão phù thủy ấy đang đổ tội cho Xapatan phù phép nhà vua.” Tức giận thoáng qua giữa đôi mày cau chặt của Lê Diệt. “Tuy còn chưa có chứng cớ cụ thể, nhưng người nơi này tin bùa chú phép thuật thế nào ai cũng biết. Những tù trưởng vốn bị Nam Hà mua chuộc, không muốn khởi binh lại nhân cớ này gây sức ép với Xapatan. Tình hình đột nhiên chuyển biến, chỉ e bất lợi…”

“Chỉ e cô ấy cũng đã lường trước cả rồi.” Hắn điềm tĩnh ngắt lời Lê Diệt, ra dấu về nguồn Thạch Thành. “Thế đám võ sĩ cô ấy bí mật đem theo để làm gì?”

“Gây thêm một ‘cuộc tấn công’ nữa, hạ sát toàn bộ kẻ chống đối, lúc ấy còn lão thầy mo nào nói lại được?” Hắn cười nói, ngừng một lúc rồi lại nhún vai. “Nhưng có lão thầy mo thần thông quảng đại thế cũng đáng ngại đấy. Đám âm binh của lão chắc cũng đi mách lẻo trước rồi.”

“Có gian tế?” Lê Diệt cau mày hỏi lại, nhưng hắn không trả lời. Đem hành lý xuống xe ngựa, hắn gật đầu với Lê Diệt.

“Ta sẽ tìm một nơi ở gần đây. Cần tìm ta thì cứ dùng hiệu lệnh của họ Mạc.” Khi còn ở Hoa Nam, họ Mạc đã có hiệu thanh la để tìm người đi lạc. Hắn ở lại vì vừa muốn an lòng Lê Diệt, vừa cảm thấy không cần thiết phải truy tìm tung tích Lu giữa rừng. Hắn không đủ kinh nghiệm để tìm kẻ thông thạo vùng Thượng lâu năm như gã, và cho rằng gã cũng chẳng dại dột tìm tới đây một mình. Tình hình đang chuyển biến quá nhanh chỉ trong vòng một buổi sáng, hắn còn chờ đợi diễn tiến tiếp theo.

Quả nhiên, đến xế chiều hôm ấy, bên bờ sông gần nguồn Thạch Thành đã xôn xao. Một xác chết trôi từ thượng nguồn xuống, tấp vào bờ. Xác chết đàn ông đã cháy sém mất một nửa, vẫn còn mang trang phục của người Kinh, đeo thẻ bài của triều đình Nam Hà. Lính canh của vương Thủy Xá vội vã đem xác chết về lũy. Không ai biết những gì xảy ra sau cánh cửa đóng kín, chỉ thấy vào lúc chiều tối, tiếng ồn ào vọng khắp lũy. Tới nửa đêm, cổng lũy đột ngột mở, một đoàn người hộ tống nữ chúa che kín mặt trên bành voi rời khỏi. Ánh đuốc soi tỏ vẻ tức giận trên gương mặt mọi kẻ. Đoàn người của nữ chúa vừa đi, cánh cửa liền đóng sập.

Bất chấp đêm tối, Xapatan cho gọi đám người ở nguồn Thạch Thành về. Khi hắn theo tiếng gọi của Lê Diệt trở lại nơi đoàn người đang dừng chân, Xapatan đang điều động người chuẩn bị vũ khí. Lê Diệt đón hắn với cái thở dài lạnh hơn cả gió đêm.

“Xác chết của Lu vừa trôi xuống, trên người gã có găm mũi tên của lính Xapatan. Người ta liền bảo cô ấy giết người diệt khẩu, kẻ khác lại sợ hãi Nam Hà mượn cớ ấy mà đánh vào. Hỗn loạn một phen, có người bảo đem Xapatan trói lại mà chuộc lỗi với Nam Hà mới mong không gây chiến. Xapatan cũng có thân thế nơi này, liền làm dữ mới thoát ra được. Nhưng nếu không mau rời đi, e rằng sẽ có biến ngay trong đêm nay.” Lê Diệt đều đều kể, bằng giọng điềm tĩnh mà hắn cũng lấy làm lạ. Nói xong, cậu ta nhìn lướt nhanh qua hắn, chợt thoáng cười. “Quả thật thiếu gia nói đúng, không tự nhiên mà có một lão thầy mo thần thông quảng đại đến thế.”

“Chúng tôi không giết Lu, vẫn chưa tìm được gã.” Lê Diệt gật đầu xác nhận. “Xác chết có hình dạng, màu da rất giống, nhưng đã bị cháy sém mặt mũi. Kẻ này nhân tiện giá họa, lấy gậy ông đập lưng ông.”

“Bây giờ mọi người định đi đâu?” Hắn nhìn qua Xapatan đằng xa, hỏi. Đã mất đi chỗ dựa Thủy Xá, lại gây thêm hiềm khích, Xapatan khó có thể hy vọng một mình chống chọi Nam Hà ở địa đầu Phú Yên, hiện tại lui về cũng khó tránh bị phục kích giữa đường.

“Đi thẳng về Thượng Dã, đệ sẽ về lại Phú Yên sắp xếp người.” Lê Diệt lại nhìn hắn bằng cái nhìn là lạ. “Thiếu gia cũng đi về Thượng Dã…”

“Ta mà ló mặt ra lúc này thì Xapatan sẽ xiên ta đem nướng.” Hắn lùi lại vào bóng tối để tránh ánh mắt bên ngoài, lắc đầu. Xapatan vốn đã cho rằng hắn phá bĩnh âm mưu của nàng ta, đến lúc này lại chẳng đem hắn trút giận? “Nhưng đi cùng đường thì ta cũng để mắt một tí.”

Lê Diệt gật gật đầu, thở ra. Thấy Xapatan đã cho đám người lui đi, cậu ta vội trở lại đoàn. Hắn men theo bóng tối của rừng mà lùi về bụi cây hắn lấy làm ‘tổ’ ban ngày. Nghĩ một lúc, hắn liền nhẹ chân lẩn lại gần thành lũy của Thủy Xá, leo lên mái chòi nhốt ngựa mà ngóng đầu vào quan sát.

Trong lũy, ánh lửa vẫn sáng trưng. Các tù trưởng tụ tập trong sân vẫn đang nói chuyện bằng giọng như cãi nhau mà hắn hoàn toàn không hiểu. Nhìn mãi không thấy kẻ định tìm, lại nghĩ không nên mạo hiểm đột nhập vào gây ầm ĩ hơn, hắn rút lui vào rừng. Vì cẩn thận, hắn không đi thẳng về nơi trú ẩn mà vòng qua một đoạn rừng thưa.

Trăng sáng vằng vặc trên cao. Lá cỏ xao xác bay trong bụi mù. Đã vào giữa mùa khô ở phương Nam, cỏ cây vốn bốn mùa xanh đang trút lá. Những mảnh lá nhỏ như đầu ngón tay tung ngợp khoảng không, lẫn chìm vào bụi cùng mù sa của rừng.

Vốn đã căng tất cả giác quan lên nghe ngóng, hắn nhảy sang bên, tránh thoát được mũi kim bắn đến giữa lớp lớp lá khô. Dưới ánh trăng, một loạt mũi tên lấp lánh tạo thành đường mảnh như sợi chỉ liên tiếp bắn tới. Hắn chụp lấy cành khô gần đó, hứng toàn bộ mũi kim ghim vào. Thuận tay, hắn ném cả cành cây cắm đầy kim vào vị trí chúng xuất phát. Bụi cây phía xa rào rào lay động, nhưng không có một bóng người.

Tay phải hắn vừa ném cành cây tới trước, tay trái hắn đã vòng ra sau, chụp lấy con dao nhỏ đeo ở thắt lưng. Con dao có chuôi được buộc với sợi dây dài tung một vòng lớn, quét qua khoảng không phía sau hắn rồi vòng ngược về trước. Hắn nắm đoạn dây kéo giật, khiến con dao đột nhiên đổi hướng tránh gốc cây đang lao vào, chênh chếch chém xuống bụi rậm gần đó. Nghe ‘Đinh’ một tiếng, con dao bị đánh bật về, bóng đen từ sau bụi cây phóng lên nhánh cây cao.

Chân kẻ ấy vừa đặt lên nhánh cây, một đoạn dây khác đã bay tới. Dây thừng thắt thòng lọng nhằm ngay y mà chụp. Không có đà để nhảy tránh, y buộc phải nhảy xuống gốc cây.

“Ngươi coi ta là thú rừng à?” Thấy tay hắn nắm lấy con dao định phóng lần nữa, y quắc mắt nói chặn trước. Tay hắn ngừng lại, tuy chẳng hạ con dao xuống.

“Tiên hạ thủ vi cường.” Hắn cười nói, nửa thật nửa đùa. Nếu không ra tay dồn dập bức y chẳng còn đường tránh né, kẻ phải nhảy loi choi tránh đòn sẽ là hắn.

Trong mắt kẻ này bây giờ cũng chẳng có ý tốt lành. Hắn cho rằng mình đương nhiên hiểu rõ lý do.

“Ta nghĩ thế nào cũng có kẻ như ngươi ở đây.” Nhưng hắn vẫn thủng thẳng nói, tay cũng chẳng lơi con dao nhỏ. Gương mặt sạm đen của kẻ kia lì lì như một tảng đá.

Hiện tại thì y mang gương mặt đen sạm đặc trưng của người phương Nam, mắt có mí dày sùm sụp, gương mặt có thêm một hàm râu lún phún khiến quai hàm hơi bạnh ra. Trang phục y mặc không biết nên gọi là gì, giống như mười mấy lớp vải đủ màu quấn chồng lên nhau, rách rưới chằng đụp. Bộ dạng của y lạ lùng đến mức cả một gã thầy mo cũng chẳng ăn mặc quái dị đến thế.

Hắn cũng không cho rằng y là ‘một gã thầy mo’. Tuy hẳn là một vị trí cũng quan trọng tương đương.

Bất thình lình, cây kim kẹp giữa ngón tay hắn phóng tới, ghim vào cạnh cổ y. Hoàn toàn bất ngờ, y không kịp nhảy tránh, chỉ vội rút kim ra. Nhưng chất độc trên kim phát tác cực nhanh, quật y ngã xuống nền đất.

“Ngươi…” Thấy hắn đi tới, y trừng mắt. Mỉm cười, hắn cúi mình tước lấy loạt kim đã nằm trong tay y.

“Tiên hạ thủ vi cường.” Còn nói năng lằng nhằng, kẻ này chẳng ngại đánh lén hắn bất cứ lúc nào. Gảy những cây kim nhọn giữa mấy ngón tay, hắn nhìn y như đánh giá. “Cử động một ngón tay, ta ghim cho ngươi thêm một kim. Tay chân ta quờ quạng, chẳng biết kim cắm vào đâu.”

“Ngươi…” Thở phì phì qua mũi, y bất chợt cười gằn. “Đến giờ mới lộ bộ mặt khốn kiếp ra…”

“Không, lâu rồi.” Hắn cười. Nheo mắt nhìn xuống y, hắn gật gật đầu. “Tốt nhất là bây giờ ta khiêng ngươi về lại lũy Thạch Thành, để người ở đó ‘rửa mặt’ cho ngươi, làm rõ trò giả ma giả quỷ hiện tại.”

“Giả ma giả quỷ?” Nghe thế, y chợt bĩu môi cười hì hì. “Không làm việc xấu thì không sợ quỷ, làm lớn chuyện thì chẳng biết kẻ nào thiệt hại trước. Ả người Chiêm kia âm mưu móc nối với bọn phản nghịch ở Quy Ninh, Quảng Ngãi từ trước, định lấy cả Thủy Xá, Hỏa Xá làm căn cứ. Bây giờ lôi nhau về Phú Yên ba mặt một lời, bằng chứng đầy đủ thì ả cũng chẳng thoát.”

“Đã thế thì sao không làm?” Hắn chớp mắt, hỏi lại. Y thình lình im lặng, như chợt nhận ra mình lỡ lời.

Hắn gẩy những mũi kim lấp lóe ánh trăng, đột nhiên hiểu rõ. Những lãnh chúa trong vùng chuyển tiếp vẫn có sự độc lập tương đối, và làm rõ ‘âm mưu phản nghịch’ của họ không hề tốt trong thời điểm này. Hình phạt chỉ tạo thêm bất mãn, trấn áp chỉ tạo thành chống đối, càng không thể bỏ mặc cho qua để hy vọng bọn họ tự hàng phục. Việc lớn hóa nhỏ, việc nhỏ hóa không, để bọn họ tự thanh trừng, tiêu diệt lẫn nhau là cách khôn ngoan hơn. Xapatan cậy mình thông minh, biết đâu có thể từng đường đi nước bước thuộc kế hoạch của nàng đã nằm trong dự liệu của người từ trước. Hoặc cũng có thể họ chỉ chờ đợi nàng ra tay để bẻ hướng sự việc theo đúng ý mình.

Dường giật mình, hắn ngẩng đầu nhìn về phía thành lũy. Tiếng ồn chợt vang lên từ trong lũy. Diêu cười hắt ra một tiếng ngắn, nhướn mày khi hắn nhìn lại.

“Lại có chuyện rồi… Ám sát nhau chẳng hạn.” Y thong thả nói. Thấy ánh mắt hắn, y cười to hơn. “Bây giờ ngươi có đem ta về thanh minh cũng chẳng có ý nghĩa gì. Ai tin ngươi?”

“Không để cho họ một đường sống được sao?” Hắn lặng lẽ hỏi. Đôi mắt y sâu tối như hố đen lạnh lùng khi nhìn thẳng vào hắn.

“Sống? Ai sống? Ả về phía Tây, đem ảnh hưởng của mình kết nối với vùng Thượng Quy Ninh, phía Tây Nam Bình Thuận, chiêu dụ những kẻ nghiêng ngả phân vân, rồi sẽ ra sao? Thạch Thành này có vị trí quan trọng thế nào ngươi có biết[1]? Ả sống thì sẽ buông tay sao, hay phải đem cả chúng ta cùng chết? Bây giờ chúng không giết ả thì chẳng lẽ bọn ta phải giết ả?” Bất chấp cảnh cáo của hắn, y lấy hết sức bình sinh chộp lấy tay áo hắn, giọng càng lúc càng lạnh lẽo. “Ngươi muốn ả sống để bao nhiêu người nữa phải chết?”

“Mạng người không đo đếm được.” Hắn gỡ tay của y, đứng dậy bỏ đi. Thuốc này chỉ có tác dụng vài khắc, hẳn chưa có thú dữ lần tới y trong khi bốn phía ồn ào thế này.

Hắn vừa rời khỏi bìa rừng, ánh lửa đã chói vào mắt. Cổng lũy đã mở rộng, toán quân đông nghịt đem theo cả ngựa voi ùn ùn kéo về phía Xapatan vừa rời khỏi. Hắn vội chạy đến nơi đã hẹn cùng Lê Diệt.

Đoàn voi ngựa đã sớm tìm ra Xapatan trước hắn. Không cần nhiều lời cãi cọ, hai đoàn người đã xông vào loạn đả. Tên bay rào rào, bức toán người của Xapatan phải lui lại. Dù có đoàn võ sĩ thiện chiến, quân của các tộc trưởng tụ họp trong lũy kéo đến càng lúc càng đông, đã bao vây toán người của Xapatan vào giữa. Trong đêm, bụi bay mù càng khó nhận ra người.

Hắn rút kiếm định bước tới, chợt nhận ra tay mình cứng đờ, trong khi cơn ớn lạnh dâng trong lồng ngực. Thanh kiếm bất chợt trở nên nặng trĩu trong tay hắn.

Mạng người không đo đếm được? Hắn định giết ai trong bọn họ để giải cứu cho Xapatan cùng Lê Diệt? Bây giờ có đem Xapatan rời khỏi, nàng ta sẽ lại quay về báo thù, thuộc hạ của nàng cũng không vì thế mà thoát khỏi cái chết. Chẳng lẽ, cách giải quyết tốt đẹp nhất bây giờ chính là giết Xapatan?

Nàng ta chết đi, đám loạn đả giết chóc nhau dưới kia sẽ ngừng. Tất cả xung đột sẽ ngừng. Không còn cơ hội để chiến thắng, toán quân ô hợp trong núi dễ dàng tan vỡ. Hắn sẽ đưa được Ngô Lãng đi, không cần đưa Như Yên vào nguy hiểm. Rất nhiều người sẽ không phải chết.

Hắn đã sống như thế, suy nghĩ như thế, rất rạch ròi. Nên và không nên, cách nào đem lại kết quả tốt nhất.

Có lẽ, vốn chỉ là tốt nhất cho bản thân hắn.

Lời nói của Trương lão sáng này trở lại, vang âm âm trong đầu hắn như tiếng gió hú dài. Hắn không nhớ đến những gì ông ta nói, chỉ là âm điệu của lời nói. Tất cả vang âm âm trong hắn, khi đôi tay run lên không thể kiềm chế.

Mạng người không phải để đo đếm, nhưng hắn là ai để lựa chọn?

Cứu một người, hại chết một người. Cứu một người, hại chết muôn người. Thiên đạo đã dạy cho hắn bài học ấy. Thiên địa bất nhân, thánh nhân bất nhân.

Đám đông từ bốn phía rừng kéo về khiến tình thế xoay chuyển nhanh hơn hắn tưởng. Hắn còn đang ngẩn người, một tiếng hét lanh lảnh đã vang trong đám đông. Tiếng hét của Xapatan. Vừa nghe thấy, dường giật mình, hắn vội vã chạy về phía đám đông bụi mù mịt đến không phân biệt được ai với ai.

Xapatan đang đứng trong vòng bảo vệ của các võ sĩ thân tín. Vòng người chắn càng lúc càng mỏng dần. Vừa rồi nàng hét lên khi một võ sĩ đứng gần trúng tên ngã xuống. Vòng người trống một khoảng, Xapatan vội cầm gươm giáo xông ra trợ chiến.

Như chỉ chờ có thế, tên lại rào rào bay đến. Xapatan thấy mình bị kéo giật ra sau, ngã xuống đất. Lê Diệt đem khiên lớn xông vào trám chỗ trống của nàng, vội gọi người đưa nàng lùi hẳn về sau.

“Ngươi…” Xapatan chớp mắt nhìn kẻ đã lôi mình về đúng lúc, đang nửa nằm nửa ngồi trên chân nàng. Ông lão râu tóc bạc phơ, đôi tay run rẩy ướt đẫm mồ hôi buông tay nàng, gật gật đầu. Ông ta mở miệng, nhưng nói không thành tiếng, bất chợt ọe ra một ngụm máu tươi.

Xapatan hốt hoảng nhổm dậy, nhìn thấy ba mũi tên đã cắm vào lưng Trương lão. Tên có tẩm độc, thân mình ông lão co giật, tròng mắt lộn ngược trắng dã.

Xapatan vội gọi người, nhưng không ai nghe tiếng nàng. Một đợt tấn công nữa tràn tới, mọi kẻ đều căng mình ra chống đỡ. Co giật thêm vài lần, Trương lão thở hắt ra, gục chết trong tay nàng.

“Chạy đi, Xapatan!” Nghĩ đến lúc không chống cự nổi, Lê Diệt hét lên, gọi đám võ sĩ và quân lính tụ về mở đường máu cho Xapatan rút lui.

Lời Lê Diệt còn chưa hết, cậu ta đã thấy mình bị đẩy sang bên. Xapatan gần như nắm cổ áo Lê Diệt mà quẳng cậu ta sang bên, đứng vào chỗ của Lê Diệt. Mắt ngầu đỏ, nàng gạt khiên chắn đi, dõng dạc quát lớn.

“Muốn giết ta thì giết, đừng giết người của ta!” Giơ đao chỉ về kẻ trên bành voi phía xa, Xapatan gần như điên cuồng quát hét. “Không được giết người của ta!”

Trong chớp mắt, tên lửa cùng giáo mác đồng loạt bắn về phía cô gái không được che chắn.

Một lần nữa, Xapatan thấy mình bị đẩy bật về sau. Tiếng hét rú lên từ hai người võ sĩ đã nhảy ra che chắn cho nàng. Lê Diệt cũng đã lao tới nắm nàng kéo lại. Kẻ vừa đẩy nàng dùng chân đá tấm khiên bật lên, che khoảng không mà người chưa kịp chắn.

“Cô chết thì họ cũng chết.” Không nhìn lại, hắn vừa nói vừa chỉnh tấm khiên tránh hai xác người còn đang giẫy trên đất. Liếc qua Lê Diệt, hắn hất cằm. “Còn hỏa pháo không?”

“Có.” Lê Diệt gật đầu, vòng tay ra hành lý đang đeo sau lưng, lấy hai quả pháo.

Hắn cầm lấy hai quả pháo, châm ngòi. Một quả, hắn ném về kẻ ngồi trên bành voi phía xa. Nghe tiếng nổ rền tai, lửa bắn tung tóe, hắn lập tức ném quả còn lại về phía quân bao vây mỏng nhất. Thấy tộc trưởng bị tấn công, toán lính nhao nhác hốt hoảng. Lính ở nơi pháo bay tới đạp lên nhau bỏ chạy. Nhân lúc rối loạn, đoàn người của Xapatan vội rút chạy qua khoảng trống. Hắn ném thêm một quả pháo ngăn nhóm lính toan đuổi theo.

Nhưng bốn phía núi rừng vang tiếng chiêng trống âm âm. Bọn hắn vừa chạy vào rừng, đã nghe tiếng chiêng dồn dập vang dội giữa những vách đá. Những nẻo đường của người Thượng đã bị bịt kín, bọn hắn chỉ còn cách bỏ chạy vào rừng già.

Rừng sâu của núi phương Tây là nơi mà ngay cả người Thượng cũng không dám vào. Cây lá đan dày che khuất ánh trăng, bọn hắn không dám thắp lửa sợ bị phát hiện, chỉ mò mẫm đi trong bóng tối giơ tay không thấy ngón. Không rõ còn bao nhiêu người theo Xapatan, nhưng hắn biết bọn họ ngày càng ít dần qua hơi thở của người cạnh bên. Đến lúc chạm phải một bụi cây lớn chắn ngang, đao kiếm chặt không đứt, bọn hắn phải dừng lại.

“Có thể là vách núi.” Lê Diệt thì thầm, cố kềm nén nỗi thất vọng. Bọn hắn không thể lần mò xem ‘bụi cây’ này kéo ra xa đến đâu, chỉ có thể chuyển hướng. Đêm tối rừng sâu, không ai biết đi về đâu.

Hắn không lên tiếng, vơ một nhúm lá cỏ mà đốt lên, lấy tay áo che thành một cái đèn nhỏ. Nhìn lên, hắn nhận ra đây là một bụi tre, liền than thầm. Tre vông trong vùng mọc thành rừng, đan dày hàng dặm, không có khả năng vượt qua.

Hắn còn đang nghĩ, bỗng nghe tiếng Lê Diệt kêu khẽ. Cậu ta kéo ‘chiếc đèn’ trong tay hắn về phía Xapatan. Ánh lửa soi tỏ gương mặt nhợt nhạt của nàng, đôi môi đã chuyển sang màu tái xám, mắt nhắm thiêm thiếp. Xapatan vốn được một võ sĩ cõng mà chạy, không ai phát hiện ra sự bất thường của nàng.

“Rắn độc.” Thấy biểu hiện của Xapatan, hắn vội nói. Họ gấp gáp đỡ Xapatan xuống, thắp sáng lửa để tìm vết thương trên người nàng. Vết rắn cắn nằm sau bắp chân Xapatan đã gần khô miệng, tím đen lại. Lê Diệt ghé miệng định hút máu, hắn đưa tay ngăn. “Không kịp nữa.”

Xapatan đã hôn mê. Nhưng bất chấp cảnh cáo của hắn, Lê Diệt vẫn cúi đầu hút máu từ vết thương của nàng, xoa bóp cho nàng. Dường cảm nhận được, Xapatan mấp máy môi. Trong khoảnh khắc hồi quang phản chiếu, nàng mỉm cười.

Từ đôi môi khô nứt của nàng, thanh âm nhỏ bé rời rạc như có âm điệu của một bài ca.

“Dom nan Xapatan Diwi… Cauk xơp nhu hari… grơp nưgar jang paxơng…”

Hắn nghe, tựa tiếng vọng từ quá khứ xa thăm thẳm nơi nào đổ lại.

 

Thế rồi công chúa Xapatan khóc
Tiếng khóc thảm thiết, cả xứ sở động lòng.

 

Và dòng sông, từ trên cao đổ lại
Nước cuộn xoáy mãi không nỡ trôi đi…

 

 

 

Chú thích:

[1] Thực tế sau này, khi Tây Sơn nổi dậy đã liên hệ với vương tộc Chiêm Thành ở trấn Thuận Thành, trong đó nổi bật nhất là một nữ chúa ở Thạch Thành sử ghi tên là Thị Hỏa. Với sự trợ giúp đắc lực của người Thượng (một người vợ của Nguyễn Nhạc là người Bana), người Chiêm Thành, Tây Sơn đã đánh xuống Quy Nhơn, lan rộng ra Quảng Nam. Sau này, Tống Phúc Hiệp từ Gia Định đánh lên, giết chết nữ chúa Thị Hỏa, bức được Tây Sơn ở phía Nam phải lui về Quy Nhơn (Rồi quân Trịnh đánh xuống, khiến quân Nguyễn phía Bắc vỡ trận, quân Trịnh và Tây Sơn liên kết với nhau đánh quân Nguyễn lui hẳn về Gia Định). Vai trò của vùng Thượng, đặc biệt là nữ chúa của Thạch Thành, vô cùng quan trọng trong giai đoạn đầu của cuộc nổi dậy này.




Hồi 62: Biển
Monday, December 31, 2012 Author: Trường An

Trương lão vốn không ở trong lũy, Lê Diệt đưa hắn về nguồn Thạch Thành, đến một căn nhà trọ giữa phố. Ngôi nhà ba gian đã được thuê trọn, đông người hơn hắn tưởng. Xapatan đã đưa theo nhiều thuộc hạ cải trang thành đoàn buôn đi cùng Lê Diệt, ở lại trong nguồn. Trương lão ở căn phòng được canh giữ thường xuyên bởi ít nhất hai người ngoài cửa. Khi Lê Diệt đẩy cửa vào, ông lão đang nằm trên phản tre liếc mắt nhìn ra, ánh mắt dừng lại ở hắn đứng sau Lê Diệt.

Có lẽ Xapatan đối xử với Trương lão quả thật không tệ. Ông ta đã mập mạp hồng hào hơn hẳn lúc lẩn lút trong núi, vẻ hoang dã trong ánh mắt sâu hút cũng mất ít nhiều. Khi nhìn thấy hắn, Trương lão thoáng vẻ ngạc nhiên, nhưng rồi cũng bình tĩnh rất nhanh.

“Ta có thể đưa Trương lão đi nói chuyện được chứ?” Hắn chặn lời ngay khi Lê Diệt vừa mở miệng. Thấy ánh mắt cậu ta, hắn cười. “Ta sẽ đưa người về. Còn anh trai ta ở Đại Thành, có đi đâu mất mà sợ.”

Nghe đến Mạc Cửu, Lê Diệt mím môi, ngẫm nghĩ một lúc lâu rồi gật đầu. Hắn cho người đỡ Trương lão xuống một chiếc xe ngựa nhỏ chờ sẵn trong sân, bản thân làm xà ích quất ngựa chạy vào rừng. Đi qua nguồn, men theo dòng sông hướng thoai thoải lên núi, hắn ngừng xe ở một vách đá hoang vắng trống trải. Nước đổ xuống từ một thác nhỏ thấp tung bọt trắng xóa dưới nắng gắt. Hắn mở cửa xe, đỡ Trương lão ngồi xuống một hòn đá lớn. Nắng đã nung mặt đá nóng bỏng, nhưng ông lão mím môi ngồi yên, chỉ hơi rùng vai. Hắn nhìn qua ông ta, cột ngựa vào gốc cây đằng xa rồi mới đến bên cạnh, nheo mắt nhìn lên thác nắng.

“Ông còn nói được không?” Không nhìn Trương lão, hắn chợt cười. “Tôi nhớ là lúc ấy ông vẫn còn nói được.”

Dù chỉ là vài tiếng đứt quãng, dây thanh của ông lão này không bị thương tổn. Có thể ông ta sẽ tự gây tổn thương cho mình để tránh sự truy bức của kẻ khác, nhưng hắn nghi ngờ điều đó.

Hắn nghe tiếng ậm ừ bên cạnh, thanh âm khọt khẹt khó nghe như nghẹn trong cổ. Trương lão mở miệng, nhưng cổ họng qua nhiều năm không phát âm như đã lạc mất cả lời.

Hắn kiên nhẫn chờ đợi Trương lão lấy lại tiếng nói của mình trong lúc quan sát dòng nước không ngừng tuôn chảy. Đến khi ông lão ‘ừm’ một tiếng đã có vẻ suôn sẻ, hắn lại lên tiếng ngắt lời.

“Ông cần gặp Ngô Lãng để làm gì?” Hắn hỏi thẳng, không muốn vòng vo, cũng chẳng có thời gian để quanh co. “Bây giờ ông vẫn muốn góp công góp của cho quân phục Minh sao?”

“Quân phục Minh?” Trương lão cau mày hỏi lại. Tiếng nói của ông ta tuy khó nghe nhưng cũng đã thành âm. Hắn đưa mắt nhìn lại ông lão, dường không hiểu ý câu hỏi ngược này. Trương lão cũng đăm đăm nhìn hắn, ánh mắt sâu tối hệt như trong đêm nọ. “Cậu vẫn còn muốn phục Minh?”

Câu hỏi khiến hắn thoáng ngạc nhiên, rồi cũng nhanh chóng vỡ lẽ. Trương lão không mấy kinh ngạc khi thấy hắn xuất hiện hẳn vì sự có mặt của Lê Diệt. Lê Diệt là người nhà họ Mạc, mặc nhiên ông ta đã xem hành động của cậu ta là việc làm của anh em hắn. Có thể ông ta đòi gặp mặt Ngô Lãng thì cũng đã chờ đợi chạm mặt hắn.

Nhưng hắn không phản bác mà chỉ mỉm cười nhìn ra sông. Hắn đang muốn thăm dò Trương lão, vả lại, cũng chưa biết phải trả lời câu hỏi của ông ta thế nào.

Trương lão cũng im lặng một lúc lâu. Rồi hắn nghe ông lão thở dài.

“Khi đi qua Đông Phố, ta đã bí mật tìm Dương Ngạn Địch.” Trong giọng nói của Trương lão, hắn nghe được đôi chút mệt mỏi mơ hồ. “Thủy Chân Lạp đất rộng người ít, ta nghĩ chỉ cần đôi chút sức lực là có thể kiểm soát được, lấy làm căn cứ cho chúng ta. Nhưng Dương tướng quân bảo, không muốn làm.

“Tình nghĩa với chúa Nam Hà cũng là một lẽ. Người ta cứu giúp mình lúc khốn khó thì chẳng lẽ lại đi hớt tay trên, tạo phiền phức cho người? Nhưng ta cố công thuyết phục mãi, nói đến lý tưởng thưở xưa, Dương tướng quân lại nói, ngay cả việc ấy ông ta cũng không muốn các ngươi tiếp tục.” Trương lão đều đều nói, như thể đã chuẩn bị trước từ lâu. “Dương tướng quân bảo, khi đoàn thuyền bị quật nát, khi nhìn các ngươi đói khổ, sắp bị tiêu diệt đến chẳng còn lại một ai, chẳng có ai cứu giúp giữa biển, ông ấy chỉ muốn các ngươi sống. Lạ kỳ, có thể xua cả vạn quân hy sinh trước trận, nhưng lại đau lòng khi thấy các ngươi vật vã tìm cách sống còn. Làm tướng thì dù có xông pha hòn tên mũi đạn cũng là ở trên cao, được che chở bởi vạn người. Kẻ ở trong trướng bày binh bố trận càng là hạng êm ấm lập công trên xác chết. Xua cả muôn vạn người ra trận, cũng chỉ là con số không hơn, mất kẻ này thì mộ kẻ khác, mất đội quân này thì bắt lính lập nhánh khác. Đến cả trẻ con, đàn bà khi cần cũng có thể đem ra trận. Lý tưởng? Lý tưởng là cái gì, có cho các người thức ăn được không? Thậm chí, lập thành cái lý tưởng đó, các người có được cái gì không? Kẻ thì ăn trên ngồi trốc, thành vua thành quan, các người thì cũng chỉ mang thương tật cả xác cả hồn mà về quê tay trắng nếu như còn sống. Tam phiên hàng Thanh rồi lại phản Thanh, các người chỉ là con cờ bị rũ bỏ ngay khi không cần.

“Lúc ấy, ta không đồng tình với Dương Ngạn Địch. Quốc gia dân tộc không quan trọng sao? Muôn vạn mạng người Dương Châu, Gia Định không quan trọng sao? Làm sao chúng ta có thể còn sống với chừng ấy gánh nặng? Làm sao chúng ta có thể chấp nhận mất đi đất nước? Ta hỏi, hỏi mãi, cuối cùng Dương tướng quân bảo: Chừng ấy gánh nặng, chỉ cần ông ấy gánh vác là đủ.” Lại một tiếng thở dài, Trương lão nhè nhẹ lắc đầu. Ánh mắt ông ta nhìn lướt qua hắn. “Dương tướng quân kể: Ngày trên biển ấy, trong cơn cùng cực, một đêm ông ấy đã bắt chuyện với một đứa trẻ trên thuyền. Đứa trẻ ấy lén lút lại gần xác một người vừa chết mà lấy máu hứng vào bình. Âu cũng là chuyện không lạ, lúc này đã có vài kẻ lén khoét thịt xác chết mà ăn. Nhưng thằng bé ấy không lấy máu cho nó uống, hẳn vậy. Chỉ cần ghé môi lại hút, nhanh chóng an toàn hơn nhiều.

“Dương tướng quân ra vẻ như không thấy hành động của nó, ra ngoài đợi nó đi qua mà bắt chuyện. Dương tướng quân kể, lúc ấy ông rất suy sụp nên nói rất nhiều. Thằng bé nọ kiên nhẫn ngồi nghe. Đến lúc ông ấy hỏi lại vì sao nó ở trên thuyền, thằng bé trả lời: ‘Không biết’.” Trương lão khe khẽ cười, tiếng cười khàn khô khốc nghe lạo xạo trong cổ như đá sỏi. “Bây giờ nghĩ lại thì chắc nó cũng chẳng để tâm đến Dương tướng quân nói những gì. Nhưng một câu ‘Không biết’ đó của nó đã làm Dương tướng quân hoàn toàn thay đổi.”

Gió đang thổi qua cánh rừng, nước đang đổ xuống trên ghềnh thác. Hắn nhíu mày, đã thầm lấy làm sốt ruột khi không biết câu chuyện này đang hướng về đâu. Có vẻ qua nhiều năm bắt buộc im lặng, ông lão này lại đang nói quá nhiều.

“Khi gặp cậu, ta đã nghĩ cậu chính là đứa trẻ ấy.” Trương lão đột ngột nói, hướng sự chú ý của hắn trở lại. “Giết người không lý do, chỉ là cần thiết. Rồi ta nghĩ mãi, trong những năm sau này, tại sao lại ra thế?

“Như con bé Xapatan nọ, nó không ghét những ‘kẻ thù’, hẳn vậy. Ghét – như một người ghét một người, không phải nhiều người ghét nhiều người. Ban đầu, vì một lý do nào đó, hai bên đánh nhau. Gây tổn thương cho nhau, tạo oán thù với nhau, báo thù qua lại, và rồi chẳng còn lý do nào nữa. Mọi thù oán đều đúng, mọi căm ghét đều tất nhiên, mọi kẻ đều có lý. Đến bọn trẻ như các người thì thật là chẳng biết tại sao lại như thế. Ngay cả Khang Hy kia hẳn cũng không hiểu tại sao lại phải gánh vác oán thù của Đa Nhĩ Cổn. Đến bọn trẻ các người đánh giết lẫn nhau chẳng vì tội tình của ai cả, nhưng rồi các người lại tiếp tục giết nhau, thù oán nhau vì chính điều đó.”

Trương lão chợt ngừng lời. Tiếng nói đang cất cao chợt như hòn đá rơi tõm xuống lòng sông. Ánh mắt hắn dừng giữa lưng chừng trời, nơi những ngọn cây nhấp nhô in vào mây. Mấy cánh chim nhỏ đang bay lên. Và thanh âm của đàn ve đã vang động núi rừng.

Xuôi theo dòng sông đổ về thung lũng là nguồn Thạch Thành đông đúc, thuyền bè đậu san sát. Từ vị trí này nhìn lại, những mái nhà nhấp nhô mờ trong khói nắng, bóng con người nhỏ như hạt đậu rơi. Trương lão đang nhìn đến hút mắt về hướng ấy, đôi mắt mờ đục bóng nắng chói chang.

“Tuyết Nhi…” Môi Trương lão mấp máy, nhưng tựa như từ ngữ đã rời bỏ ông, hoặc ông không tìm được những gì mình muốn nói. Hắn lại trông lên bầu trời, dường đã hiểu điều ông đang tìm cách diễn đạt.

Tuyết Nhi, Xapatan, Chiêm Dao Luật, và cả Như Yên, những cô gái mang nặng món nợ từ lúc chưa có mặt trên đời, đều phải trả giá cho điều đó. Có tội hay vô tội, thông minh hay khờ khạo, tất cả đều không tránh được định mệnh giáng xuống mình.

Tuyết Nhi vô tội, thiên chân và vô tội nhất thế gian. Vì Tuyết Nhi, hắn đã không thể tha thứ cho Như Yên, sự thật là như vậy. Hắn không biết cách để chấp nhận, đã buông tay để không phải đối mặt. Và Như Yên cũng không tha thứ cho hắn. Và Ngô Lãng không tha thứ cho cả thế gian. Bao nhiêu tình yêu cũng không đủ để khỏa lấp hận thù. Bao nhiêu thời gian không đủ để quên đi ký ức. Thời gian chỉ để nỗi đau nằm lút sâu trong tâm khảm như mảnh dằm nhức nhối khôn nguôi.

Oán thù không phải để quên đi, rồi mỗi kẻ lại càng tìm cách tổn thương nhau thêm nữa, xem đó là cách để xoa dịu lòng mình. Nỗi đau không phải để buồn thương, mà biến thành nỗi căm giận không cách nào buông bỏ. Ký ức được nhắc đi nhắc lại không phải để tưởng niệm, chỉ để người nhớ kỹ những mất mát hận thù. Chạm vào nhau chỉ thấy mỗi xót xa.

Tuyết Nhi vô tội, đã không ai bảo vệ được nàng. Tất cả đều cảm thấy bất lực, giận dữ, và oán hận. Tuyết Nhi không đáng phải chết, và ý nghĩ ấy biến thành nỗi oán hận khôn cùng. Đến mức không ai có thể thốt ra điều đó.

Chính nó, nỗi oán hờn chất chứa từ sâu thẳm, từ những năm tháng không tên, trong cả những gì tưởng đã lãng quên và bỏ mặc, đã đẩy tất cả vào con đường không có cơ hội quay đầu.

“Ta đã không hiểu Dương Ngạn Địch, không hiểu…” Trương lão lẩm bẩm, hắn nghe những tiếng thở ngắn khô khốc lẫn với lời nói của ông ta. Im lặng một lúc lâu, ông lão bỗng nhiên quay sang hắn. “Ta muốn tìm Ngô Lãng, bảo với nó… Nếu muốn có một chỗ dựa, một thế lực, ta sẽ cho tiền để nó mua chức quan ở Chân Lạp, Đại Thành hay Miến Điện. Chỉ cần có tiền thôi, phải không?”

“Chỉ cần có tiền thôi, nhưng y không muốn đâu.” Hắn mỉm cười. Muốn mua một chức Ocnha, quả thật chỉ cần chi một ít tiền. Thậm chí, muốn tranh thủ phấn đấu đến chức vị Okya Sombatthiban của triều đình Đại Thành, cũng vẫn có cơ hội. Nhưng hắn hiểu rõ thế nào là ‘làm việc’ trong những triều đình ấy. Triều đình Prasat Thong sụp đổ kéo theo cả hệ thống quan lại, cả những thương nhân làm việc cho nhà vua. Nhóm người Nhật Bản ở Ligor bị hủy diệt chỉ trong một đêm, sau một đời tận lực của Okya Yamada. Chẳng có gì là an toàn với những triều đình phương Nam, các vua chúa sử dụng bọn thuyền nhân lưu vong như những con tốt thí. Ngô Lãng hẳn nhiên không chấp nhận điều đó.

“Nó muốn gì?” Trương lão cau mày. Hắn ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi lại không biết phải trả lời thế nào.

Hắn sẽ không cho rằng y muốn thành lập lại đội quân phục Minh. Những giấc mơ đã tan vỡ trên mặt biển ngày ấy trong tất cả mọi người. Y chẳng còn điều gì để níu giữ ngoài chính bản thân, ngoài mảnh vỡ của những giấc mơ, ngoài những tổn thương. Y đứng dậy bằng lòng tự tôn và sức mạnh của oán hận. Thứ y tìm kiếm trong hành trình trả thù này có lẽ chỉ là công bằng cho bản thân. Công bằng, trong một thứ ý nghĩa lạ lùng.

Vì thế, hắn đã không ngăn y lại, hắn không biết cách. Khi chính bản thân hắn cũng chẳng thể cản được mình. Công bằng, ngay cả khi buông bỏ cuộc đời và hủy hoại chính bản thân.

Trong một thế giới vô lý cực cùng và nỗi bất lực vô biên, đôi khi nỗi đau lại là niềm ủi an duy nhất, sự công bằng duy nhất có được cho mình.

Ngươi có đâm đầu vào chuồng heo mà chết thì thế giới cũng chẳng vui hơn đâu, Sorasak đã nói trong đêm ấy, bằng nỗi thống khổ thê thiết đến điên cuồng, đến lạnh lùng. Cậu ta đã lấy lại ‘công bằng’ cho bản thân trong một cuộc hủy hoại – Và cuối cùng, thấy bản thân bị hủy hoại. Một cuộc hành xác không hồi kết, khi chẳng ai tìm được thứ mình cần.

“An toàn, có lẽ vậy.” Cuối cùng, hắn chậm chạp trả lời. Hắn cũng không chắc về những gì mình nói, chỉ hy vọng Trương lão hiểu được. “Y bao giờ cũng cảm thấy bất an.”

Vì thế mới cần xây thành cao hào vững, mới mải miết lo toan sắp xếp, tranh đoạt cùng người, mới tự tay vứt bỏ những gì không chắc chắn. Mới trở nên quyết tuyệt trong một thế giới bấp bênh, chập chờn sáng tối. Mới đẩy mình vào con đường cô độc, không biết thứ tha, chẳng biết chấp nhận.

Trương lão vẫn đăm đăm nhìn hắn, dần khiến hắn mơ hồ khó chịu. Đá một hòn sỏi lăn xuống nước, hắn định hỏi lại về ý định của ông ta khi tìm gặp Ngô Lãng. Hắn vừa mở miệng, Trương lão đã ngoảnh đầu đi.

“Bọn trẻ các người…” Ông lão lầm bầm, vẫn gần như là thì thầm. Hắn cười hắt ra.

Dòng sông vẫn trắng sáng nắng gay gắt đổ xuống từ bầu trời lồng lộng. Dòng sông loáng thoáng sắc trời trong đáy nước. Hắn nghĩ về mặt biển ngày ấy, nhiều ngày, rất nhiều ngày trước. Cuộc hành trình dài dằng dặc trên biển khơi, rời bỏ mảnh đất lạc loài những giấc mơ tan vỡ để rơi vào giữa đại dương tựa như một lời nguyền.

Không còn những giấc mơ, không còn nơi để quay về, không có nơi để ở lại, mặt đất cùng biển khơi đều như nhau, không có gì khác biệt. Bất an, nói cho cùng cũng chỉ là cảm giác của con người.

“Ông không định đưa tiền cho Ngô Lãng, bảo y tìm một chức quan đấy chứ? Chỉ e rằng có làm quan trong triều, y cũng sẽ tìm cách lật đổ cả nhà vua, hay chiếm đất mà lập nước mong làm một Đại Thành mới.” Không có thời gian để dùng dằng lâu, hắn quyết định nói thẳng. Nghĩ lại, hắn cười khẽ. “Âu là chiếm ngai làm vua hay chiếm đất lập nước cũng ít đổ máu hơn. Nghe đâu xứ sở này đã có rất nhiều vua như vậy.”

Trương lão chầm chậm quay đầu nhìn hắn. Hắn nhún vai.

“Muốn làm vua thì cũng có thể ra chiếm một hòn đảo, làm vua với khỉ.” Hắn mỉm cười, nhìn thẳng vào mắt Trương lão. “Trồng hồ tiêu, hái trái, chặt gỗ, tìm rong biển, làm nước mắm… có tay chân thì không lo chết đói. Ta dựng được Cù lao Phố, Mỹ Tho từ hai bàn tay trắng thì chẳng lẽ lại không xây được thành trì mới?”

“Cậu thật sự muốn…?” Trương lão thận trọng hỏi lại. Hắn chống tay lên gối, trầm ngâm một lúc rồi gật đầu.

“Mấy năm nay, người Đường xuống phương Nam ngày càng nhiều. Tây dương bị Đại Thành, Miến Điện, Nam Dương đuổi đánh không còn sức ảnh hưởng lớn, Nhật Bản đóng cửa, tình hình Hoa Nam yên ổn thì thương buôn Đường nhân sẽ lấp đầy các cảng. Người Minh bỏ xứ lưu vong cũng nhiều. Đường nhân thông thạo buôn bán, làm kinh tế, chẳng mấy chốc mà nắm nền kinh tế bản xứ[1]. Ta muốn làm gì cũng không lo bị cô độc một mình. Vả lại, người đông thế mạnh chẳng chóng thì chầy sẽ xảy ra chuyện, lo cho cả mình lẫn người một đường lui vẫn tốt hơn[2].” Hắn chợt cười khẽ. “Cũng có người đã hứa cho tôi cả vịnh Xiêm La.”

“Cậu…” Trương lão nói, nhưng rồi thấy ánh mắt hắn lại im lặng.

Đôi mắt vẫn hệt như trong đêm ấy, không buồn chẳng vui, không sát khí, cũng chẳng hào hứng hồ hởi. Đôi mắt hệt như mặt nước lạnh băng.

Đôi mắt hướng về ông với cái nhìn thẳng lạnh lẽo, hầu như không liên hệ đến nụ cười trên môi hắn.

Kẻ giết người, ông đã từng nghĩ. Rồi ông cũng đã từng phủ nhận khi hắn không xuống tay. Giật mình nghĩ lại, cũng có thể hắn chỉ không giết ông vì che giấu một xác chết khó hơn là người sống.

Kẻ đã có thể nhuốm đẫm máu bàn tay mình với sự dửng dưng tột độ, còn điều gì có thể không làm?

Hắn nói như thể một ý nghĩ vừa nảy đến, nhưng bằng giọng bình lặng trầm ổn tựa đã toan tính rất lâu. Một ý nghĩ vừa nảy ra hay đã nằm trong lòng hắn từ rất lâu, chính hắn cũng không rõ.

“Đại Thành khó có thể can thiệp vào trận chiến này.” Nheo mắt nhìn nắng, hắn nói tựa đang bàn luận. “Nam Chưởng tiếp giáp với đất Đại Thành, viễn giao cận công vẫn tốt hơn là để Chân Lạp đánh sau lưng mình lúc nào không biết. Cầm cự được với Nam Hà hay không thì phải xem phận số thôi. Không thể dồn hết tiền của vào một canh bạc bất trắc được.”

“Cậu không muốn giúp Ngô Lãng?” Trương lão mím môi. Hắn lại cười.

“Biết người biết ta chứ liều để làm gì?” Trong nắng gắt, hắn lại cảm thấy cơn lạnh thấm vào lồng ngực. “Nếu không được chủ động thì nên chọn thứ đỡ tệ hơn cả, ít nhất là cho bản thân mình.”

Đây là con đường tất cả mọi kẻ đã đi. Tồn tại hoặc bị triệt tiêu, vốn dĩ không hề có lựa chọn.

Chỉ có kẻ mạnh mới nắm được số phận. Có những con đường để trở nên mạnh mẽ, đó là lối đi vào tâm bão.

Đây cũng là điều Hoàng Tiến đã từng làm, đã thất bại và bị triệt tiêu. Hắn đã không hiểu ông cũng như điều đã khiến ông quyết định hành động, những gì đã đẩy cả Mỹ Tho vào một cuộc xáo trộn thời gian ấy. Thời gian ấy, hắn chỉ là một kẻ vô ưu hoang đàng, không có gì trong tay lẫn trong tâm, và cũng chẳng hề cảm thấy cuộc đời mình có giá trị hơn là một hạt cát. Vì thế, hắn đã hoàn toàn không hiểu.

Có những con đường để trở thành kẻ mạnh. Cướp đoạt, lợi dụng, tranh đấu, lừa lọc, hay xây dựng. Hoặc tất cả các phương cách ấy.

“Hiện thời mọi vùng đều đang rối loạn, khó có thể yên trong ngày một ngày hai. Nam Chưởng có biến, ắt Chân Lạp cùng Đại Thành, Miến Điện đều tập trung chú ý về. Thêm Nam Hà xung đột với Chân Lạp, Chiêm Thành lần này, phía Bắc Chân Lạp sẽ không bao giờ yên. Nam Thủy Chân Lạp vắng vẻ hoang vu, tuy khó trồng cấy nhưng địa thế rất tốt, vào vịnh Xiêm La thì tàu thuyền vô số, con người lại phức tạp. Trong vịnh Xiêm La, không những hải tặc đông đúc, kẻ buôn lậu cũng nhiều, so với Đông Phố chịu kiểm soát của cả Nam Hà và Chân Lạp thì tự do hơn gấp bội, so với Mã Lai, Nam Đảo lại càng ít phải xung đột với dân bản xứ, ở giữa địa phận Chân Lạp và Đại Thành càng ít bị ảnh hưởng. Ta ở đó cũng không ai để ý, từ từ mà xây dựng.” Mắt hắn vẫn nhìn theo dòng nước đang chảy trôi, lớp lớp bọt hiện trắng xóa tan lấp lên nhau. “Tôi không giúp Ngô Lãng bây giờ, vì tôi không có khả năng để giúp ai cả. Cứu được một vài người sẽ khiến nhiều người hơn phải chết. Làm rối loạn vài ba việc không thể thay đổi được thế thời. Rốt cuộc, vốn không điều gì có thể thay đổi. Mấy năm trước, tôi chặn cuộc chiến ở Chân Lạp, rồi nảy sinh ra trận chiến hiện tại. Cứu một người sống, một người khác phải chết, nhiều người liên lụy. Sư phụ dạy cho tôi bao nhiêu kiến thức vốn để hiểu đời, tôi lại chẳng thông.”

Những lời nói có vẻ lạ lùng ngay trên môi hắn. Những lời nói điềm tĩnh tuần tự như dòng nước đang trôi lại khiến hắn âm thầm ngạc nhiên. Như thể hắn đã luôn chờ đợi để nói ra. Như thể cả cuộc đời hắn đã âm thầm chuẩn bị để thực hiện.

Trương lão lại lặng thinh, ông ta cần thời gian để suy nghĩ. Hắn nghe tiếng nước chảy trên ngọn thác, đổ qua vùng đất. Lòng thầm nghĩ đến mặt biển bao la, xanh đến không bến bờ.

Tất cả dòng sông đều đổ về phía biển.

 

 

 

Chú thích:

[1] Đây là tình trạng cho đến hiện tại của hầu hết các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia, Singapore… và cả Việt Nam trước 1945, những người giàu nhất đất nước, nắm nền kinh tế - và cả chính trị - đều mang gốc Hoa.

[2] Hà Tiên trong thế kỷ 17-18 là nơi rất nhiều người chạy đến nương tựa trong những cơn chính biến. Như trong những năm 1730, Chân Lạp ra lệnh thảm sát người Việt trong vùng, người sống ở Chân Lạp đều chạy về Hà Tiên. Nhà vua Chân Lạp bị Nam Hà đánh cũng chạy đến Hà Tiên tị nạn, được Mạc Thiên Tứ điều đình với Nam Hà. Mạc Thiên Tứ cũng từng cưu mang hoàng thân của Xiêm La. Những nhà truyền giáo, trong đó có cả Bá Đa Lộc, vẫn chạy về Hà Tiên tránh những đợt cấm đạo…




Hồi 61: Thời điểm
Monday, December 17, 2012 Author: Trường An

Chiều hôm ấy, thăm dò xung quanh, hắn được biết rằng sứ giả Nam Hà cũng chỉ vừa tới được vài ngày, Xapatan là một trong những người đầu tiên đến Thạch Thành. Trưởng những thôn lạc khác được sắp xếp ở thôn ngoài và nguồn Thạch Thành, duy Xapatan là họ hàng của vương Thủy Xá nên được trú trong lũy.

Sứ giả Nam Hà cũng trú tại nguồn, được vương Thủy Xá mời vào rừng săn bắn kết thân trong lúc chờ đợi người. Đến đêm nhà vua mới trở về, đem thú săn được cho thuộc hạ làm thịt. Khu Xapatan ở cách với sân chính một dãy nhà cao, khuất ánh mắt người. Thấy ồn ào, hắn liền lần đến phía lửa đang cháy sáng. Người trong lũy đang tụ họp trong sân, quanh một đống lửa lớn. Trên sập cao, vương Thủy Xá cùng những già làng, trưởng thôn lạc và khách mời ngồi nhắm rượu chờ thịt chín. Chiêng cồng được một nhóm thanh niên đem ra gõ, nam nữ cùng nhảy múa bên đống lửa. Tinh mắt còn có thể thấy những món đồ sứ men lam hẳn do Nam Hà đem đến tặng được chất chồng trên sập.

Nhà vua của Thủy Xá vẫn còn tráng kiện dù tóc đã bạc nhiều, xõa xuống vai như rơm trong ánh lửa. Choàng qua vai một tấm da hổ, trán đeo vòng vàng, hông quấn khố ngắn, tay chân người đàn ông hẳn đã qua tuổi trung niên vẫn còn rắn rỏi, bóng như gỗ gụ. Bên cạnh ông là người mang thần thái dường trái ngược, trong bộ áo ngắn nai nịt gọn ghẽ của người Nam Hà, gã trông vẫn khắc khổ với gương mặt xương xẩu, đôi mắt sâu tối, làn da tai tái xam xám.

Có lẽ đây là sứ giả của Nam Hà, hắn nghĩ thầm, lấy làm nhẹ nhõm khi không phải chạm mặt ‘người quen’ cũ. Hắn vừa dợm chân định bước lại gần hơn, làn gió đưa mùi trầm hương thoảng tới, khi tiếng cười chợt khe khẽ vang sau lưng.

“Đó là Lu của Bát tuyệt.” Vắt vẻo trên sàn của dãy nhà sau lưng hắn, cô gái quấn khăn che nửa mặt nói, chống tay nhìn về phía sập cao. Trong bóng tối, dường như nàng đã liếc mắt rất nhanh qua hắn. “Đã quên rồi phải không?”

“Chưa gặp bao giờ.” Hắn nhún vai, lùi lại vào bóng tối. Dù hắn chưa bao giờ nhìn thấy Lu, cũng chẳng chắc gã chưa từng theo dõi hắn, cẩn thận vẫn hơn. Vả lại, trong đám người nhốn nháo dưới chân Ngũ Hành sơn ngày ấy, có khi hắn đã từng gặp gã rồi quên mất.

“Lu là người chuyên giao thiệp với người Thượng, biết nhiều thứ tiếng, cũng quen với vùng Thượng như lòng bàn tay. Trước đây gã vẫn thỉnh thoảng đến Thạch Thành, cùng nhà vua quen biết, lần này lại lợi dụng để câu kéo.” Xapatan thủng thẳng nói. Hắn dựa lưng vào cột chống nhà, nheo mắt nhìn rõ diện mạo người bên cạnh vua Thủy Xá.

“Đâu phải bây giờ mới ‘lợi dụng’.” Hắn cười nhẹ. Hẳn nhiên triều đình Nam Hà phải có những thuộc hạ cùng đồng minh rải đi khắp nơi, vừa làm nhiệm vụ thăm dò vừa kết thân với các thủ lĩnh lớn nhỏ trong vùng. Vốn không chỉ ngày một ngày hai mà có thể tạo lập được mối quan hệ. Hắn chỉ không rõ rằng Nam Hà có phải đã phái một người trong nhóm hộ vệ thiết thân của chúa đến Phú Yên từ rất sớm hay chăng?

“Từ Hội An, theo chân bọn thương lái tỏa đi khắp nơi, đâu phải bây giờ mới xuất hiện.” Hiểu ý hắn, Xapatan cười như hừ khẽ trong cổ. Nàng nhịp ngón tay lên môi, dường như lại đưa mắt nhìn hắn. “Công tử có bao giờ thắc mắc tại sao có người biết tường tận về ‘Trương lão’ ngày xưa để giả ma giả quỷ không?”

“Trương lão ấy chính là kẻ anh đã giết ở đây.” Xapatan nhếch môi sau tấm khăn dày. “Lê Diệt nói, sau khi các người bị đẩy ra biển thì không còn nghe tin tức của ông ta. Có lẽ sau khi Đài Loan mất, ông ta đem theo một gia tài lớn về phương Nam cất giấu. Trương lão này có lẽ đã từng ghé lại Đông Phố xem xét tình hình người Minh Hương ở đây, nhưng thấy việc không gấp được, các người cũng phải vất vả xây làng dựng phố kiếm sống nên ông ta liền thôi, đi về Quy Ninh, Phú Yên ngồi chờ xem thế thời.

“Nhưng rồi tin đồn phong phanh về một kho báu nào đó cứ truyền ra. Có lẽ Trương lão này đã không ra tay quyết tuyệt với bọn thủy thủ, dù kẻ đào hầm hẳn đã bị chôn cùng kho báu rồi. Không ai biết kho báu ấy ở đâu, cả Linh lão ở Quy Ninh được người ta mớm cho tin tức của Trương lão cũng chỉ tìm cách bắt ông ta về. Năm xưa, Tuyết Nhi kể cho ta, cô ấy đến nơi này rồi lại chạy vào vùng Thượng gặp Trương lão cũng vì bức thư nói đến kho báu. Có kẻ đã tung tin này ra, bị anh phá đám hết.

“Nghĩ lại thì hẳn kẻ ấy cũng không biết kho báu kia ở đâu, nhưng tại sao lại dò được hành tung của Trương lão một khi ông ta đã ẩn vào rừng? Có phải ông ta đã từng đến Đông Phố, để lại tung tích của mình cho ai đó ở Đông Phố? Nhưng Hoàng Tiến chưa từng gặp ông ta, nếu không đã chẳng bị lừa. Cũng có vẻ chẳng ai ở Mỹ Tho nhận được kẻ giả mạo. Chỉ có những đầu lĩnh chủ chốt của Long Môn mới biết đến sự tồn tại của Trương lão. Suy nghĩ một tí, kẻ bán tin cho Nam Hà là ai?” Lần này, Xapatan liếc hắn một cái rất dài. “E rằng Hoàng Tiến giết Dương Ngạn Địch cũng chẳng phải chỉ vì tranh giành quyền lãnh đạo.”

“Người đã chết cả rồi, truy cứu làm gì?” Hắn lãnh đạm nói khi Xapatan ngừng lời. Nghe bên kia, tiếng cười trầm trầm lại vọng.

“Cũng phải, ngay cả kẻ giật dây tấn tuồng ấy cũng đã chết rồi, để lại những con rối còn chạy loạn.” Xapatan gật đầu. Nàng chợt nghiêng người về phía hắn, hạ giọng rất nhỏ. “Nhưng có một kẻ còn sống đấy, Mạc thiếu gia.”

“Trong vùng đất của ta, một con muỗi cũng không chui lọt.” Trong ánh lửa hắt tới, mắt Xapatan sáng lên long lanh. Nàng búng ngón tay trước mặt. “Ngày ấy thiếu gia tha cho Trương lão một mạng, nhét lão vào trong nhà của thôn bị nạn, nhân lúc chúng ta khiêng người về xếp lớp mà lật chiếu chạy vào nằm chung. Đám người bị thuốc mê mê ngẩn ngẩn trong suốt mười ngày nửa tháng, chẳng biết đấy là ai mà vạch mặt, chúng ta cũng chủ quan không về lại làng thăm dò. Thiếu gia tính như thế đấy, phải không?

“Nhưng đã bảo mũi ta rất tinh.” Xapatan hất cằm. “Đám người trong làng bị thuốc đem đi, cơ bản không ai bị thương. Chỉ cần đi ngang qua, ngửi thấy mùi máu nồng nặc, dù có bôi mặt đen sì thì cũng chẳng dễ lẫn với người Thượng được đâu.”

“Cô làm gì ông ấy?” Hắn trầm lặng hỏi, nửa ngạc nhiên nửa gờn gợn với điều Xapatan vừa nói. Hóa ra nàng đã phát hiện Trương lão từ rất sớm, nhưng vẫn giả vờ để sổng ông ta, giả vờ rằng hắn đã qua mặt được nàng. Sau khi hắn rời đi, nàng mới thuận tiện ra tay với ông ta.

Trong khi tất cả đều tin Trương lão đã chết, ngay cả hắn cũng cho rằng ông ta đã cao chạy xa bay. Trước khi hắn đi, Xapatan nói ra điều nàng nhận biết chẳng phải để cảnh cáo hay lấy lòng hắn, chỉ là loại trừ nguy cơ hắn cùng kẻ khác lại xen vào.

Xapatan cất tiếng cười mềm như lụa. Nàng vuốt lọn tóc rơi bên vai, ngẩng đầu nhìn trăng tròn trên cao.

“Anh cắt đứt cổ Trương lão, ông ta câm rồi. Sau này sức khỏe suy kiệt, không đi được nữa, cần có người dìu đỡ. Ta là người rộng lượng phóng khoáng, nuôi thêm một miệng ăn cũng chẳng có vấn đề.” Nàng vẫn thản nhiên cười nói. “Bây giờ vào núi này, nghĩ hẳn có người muốn gặp Trương lão, ta liền đưa ông ta đi theo. Trương lão cũng muốn gặp A Ban kia lắm. Nghe chuyện Tuyết Nhi ở Đông Phố, ông ấy rất giận.”

Xapatan khúc khích cười. Hắn nhìn nàng một lúc, rồi quay lưng bỏ đi. Xapatan vội đưa tay kéo áo hắn lại.

“Này, đừng đi giết người của ta!” Nàng vẫn giữ giọng nửa cợt nhạo nửa nghiêm trang. “Nếu ngươi muốn gặp Trương lão, ta dẫn đi.”

“Tôi buồn ngủ.” Hắn chỉ trăng đã lên cao, thở dài. Xapatan quắc mắt.

“Nghe nói ngươi lưu lạc bao lâu rồi mà vẫn như thế này?” Trước đây hắn cũng dùng câu ‘buồn ngủ’ để thoái thác, hắn chỉ cần quay lưng lại ngủ thì lời nàng hóa thành nước đổ lá khoai ngay lập tức.

“Ừm, nữ chúa biết mài dao chứ? Nghe nói dao càng mài thì càng sắc, đúng không?” Hắn nhẹ cau mày như ngẫm nghĩ, giật tay khỏi cái nắm của Xapatan. “Nhưng mài vào sống dao thì sao?”

Để mặc Xapatan cùng đám đông nhộn nhịp ở sân ngoài, hắn quay về phòng ngủ.

Xapatan mới là người cần nôn nóng, không phải hắn. Hắn cũng chẳng quan tâm đến Trương lão cùng kho báu của ông ta. Tất nhiên có nhiều tiền thì tốt, nhưng nếu chỉ cần có thế thì quân Minh Hương đã chẳng thất bại. Trong xứ sở mà vàng ngọc được đem lợp mái nhà như phương Nam này, cả một thuyền vàng ngọc cũng chẳng thấm vào đâu.

Trực giác mách bảo hắn hãy ở lại nơi này một thời gian, xem sự tình diễn tiến đến đâu. Hắn muốn giành lại Ngô Lãng cũng phải phụ thuộc vào thời thế. Nếu chẳng may mọi việc diễn biến theo chiều mà Lê Diệt mong muốn, cuộc chiến này sẽ lan rộng, chẳng ai có thể dập tắt được. Đến lúc ấy, hắn chẳng còn có thể làm gì.

Vẫn có thể, một giọng nói bỗng thì thầm trong tiềm thức hắn. Đi theo Ngô Lãng, bảo toàn cho y, cùng y chinh phục và đánh bại mọi kẻ thù – như ngày xưa hắn đã từng. Ngô Lãng là kẻ đầy tham vọng, xưa đến nay vẫn như thế. Nhưng y có sai không? Trong vùng đất này, nơi những kẻ xa lạ nhỏ yếu dần lớn mạnh, chinh phạt và chiếm giữ các vương quốc, đánh lẫn nhau. Trong thời đại này, mọi cuộc chiến đều vĩ đại và mù lòa, đều giản đơn cùng phức tạp đến mức không ai có thể phân định ra ranh giới. Trong thế giới này, mọi kẻ đều phải vật vã tìm cách bảo toàn cho bản thân mình, riêng bản thân mình.

Ngô Lãng tham vọng và rạch ròi. Y luôn hiểu, thứ duy nhất có thể bảo toàn cho những gì y muốn bảo vệ là sức mạnh, quyền lực là sức mạnh. Khi đã mất đi mọi thứ, y càng muốn xây dựng lại thành trì của mình kiên cố và vững chắc hơn. Khi đã mất đi mọi thứ, quyền lực trở thành sự ám ảnh trong y. Trong cuộc sống bị dồn đuổi đến đường cùng hết lần này tới lần khác, y càng muốn phản kháng, chống cự và hủy diệt. Hủy diệt ngay cả bản thân mình, đốt thành ngọn lửa thiêu cháy cả thế gian.

Trong khi đó, hắn lựa chọn dửng dưng và lẩn tránh. Những giấc mơ tan vỡ rất nhanh như bọt biển, nỗi hoài nghi chán chường lớn dần theo tháng năm, cõi lòng trống hoang như bầu trời trên đại dương vô tận vàn ngút gió. Muốn yêu chẳng được, muốn giữ chẳng xong, thấy đời mình bập bềnh trôi như con sứa theo mùa nước.

Bây giờ, hắn đi theo Ngô Lãng, biết đâu lại làm được điều có ích duy nhất trong đời cho cả mình lẫn người?

Trăng suông chiếu qua khung cửa mở, bóng lá chập chờn lay trên sàn. Đám đông vẫn huyên náo hát ca. Gió lạnh trong núi nổi, hắn trở dậy định đóng cửa. Đưa mắt nhìn lại, hắn thấy bóng Xapatan vẫn ngồi trên sàn dãy nhà tối. Nàng đăm đăm nhìn về bóng lửa trong sân, đôi mắt sâu thẳm chẳng biết đang toan tính điều gì.

Bóng tối cùng chiếc khăn rộng đã che khuất hầu hết dáng hình Xapatan. Hắn chỉ chợt nhớ lại về ý nghĩ ban chiều, nữ chúa này quả thật vô cùng giống Như Yên. Nàng ta còn che giấu bao nhiêu điều khác nữa, còn định làm gì?

Nhìn theo ánh mắt Xapatan, hắn chợt nghĩ ra: Xapatan hẳn nhiên không hề muốn mất đi chỗ dựa Thủy Xá cùng Hỏa Xá. Nhưng ngay cả nhà vua Thủy, Hỏa Xá cũng không thể toàn quyền quyết định nếu không được số đông trưởng của buôn tộc đồng thuận. Xapatan không có tài lực, vật lực cùng sức mạnh để thuyết phục người như Nam Hà, khống chế được nhà vua Thủy Xá cũng vô ích.

Nhưng có bao giờ thiếu cách để khuấy động một cuộc chiến tranh? Hắn nghĩ thầm, thấy Xapatan đứng lên liền trở vào lấy áo khoác, mang theo cung kiếm mà nhảy cửa sổ bên đi ra. Lẩn vào bóng tối của những dãy nhà để tránh Xapatan để ý, hắn nhảy lên một đoạn lũy thấp liền với chòi voi ngựa thông ra bên ngoài.

Trăng sáng rưới ánh vàng lên rừng sâu, tản mát trên muôn tán lá rung rinh lay động. Rừng dày cây cao, bóng tối bị nuốt chửng dưới những tán lá đan kín, lòng rừng đen kịt như mực. Ếch nhái kêu rỉ rích giữa mùa hạn. Nguồn Thạch Thành dường cũng đã chìm vào giấc ngủ, không còn một bóng khói giữa trời. Con ong mật vù vù bay qua hắn, thanh âm trở nên đặc biệt rõ ràng trong đêm.

Trong lúc nghiêng đầu tránh con ong, hắn chợt thấy một ánh bạc mỏng manh loáng thoáng giữa rừng. Lẫn giữa biển lá cỏ sáng màu trăng, tia bạc này mỏng đến mức hắn thoáng tưởng mình lầm với cánh của con ong.

Tia sáng phát ra từ sườn đồi đối diện lũy. Hắn quan sát địa hình xung quanh một lúc nữa rồi nhảy trở xuống. Nhìn qua dãy nhà bên, bóng Xapatan đã biến mất. Hắn lại men theo bóng nhà cao mà lần về gần sân chính.

Buổi tiệc đêm vẫn đang náo nhiệt. Xapatan đã bước lên sập, cười nói cùng vương Thủy Xá và sứ giả Nam Hà. Con heo rừng nướng trên lửa đã chín, được hạ xuống xẻ thịt, cái đầu được để lên mâm bạc dâng cho nhà vua. Vương Thủy Xá cầm dao đưa cho Lu theo lối nhường khách lịch sự của người nơi đây. Lu cẩn thận cắt thủ heo ra từng miếng nhỏ, chia ra đĩa cho hai người chủ. Ăn hết đĩa thịt, vương Thủy Xá gõ cán dao lên đĩa, ê a hát. Người quanh sân vỗ tay hát theo nhà vua, lửa rừng rực cháy sáng.

Sự việc xảy ra sau đó nhanh đến mức không ai kịp phản ứng.

Đang cao giọng hát, vương Thủy Xá bất chợt ngẩng đầu, nấc nghẹn trong cổ. Ôm bụng đau đớn, nhà vua ngã ra sau, rơi khỏi sập. Bên cạnh, Xapatan cũng nhăn mặt, ôm bụng kêu lên.

Thấy vương Thủy Xá ngã, Lu vội nhổm dậy định nắm ông lại. Cánh tay anh ta vừa giơ ra, dao trong tay Xapatan đã nhắm thẳng mặt Lu đâm tới. Vội vàng lăn sang bên né tránh, Lu chới với rơi xuống đất. Xapatan hét lên một câu bằng thứ tiếng mà hắn không hiểu, đám đông đang đờ người vì kinh ngạc như chợt bừng tỉnh, rút đao kiếm chạy tới phía sứ giả Nam Hà. Vừa đặt chân xuống đất, chới với lấy lại thăng bằng, Lu thấy tình hình bất lợi liền nhún chân nhảy ra xa, rút gươm đánh dạt đám người xông tới mà chạy.

Khắp bốn phía lũy đất, binh lính nghe ồn ào liền rùng rùng chạy đến. Chạy đến giữa đường, Lu đã bị bao vây lớp lớp. Mang theo những khiên mộc lớn làm lá chắn, lính Thủy Xá bọc Lu vào giữa, giương giáo dài đâm tới. Hết đường chạy, Lu quay lại nói lớn với Xapatan. Trên đài cao, nàng nữ chúa chỉ quắc mắt mắng lại, quát người nhanh đâm chết sứ giả Nam Hà.

Thình lình, dãy nhà cạnh đám đông chợt nghiêng đổ. Chân gỗ gãy, hất căn nhà lớn nhất đổ xuống, kéo theo những căn bên cạnh. Lính Thủy Xá vội nhốn nháo bỏ chạy. Lửa thắp trên đuốc rơi xuống, bắt vào rơm gỗ, cháy lan theo dãy nhà đổ. Nhân náo loạn, Lu chạy thẳng về phía dãy nhà đang cháy, nhảy qua lửa mà thoát khỏi toán lính bao vây.

Bên kia đám cháy, một bóng đen bỗng nhiên xuất hiện, kéo tay Lu chạy về phía tường lũy. Hai người nhảy qua đoạn lũy thấp về phía chuồng voi ngựa. Nghe tiếng voi ré ngựa kêu inh ỏi khi cửa chuồng bị mở. Hai người vừa tẩu thoát lấy ngựa chạy về phía rừng.

Trong lũy, còn chưa hết bàng hoàng, người người chợt nghe tiếng động xôn xao. Trên sập, Xapatan ngẩng phắt đầu nhìn ánh lửa cháy sáng bên ngoài. Lính canh vội vàng đánh chiêng báo động.

“Phân người đi canh lũy!” Thấy Lê Diệt vừa tới, Xapatan vội ra lệnh. Nàng liếc qua thuộc hạ của nhà vua Thủy Xá, quắc mắt, nói bằng tiếng Thượng. “Chúng vừa ám hại đức vua vừa cho lính tới tấn công, định tiêu diệt tất cả chúng ta!”

Nghe thế, sự hoảng hốt biến thành phẫn nộ, tất cả lớn bé gái trai trong lũy liền lấy vũ khí, đốt sáng lửa thủ lũy. Tên lửa bay như mưa, đá buộc nùi lửa lăn tròn về phía toán người thình lình xuất hiện bên ngoài. Nghe động, quân canh từ xung quanh đổ về, lùa đám voi ngựa vừa xổng chuồng quay trở lại tấn công toán người lạ. Nép vào bóng tối của rừng, toán tấn công thoắt ẩn thoắt hiện, tìm cách đột nhập vào lũy. Đến khi trời tảng sáng, kẻ bên ngoài mới rút đi, để lại khoảng đất tan hoang quanh lũy sau cuộc giao tranh.

Vương Thủy Xá đã được đỡ về chữa trị. Thầy mo được gọi tới trích máu và cho nhà vua uống lá thuốc tiêu độc. Tuy chưa mất mạng, nhà vua Thủy Xá không tỉnh lại.

Người từ nguồn Thuận Thành cũng đã đổ về hỏi han thăm dò. Là họ hàng của nhà vua, Xapatan cùng những thuộc hạ, thân thích của vua Thủy Xá phụ trách trông coi trong ngoài, tiếp đón các trưởng buôn tộc. Đang gọi thuộc hạ đi kiểm kê người trong lũy, Xapatan chợt im lặng, dường giật mình khi thấy một bóng người xuất hiện bên kia khoảng sân.

Tựa vai dựa vào cột chống một dãy nhà, sau dãy người đông đúc xao xác, hắn quan sát họ bằng đôi mắt nửa tò mò nửa dửng dưng. Hắn không quen thuộc với thứ ngôn ngữ đang được dùng nơi đây, càng lạ lẫm với những đoàn người từ sâu trong núi kéo tới. Có vài đoàn thương buôn từ Thạch Thành đến hỏi thăm, nhưng đều bị chặn ở cửa. Lính thủ lũy được bổ sung thêm lớp trong lớp ngoài. Bóng của đàn voi gần như che cả mảnh đất ngoài lũy. Sự phòng thủ khiến cho cảnh hỗn độn bên trong lũy càng có vẻ nghiêm trọng hơn. Tất cả khuôn mặt đều in hằn nỗi giận dữ xen lẫn bàng hoàng, có vài ánh mắt trao đổi ngấm ngầm, nhiều cái lắc đầu phân vân. Trên ngôi nhà cao của đức vua, những trưởng thôn lạc được mời đến tập hợp, vừa đưa mắt xem xét vừa trò chuyện như cãi nhau.

Dàn xếp xong công việc, Xapatan đi vòng qua dãy nhà tới nơi hắn đang đứng. Hắn mỉm cười trước ánh mắt nàng.

“Đêm qua thật ồn ào.” Hắn cười nói, bất chấp đôi mắt Xapatan tối đi.

“Anh vẫn còn ở đây?” Tuy vậy, nụ cười của nàng vẫn mềm mại. Nhìn lại hắn từ đầu đến chân, Xapatan nhướn mày. “Đêm qua anh ở đâu?”

“Nơi thì cháy, nơi thì đánh nhau, tôi tìm chỗ nào an toàn nhất mà chạy vào.” Hắn nhún vai, chỉ về phía gian nhà lớn nhất. “Còn nơi nào an toàn hơn chỗ của vua?”

Đêm qua hỗn loạn, người nhao nhác chạy quanh, hẳn nhiên ngôi nhà của vua Thủy Xá lại là nơi im ắng nhất. Đó cũng là nơi cấm địa không mấy kẻ được bước vào. Xapatan có muốn cũng chẳng tìm được ai hỏi han bây giờ.

“Anh có thấy kẻ chạy vào giúp sứ giả Nam Hà trốn đi không?” Gương mặt Xapatan lạnh lùng như băng, nàng không hỏi thẳng hắn nhưng giọng nói đầy đe dọa. Hắn lãnh đạm đưa mắt nhìn lại. Hắn chưa trả lời, Xapatan đã nói tiếp ngay. “Dù chỉ có một người, bốn chân cột chống của nhà bị chặt gãy, kẻ nào có thân thủ tốt đến thế?”

“Lu là một người trong Bát tuyệt, cao thủ của Nam Hà vốn chẳng thiếu đâu.” Hắn gật gù, dùng giọng trung dung nhất mà bàn luận. “Dù không có thân thủ tốt, người Nam Hà vẫn có một thứ vũ khí là phi đao. Ném một vòng cũng đủ lia đứt bốn chân cột.”

Mày Xapatan cau chặt, nàng mím môi im lặng một lúc, rồi chợt cười.

“Anh là người rảnh rỗi nhất ở đây, vậy thì giúp tôi một việc được không?” Nàng gật gật đầu, tiếng cười lành lạnh. Thấy hắn hơi rùn vai lùi lại, nàng hạ giọng. “Việc này quan trọng đến sự sống chết của nhiều người. Đêm qua, nhà vua bị hạ độc, Lu trốn đi, người lạ tấn công vào – Mọi người đều cho rằng Nam Hà ra tay ám hại, mượn đường chỉ là cớ mà muốn chiếm đất mới là ý chính. Tuy rằng Nam Hà có định như thế thật thì ta cũng chẳng biết làm cách nào ngoài dùng toàn lực chống đỡ, nhưng nếu Lu có mệnh hệ nào bên ngoài thì ta lại mang tội, mà Nam Hà càng có cớ bảo ta giết hại sứ giả. Ta không đánh người thì người cũng đánh ta trong khi còn chưa biết sự việc rõ ràng thế nào. Anh thử đi tìm Lu xem sao, nếu cần thì ta cho người đi cùng.”

Hắn đưa mắt nhìn Xapatan, cuối cùng nhếch môi, gật đầu.

“Thế nữ chúa trả công cho tôi thế nào?” Cũng chẳng đợi Xapatan phản ứng, hắn nói ngay. “Hay cho tôi gặp Trương lão đi vậy?”

Nàng nữ chúa này đang nghi ngờ hắn, không tìm được cớ để đuổi hắn đi, cho hắn ở lại thì sợ sinh sự nên mới tìm ra cách ‘nhờ vả’. Trong lúc nàng ta vội vàng khẩn trương, hắn có thể ra điều kiện.

Trên sới bạc, kẻ chiến thắng là người biết dùng quân bài đúng lúc.





Copyright © Trường An. All rights reserved.