Solitude

Cảnh như thị, nhân như thị

Hồi 13: Phú Yên
Sunday, March 11, 2012 Author: Trường An

Năm Quý Dậu, tháng giêng, giao chiến tại Bình Khang, quân Nam Hà do Thống binh Nguyễn Hữu Kính chỉ huy đánh lui quân Chiêm Thành của vua Bà Tranh. Sau nửa năm bao vây dinh Bình Khang, Chiêm Thành phải lui quân về Diên Ninh. Thừa thắng, Thống binh Nguyễn Hữu Kính đưa quân đuổi theo nhà vua Bà Tranh từ Bình Khang đến Kamran[1], khiến kinh đô Chiêm Thành Bal Canar tại Parik[2] chấn động.

Chỉ sau bốn tháng bao vây Bình Khang, quân đội Chiêm Thành lại bị phá vỡ.

“Không ngạc nhiên, hả?” Ngẩng đầu nhìn tảng đá lớn trên đỉnh núi phía xa, người thanh niên áo trắng hỏi như cười. Tấn Đà Lãng[3] nằm cạnh biển, là nơi đặt thủ sở của quân Nguyễn tại Phú Yên, thuyền bè neo đậu đông đúc, thuyền quân lẫn với thuyền buôn. Theo dòng Đà Rằng đi xuống, thuyền bè từ vùng Thượng về gặp gỡ với các tàu buôn từ biển vào cửa Đà Lãng. Từ phía Bắc bờ sông, thành Hồ cổ của Chiêm quốc[4] nay trở thành nơi đóng quân của Nam Hà, mấy chiếc thuyền nhỏ của lính coi sóc cửa biển vẫn lại qua.

Chiêm Thành qua đây sẽ phải bại binh mất nước; An Nam qua đây binh tướng chết tác tan. Hai câu này mới đúng có một vế.” Nhìn theo ánh mắt người thanh niên, kẻ có bộ dạng lực lưỡng gần như hoang dã cười, mắt nheo lại thành một cái nhìn đầy thâm ý. “Nghe ý câu này thì chẳng giống như nhà vua An Nam làm cho lắm.[5] Có kẻ xâm chiếm nào lại tự đi giới hạn lấy chính mình?”

“Có rất nhiều chuyện hoang đường ở nơi đây.” Người thanh niên nghe vậy chỉ cười. “Kể cả nếu như có kẻ sau này khắc thêm lên một câu sau đó, cũng chẳng phải là chuyện lạ.”

“Mới hơn hai trăm năm mà đá đã mòn đến không đọc nổi, hay lại bảo là có kẻ chạy lên mài?” Bên kia, Quảng Phú nhếch môi, vẫn khinh bạc liếc mắt qua tảng đá trên đỉnh núi cao. “Hoặc là vận trời chưa đến lúc ứng nghiệm.”

“Ít nhất một nửa đã thấy rồi.” Với thái độ của Quảng Phú, Hoắc Phương cũng chỉ nhún vai. “Lần này, e rằng vua Bà Tranh có đem cả Panduranga cầu hòa cũng không được nữa.”

“Không nên chọc giận một đứa nhóc con.” Thở phì qua đôi môi dày, Quảng Phú nói bất chấp ánh mắt cảnh cáo của Hoắc Phương. “Với một đứa nhóc con, chiến công này quả là đáng để vỗ ngực đấy, dù nó chẳng phải ra trận. Lần này, e là đến cả Panduranga, Chiêm Thành cũng không giữ được.”

“Nói thế thì lại e hơi sớm rồi.” Hoắc Phương thu hồi ánh mắt nhìn xuống chén trà, lạnh nhạt cười. Y không định giải thích cho kẻ thất phu bên kia bàn về những gì mình đang nghĩ. Gã dường như cũng chẳng quan tâm.

Chiêm Thành đã chuẩn bị hơn một năm, hay lâu hơn, cho cuộc tấn công này. Nhưng họ thậm chí không đột phá qua được dinh Bình Khang, bị đẩy lùi ngay tức khắc với cuộc phản công của viên Thống binh con trai Chiêu Vũ hầu. Họ bao giờ cũng lựa chọn không sai thời điểm, nhưng lại có kết quả hoàn toàn sai lầm. Nhưng lần trước, vua Bà Tấm còn có thể chiếm Phú Yên, chỉ bại khi quân Nguyễn bọc hậu đánh ngược từ Aya Tră[6] lên mà đột kích. Lần này, Chiêm quốc không giành được bất kỳ lợi thế nào, có vẻ chẳng phải chỉ vì quân Nguyễn quá mạnh. Vị chúa trẻ đã sớm liệu định tình thế mà phái Chưởng cơ Phò mã của mình tới phòng thủ, nhưng quân đội của Chiêm quốc hình như không có được sự ứng phó tương đồng?

Lần này, đến cả Panduranga cũng không giữ được. Quảng Phú nói, gã dường như cũng đã nhận ra. Vị chúa trẻ đã liệu định tình thế này từ lâu, Nam Hà đã phản ứng tốt hơn, đối phó nhịp nhàng và nhuận sắc trên từng động thái tranh chấp. Mọi điều đã được liệu định từ lâu – Có thể, ngay cả chính cuộc tấn công của Chiêm quốc. Sự phản ứng của Chiêm Thành đã được chờ đợi, từ rất lâu.

Và người ta cần một cái cớ, một lý do, chỉ có thế.

Lần này nhà vua Chiêm Thành còn gì để có thể trao đổi cho tự do và mạng sống của mình? Ngoài mảnh đất duy nhất Chiêm quốc còn giữ được? Mọi thứ, hầu như, đã đi đến sẵn một kết quả rõ ràng mà ai cũng có thể mường tượng.

Nhưng y – như tất cả những kẻ thông thuộc vùng đất này – sẽ không cho rằng mọi điều sẽ đơn giản như thế.

Ngay cả kẻ đang ngồi đối diện với y, bất chấp vẻ ngoài thô lỗ và đơn giản gần như cục súc võ biền, cũng sẽ không cho rằng như thế. Sự xuất hiện của gã ở đây đã là chứng minh.

“Với tình hình chiến trận thuận lợi, có vẻ chuyến hàng của chúng ta đến vùng Thượng sẽ không cần đợi lâu thêm.” Y chuyển hướng câu chuyện, ra dấu về phía đoàn thuyền đậu trong bến. Quảng Phú chẳng động một mi mắt về hướng y vừa chỉ. Gã vẫn không thay đổi kế hoạch chuyển hàng ngay cả khi tin báo từ Bình Khang chuyển về - mà y biết rõ, chuyến hàng này được gửi đến cho ai.

Mà cũng có thể, kẻ ấy lại không phải là người y đã nghĩ.

Ở một địa vị như hiện tại, y có khả năng biết – hoặc thấu hiểu – một vài điều mà kẻ bên ngoài khó lòng thấu rõ. Kẻ bên ngoài, của cả hai phía, khó lòng thấu rõ hết đối phương.

Cuộc chiến này không phải chỉ mới được tiến hành, cũng chẳng phải chỉ là kết quả của xung đột hiện tại. Mọi sự bắt đầu từ lâu, rất lâu, cái kết quả này, ngay cả sự thắng thế của quân đội Nam Hà trên chiến trường bây giờ. Triều đình Chiêm Thành, từ cái ngày bị đẩy về bờ Tây sông Phan Rang, đã bị chia cắt và phân tán – chia cắt và phân tán hơn cả mức bình thường của nó. Với sự tràn lấn dần dần của cả quân và dân Nam Hà xuống phương Nam, những vùng đất còn lại của Chiêm Thành cùng đồng minh và các vị vương đã phân tán như lá cỏ trong gió. Bốn mươi năm sau khi mất miền Đông Phan Rang, nhà vua Chiêm quốc chẳng thể nào lấy lại được những gì từng có trên vùng đất cũ. Kể cả trong tình trạng rối ren hiện tại, ngài ta cũng đã chẳng thể nào tận dụng được thời cơ.

Chiêm quốc không thể tận dụng được thời cơ, khi mối liên hệ với Chân Lạp đã đột ngột bị cắt đứt. Nhị vương Chân Lạp qua đời, để người con trai quay trở về Oudong nhận vị Đại vương làm cha vợ. Hai vùng Lục Thủy Chân Lạp thế là đã được sát nhập trên danh nghĩa, bất chấp quân Nam Hà cùng nhóm người Đường ở Trấn Biên và Mỹ Tho. Đạt được mục đích của mình, vị Đại vương Chân Lạp đã không còn muốn phiêu lưu thêm với vận may, rút lui khỏi kế hoạch liên kết cùng Chiêm Thành. Vì thế, nhà vua Bà Tranh đã ra quân chỉ có một mình, thậm chí không có được sự đồng tình của một số người trong triều đình.

Liều lĩnh, phiêu lưu, vội vã – chẳng cần ở trong triều đình ấy, y cũng có thể mường tượng được. Chân Lạp rút lui khỏi cuộc chiến, đồng nghĩa với Đại Thành cũng sẽ chẳng nhúng tay vào, Chiêm Thành chỉ có thể trông chờ vào lực lượng đồng minh vùng Thượng. Nhưng đội quân thô sơ của núi rừng có thể đối đầu với súng mạnh thuyền lớn của quân đội Nam Hà trong thành lũy và các đụn cát lòng sông mênh mông ven biển? Kết quả đã được trả lời trong hàng trăm năm. Nếu muốn tìm kiếm một sự thành công, Chiêm Thành cần nhiều hơn thứ gọi là vận may và cơ hội. Nhiều hơn vận may và cơ hội – và một khi không có đủ, phải tạo ra nó.

Đó là điều một số kẻ sẽ nghĩ, sẽ suy tính và cân nhắc. Những kẻ đã chọn đứng bên lề cuộc chiến này, nhìn ngắm nó, chờ đợi kết quả của nó. Những kẻ vẫn còn đang chờ đợi, sắp đặt và lựa chọn, tìm cách tự tạo ra ván cờ số phận của riêng mình. Những kẻ đang kết nối mọi mối dây trên vùng đất này, tạo thành những cái bẫy giăng giăng.

Quảng Phú không thay đổi lịch trình, y cũng chẳng ngạc nhiên về điều đó.

Chiến tranh, nói cho cùng, chỉ là chuyện của hai đội quân.

Uống hết bình trà, Quảng Phú không nói không rằng chống tay đứng dậy, xuống lầu đi về sau nhà. Ngồi lại một mình, Hoắc Phương nheo mắt nhìn bóng nắng đổ xuống nghiêng qua hàng hiên. Bọn y đã đến để đợi một vị khách từ sớm, nhưng theo tin báo, thuyền của họ từ Phú Yên về trễ. Càng đợi lâu, Quảng Phú càng nóng nảy cộc cằn, đến mức y đã thoáng ý định bảo gã lấy một số thuyền đi trước. Y vốn không định đi xa hơn địa phận Phú Yên, nhưng ‘công việc’ yêu cầu y phải đến gặp gỡ vài người. Nói cho cùng, dù nhận lời Như Yên, y vẫn luôn là kẻ mang nhiều mối quan hệ hai mang – Đến mức, khi chưa đến thời điểm phải quyết định, y sẽ không dễ dàng bỏ xuống bất cứ ai. Y biết việc Linh lão đầu đang làm, nhưng điều đó lại cho y một lý do hợp lý , giải thích cho sự xuất hiện của y nơi này hiện tại.

Kẻ đã hẹn y ở bến cảng này, cũng là một trong số người ấy.

Y nheo mắt nhìn theo đường nắng chiếu tới tảng đá lớn trên đỉnh núi phía xa. Vượt qua nơi ấy sẽ là ranh giới của Chiêm Thành – Ranh giới cổ của Chiêm Thành. Cái ranh giới ấy sẽ bị xóa đi, sớm hoặc muộn. Sớm hay muộn. Y không hẳn tin vào những lời sấm truyền hay truyền thuyết cổ xưa mang nhiều sắc thái hoang đường, chỉ là, có những điều chỉ có thể xảy ra – theo cách này hay cách khác – có những điều phải xảy ra, có những thứ không thể dung nạp được nhau, không có điểm hòa hoãn hay khoan nhượng. Nhà vua Bà Tranh đã châm ngòi cho cuộc chiến, đã bước qua ranh giới – đồng thời, đẩy tất cả mọi người mọi kẻ qua ranh giới. Có những kẻ đã nhận ra, đã kịp đứng lùi về phía sau, nhưng điều đó cũng chẳng cản được cái kết quả đang xảy đến.

Ngay cả vị chúa trẻ và triều đình đất Phú Xuân của cậu ta cũng sẽ không có lựa chọn – Cho hậu quả của những điều đang xảy ra.

Nắng quái chiếu chênh chếch mé Tây chợt nhạt đi khi có đám mây lớn trôi qua bầu trời. Cúi đầu uống cạn trà trong chén, khi ngẩng đầu lên, Hoắc Phương hơi giật mình nhận ra có người đứng bên cạnh. Một cô gái mặc trang phục Chiêm Thành, mặt quấn kín trong tấm khăn lớn sặc sỡ, chỉ rõ đôi mắt hạnh đào đen nhánh nhìn xuống y. Thấy y ngẩng lên, cô gái khẽ gật đầu, giọng nói phát ra sau tấm khăn trầm trầm.

“Hoắc bang chủ.” Cô ta nói như một lời chào. Hoắc Phương lấy lại vẻ bình thản, ngồi thẳng lưng lên, gật đầu đáp lễ, nhướng mày như chờ đợi cô gái nói tiếp.

Cô gái này đã đến cạnh bên mà y không hề hay biết, Hoắc Phương tự nhắc thầm. Tuy sức khỏe hiện tại không tốt, hầu như võ công không còn, giác quan của y cũng không sa sút đến mức ấy. Kẻ có thân thủ thế này, hoàn toàn không tầm thường.

Như thể nhận ra sự cảnh giác trong dáng vẻ, ánh mắt y, mắt cô gái nheo lại như cười.

“Chủ nhân của tôi có hẹn với Hoắc bang chủ hôm nay, người cũng vừa tới.” Vừa nói, cô gái vừa ra dấu chỉ xuống bến thuyền, lấy trong túi đeo ra một tấm thẻ bài Thanh Hải bang mà y đã giao cho người liên lạc. Nhận được tín vật, y gật đầu đứng dậy.

“Chủ nhân của cô ở đâu?” Y hỏi, thoáng có ý nghĩ chờ đợi Quảng Phú trở về. Nhưng cô gái đã quay lưng đi mà không có ý định chờ y. Hoắc Phương chỉ kịp nhắn với người chủ quán báo cho đồng bạn.

Bước chân cô gái thoăn thoắt, nhanh đến mức hơi lạ lùng, Hoắc Phương – dù y không muốn thừa nhận – cũng khó khăn để bắt kịp được cô qua con đường dọc bờ sông đông chen người. May mắn cho y, cô gái không đi xa. Cô dẫn y lên một chiếc thuyền nhỏ đậu bên mé vụng. Trên thuyền có mấy người phu đang khuân vài kiện hàng nhỏ xuống, nhưng trong thuyền hầu như trống rỗng. Khoang thuyền trải chiếu, bài trí đúng theo lối người Chiêm. Người phụ nữ ngồi trong thuyền cũng quấn kín khăn đúng theo lối của cô gái đã dẫn y tới. Khi y vào trong khoang, cô gái dẫn đường vào theo, đóng cửa khoang mà ngồi lại bên cửa.

Khi người phụ nữ ngẩng đầu nhìn lên, Hoắc Phương không khó khăn để nhận ra ánh mắt người quen cũ.

“Lê… phu nhân, lâu không gặp.” Y hơi cúi mình trước khi ngồi xuống phía đối diện thiếu phụ nọ. Lê phu nhân, Lê Anh, quả thật đã lâu y không gặp bà – Từ ngày sự biến xảy ra ở Phú Xuân.

Lê Anh chỉ nhìn y, đưa tay kéo tấm khăn che mặt xuống. Hai vết sẹo, dù đã được chăm sóc cẩn thận, vẫn còn đường nét mờ mờ trên má bà. Có thể vì vết sẹo, có thể vì tuổi tác, bà đã già đi nhanh chóng trong những năm tháng này. Đôi mắt đen tinh anh đã như bị một lớp sương mờ bao phủ, gò má cao hẳn lên, khóe mắt hằn nếp khi bà nheo mắt nhìn y.

Bà trông già hơn cả cái tuổi vừa qua tứ tuần của mình.

“Oc-nha That nhờ ta tới, ông ấy không tiện đến đây.” Hoắc Phương vừa yên vị, Lê Anh đã nói ngay, không để tâm đến lời chào của y. “Đức vua hiện đang bị bao vây ở Kamran.”

“Nghe nói tình hình rất nguy cấp.” Hoắc Phương gật đầu, ra vẻ quan tâm mà thận trọng ướm lời. Bên kia, y nghe như Lê Anh cười hắt ra trong cổ dù khuôn miệng không hề cử động.

“Nam Hà dùng thủy quân vòng qua vịnh Kamran bọc hậu, quân Đức vua không còn đường lui, quân tiếp viện cũng không thể tới.” Khi nói, giọng bà lại rất trầm lặng, gần như lạnh lùng. Hoắc Phương im lặng gật đầu. Hai vị dũng tướng của Nam Hà đều đã được phái tới chiến trường, kẻ giữ Bình Khang người bọc Cam Ranh, tạo thành gọng kềm siết nát quân của vua Bà Tranh. Mấy tháng chuẩn bị, Nam Hà đã chờ đợi quân Chiêm Thành tạo thành thói quen chiếm cứ các vùng đất vừa lấy lại, tập trung số quân lớn về - Và phản công bằng cả hai cánh quân Nam Bắc. Thủy quân của Nam Hà luôn là một sức mạnh đáng nể, làm mũi dùi tấn công cho cả đội quân ở vùng đất ven bờ biển này[7]. “Nếu Đức vua lọt vào tay Nam Hà, sẽ rất bất lợi.”

“Đức vua không phải là người dễ khuất phục.” Hoắc Phương nói, như một lời nhận xét hoàn toàn công tâm. Nhà vua Bà Tranh, người đã nung nấu ý định báo phục bao nhiêu năm trời, bằng bao nhiêu phương cách, hẳn nhiên không phải là người có thể dâng đất đai của mình để cầu mạng sống như người tiền nhiệm. Vả lại, Chiêm quốc không còn bao nhiêu đất đai nữa để mất. Từ Bình Khang đến Phan Rí chỉ còn lại một khoảng đất không bằng sải tay. Nếu mất, Chiêm quốc sẽ mất tất cả.

Lê Anh lại phát ra một tiếng giống như tiếng cười, mà cũng gần như thở dài.

“Đức vua còn có thể quyết định sao?” Bà hỏi, nhưng nghe như một lời than nhẹ. Hoắc Phương hơi ngẩng đầu, thấy ánh mắt bà u ám một đám mây giông. Khi bà nói, y nghe rõ tiếng răng hơi nghiến vào nhau. “Mất Đức vua hay mất cả đất nước, phải chọn một trong hai, thay vì mất cả hai.”

“Ai sẽ thay thế ngài?” Sau một hồi im lặng, Hoắc Phương chậm rãi lên tiếng. Hóa ra đây là lý do Oc-nha That không thể rời Phan Rí, y thầm nghĩ. Ông ta phải ở lại, để ứng phó với sự biến ở ngay triều đình Chiêm quốc.

Nhà vua Bà Tranh thua trận, lọt vào tay Nam Hà – Và Nam Hà sẽ toàn quyền quyết định sự sống chết của tù nhân, điều đã dẫn đến việc nhà vua Bà Tấm phải dâng hai phủ Diên Ninh và Thái Khang cho chúa Nguyễn để đổi lấy mạng sống. Nhưng lần này, Chiêm Thành không còn gì nữa để mất. Và để bảo toàn lấy Panduranga, triều đình Parik sẽ buộc phải lựa chọn. Ví dụ như, hy sinh nhà vua.

Đổ tất cả ‘tội lỗi’ cho nhà vua đã cầm quân ra trận, thành lập một triều đình mới trước khi địch thủ kịp nắm lấy con tin. Vô hiệu hóa quyền lực của nhà vua ‘đã bị phế truất’ làm tù binh trong tay kẻ thù. Hạ đến mức thấp nhất cái giá phải trả cho chiến bại.

Nhưng y không nghĩ Oc-nha That lại có khả năng làm điều đó, Hoắc Phương tự nhắc mình. Quen biết với ông ta bấy lâu, y lại chẳng rõ lòng trung thành của vị Hữu trà viên này dành cho nhà vua và hoàng tộc? Theo tính cách của Oc-nha That, ông ta sẽ muốn liều chết giữ Parik để chống quân Nguyễn hơn là đưa nhà vua đầu hàng.

“Nghĩ rằng Nam Hà lại chẳng có cách đối phó sao?” Lần này, Lê Anh nhếch mép. Vết sẹo xô lệch khiến nụ cười của bà thoáng vẻ khắc nghiệt đáng sợ. “Khi Nguyễn Hoàng đến Thuận Hóa, đã chọn cách gì để đánh Phú Yên?”

“Cống nộp.” Hoắc Phương vẫn dùng giọng trung tính nhất để trả lời. Ép lân bang phiên thuộc nộp số cống vật nhiều hơn hẳn mức mà họ có thể giao – hay muốn giao, và lấy đó làm cớ để khởi binh. Một phương cách được Nam Hà sử dụng thường xuyên từ mảnh đất Panduranga đến chiến trường Chân Lạp.

Một khi đã có ý định, hoàn toàn không khó để tìm ra được một nguyên do.

“Po Chongchan là kẻ có khả năng lên nắm quyền.” Lê Anh cau mày trước thái độ của y. Bà không thích bàn chuyện với tên gian thương hai mặt này, kẻ rõ rành rành đang có mối liên hệ mật thiết với triều đình Nam Hà. Nhưng đây cũng không phải là việc bí mật, ít nhất, cho đến lúc bà nói ra. Không phải là việc bí mật, khi Nam Hà có lẽ, hay rất sớm, cũng sẽ biết.

“Cũng không lạ.” Hơi nghiêng đầu, Hoắc Phương vẫn bình thản nói. Po Chongchan là người có nhiều tham vọng khó lường, tuy nhiên, ông ta cũng là người duy nhất mà triều đình Parik có thể nhờ cậy được lúc này. Tuy thế, Po Chongchan thuộc phe chủ chiến, đến lúc nguy cấp lại định bỏ rơi đức vua ‘cướp ngôi’, thật dễ hiểu tại sao lại khiến một số người phẫn nộ.

Lê Anh cũng không có cảm tình với Po Chongchan, chắc chắn, Hoắc Phương thầm nghĩ khi nhìn ánh mắt người phụ nữ ngày càng tối lại. Khi Lê Anh bị bắt, Po Chongchan đã tìm tới Phú Xuân chẳng phải để giải cứu bà, cũng chẳng làm nên được một chuyện gì có ý nghĩa hơn là để mình rơi vào cái bẫy của người nơi ấy lẫn kẻ thân cận của Oc-nha That. Một kẻ không có đầu óc, người bên cạnh Oc-nha That kể lại với y lời vị Hữu trà viên này nói về người hoàng thân nọ. Từ ngày ấy, rạn nứt trong triều đình Chiêm Thành ngày càng rõ. Do tác động của Nam Hà, có thể, nhưng một khi các đồng bạn chẳng còn chút tin tưởng hay kính trọng nhau, mối liên hệ sẽ chỉ đi đến một kết thúc tồi tệ.

Lê Anh hừ khẽ, khiến Hoắc Phương nghĩ rằng mình phải có thái độ tích cực hơn những lời nói vô thưởng vô phạt từ đầu đến giờ.

“Như vậy, Hữu trà viên muốn tìm tôi…” Y chầm chậm thăm dò. Là Oc-nha That nhắn y tới nơi này, viện cớ nhờ ảnh hưởng của y để đưa người của ông ta vào vùng Thượng đã bị phong tỏa. Nhưng hẳn ông ta còn có mục đích khác. Con đường đến vùng Thượng vốn quen thuộc với người Chiêm Thành ngàn đời nay, họ hoàn toàn có thể vượt qua mà không lý tới quân canh của Nam Hà. Oc-nha That còn cảnh giác với y hơn cả mật thám của Nam Hà, khi biết y có thể bán đứng mình bất cứ lúc nào. Triều đình Chiêm Thành xáo trộn, quyền lực ông ta ở nơi ấy còn được bao lăm để nghĩ rằng y sẽ giúp đỡ nhóm người của ông ta?

“Ta nghe nói, mấy tháng này, Hoắc bang chủ ở trong vùng Thượng, đi qua các nguồn từ Quy Ninh đến đây.” Lê Anh im lặng rồi nhẹ mỉm cười. Bà dùng đúng giọng thăm dò của Hoắc Phương. “Có lý do gì khiến Hoắc bang chủ phải đích thân đi kiểm soát thị trường phương Nam này, nơi không thuộc ảnh hưởng của bang chủ?”

“Chiến tranh xảy ra, nguồn cá muối từ Diên Ninh đến Panduranga đều không còn, để không thất hẹn với bạn hàng, tôi đành phải đích thân đi đôn đốc, tìm nguồn hàng mới.” Hoắc Phương cười, mềm mại trả lời. Ngừng một lát, y nói thêm. “Bấy lâu nay, tôi với Linh lão gia ở Quy Ninh cũng có chút giao tình, nhân chuyến đi của tôi, lão gia nhờ làm vài việc, lần chần mãi cho đến hôm nay.”

Y ngừng lời, ra vẻ như vô tình mà thanh minh, càng ra vẻ như không để ý đến quan hệ của Linh lão và nhóm người này. Lê Anh mặt không đổi sắc. Là người phụ trách công việc liên lạc của triều đình, bà đủ kinh nghiệm để hiểu được thái độ của Hoắc Phương lẫn con người của y. Bảo rằng y không biết quan hệ của Linh lão lẫn ‘công việc’ mà ông ta nhờ vả, ai có thể tin? Nói ra điều này, y ra dấu hiệu rằng mình có tham gia vào việc bọn họ đang làm.

Oc-nha That tìm đến y tất nhiên không phải vì tin tưởng, mà là lợi dụng y đến lúc nào còn có thể. Cùng một thái độ với y.

Bà nhè nhẹ thở ra qua đôi môi khép. Vì Oc-nha That yêu cầu, bà đến tìm y. Nhưng mọi cuộc trao đổi với y đều ẩn chứa quá nhiều nguy cơ. Vì Po Chongchan tin y, cũng là một phần lý do.

“Oc-nha That muốn nhờ bang chủ…” Bà nói, nhưng lời bị ngắt ngang bởi tiếng nói từ bên cửa.

“Gượm đã, công nữ.” Cô gái dẫn Hoắc Phương đến vốn ngồi im bên cửa bỗng lên tiếng. Cô ta gật đầu với Lê Anh rồi quay về phía Hoắc Phương, đưa tay kéo tấm khăn che mặt xuống.

Một gương mặt hoàn mỹ đến khó tả, đến mức có cảm giác như tượng tạc. Bức tượng nữ thần của người phương Nam, những mô tả của họ, cũng chỉ là như thế.

Cô gái hơi nghiêng đầu, vuốt những sợi tóc lòa xòa ra sau, cúi mình như lời chào.

“Tôi là Chiêm Dao Luật.” Cô ta nói, bằng tiếng An Nam hoàn toàn chuẩn xác. Nụ cười thấp thoáng bên khóe môi đỏ. “Hẳn bang chủ đã ít nhiều nghe tiếng.”

 

 

Chú thích:

[1] Kamran: Cam Ranh.

[2] Parik: Phan Rí. Sau khi vua Bà Tấm nhường phần đất phía Đông Phan Rang cho chúa Nguyễn, kinh đô Panduranga chuyển về Bal Canar thuộc Phan Rí, nay là thôn Tịnh Mỹ.

[3] Đà Lãng: Sau này có tên là tấn Đà Diễn, nằm ở thôn Đông Tác tức phía Nam thành phố Tuy Hòa hiện nay. Sông Đà Rằng chảy từ phía Tây Bắc tỉnh Kontum chảy qua Gia Lai rồi vào Phú Yên, đổ ra biển Đông ở cửa biển Đà Diễn.

[4] Thành Hồ: Theo Đại Nam nhất thống chí, thành Hồ còn được gọi là thành An Nghiệp, ở phía Bắc sông Đà Diễn, thuộc thôn An Nghiệp của Tuy Hòa, chu vi 1400 trượng, do người Chiêm Thành xây. Năm 1578, chúa Nguyễn Hoàng sai Lương Văn Chánh đánh được thành này, bắt đầu tiến xuống phương Nam. Nay nằm ở thị trấn Phú Hòa.

[5] Núi Thạch Bi (ngày nay gọi là núi Đá Bia) là núi cao nhất trong khối Đại Lãnh, nằm ở phía Đông Tuy Hòa, có tảng đá bia nằm trên đỉnh núi cao đến 80m. Tương truyền, vua Lê Thánh Tông khi đánh Chiêm Thành đã cho khắc lên bia này mấy câu, ngày nay không còn đọc được (ngay từ thời Nguyễn, những câu này đã thất truyền). Theo Đại Nam nhất thống chí và vài ghi chép khác, tương truyền, câu này là: “Chiêm Thành qua đây sẽ phải bại binh mất nước; An Nam qua đây binh tướng chết tác tan”. Sau này, có nhiều nghi ngờ rằng vua Lê Thánh Tông chưa hề đặt chân đến Phú Yên. Theo Đại Nam nhất thống chí, vào năm 1771, đời Nguyễn Phúc Thuần, sét đánh xuống biến đá núi đen biến thành trắng, xa trông như bia đá đứng sững, sắc như vôi đá, triều đình liền cho người cầu đảo (Chỉ trong năm sau đó, Tây Sơn nổi dậy ngay ở phía Bắc Phú Yên, Phú Yên trở thành ranh giới phân tranh nhiều năm liền).

[6] Aya Tră: Nha Trang.

[7] Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn viết, khi quân Trịnh đánh vào Trấn Ninh, có người là Trần Duy Trung dâng thư nói, Nam Hà chỉ mạnh về thủy quân, quân bộ không bằng. Theo lời, quân Trịnh do Hoàng Ngũ Phúc chỉ huy tránh tuyệt đối đụng độ với thủy quân Nam Hà mà dùng quân bộ tấn công từ phía Tây bọc về.

 




Hồi 12: Âm mưu
Sunday, February 19, 2012 Author: Trường An

Ngày mùng bốn Tết là sinh nhật của Giang Hồng, Linh lão đầu tiện thể tổ chức cùng lễ kết bái cho con gái và Như Yên. Khách đến đông chật gian nhà chính và cả hai gian cánh, người luôn chân chạy trong khoảng sân rộng. Gần một tháng ở nơi này khiến Như Yên quen biết hầu như mọi người thân của Linh lão. Vì danh tiếng của nàng, Ngụy lão gia của Nước Mặn cũng phải gửi tới một nhóm mang quà mừng, tuy không đích thân đến. Tiệc mở từ chiều ngày mùng ba, đến tận tối mùng năm mới vãn người.

“Thật là…” Xuân Tử dựa lưng vào cửa thở ra khi tiễn vị khách cuối cùng đến chào Như Yên ra ngoài. Suốt ba ngày hầu như chỉ đứng, cô cũng đã thấy mệt mỏi bải hoải. Đáp lại lời cô là tiếng thở dài tương tự từ bên kia phòng. Ngồi sau bàn, Như Yên nghiêng người qua một bên ghế, mắt lim dim nửa nhắm nửa mở.

“Chị về phòng chuẩn bị trước cho ta đi ngủ.” Nàng nói mà không mở mắt. Xuân Tử gật đầu quay đi. Chủ nhân của cô có vẻ đã mệt đến không còn muốn cử động, cô nên về trước gọi người chuẩn bị nước rửa mặt sẵn trong phòng.

Vì nơi này là căn nhà cánh mà Linh lão để cho Như Yên tiếp khách, Xuân Tử chỉ khép hờ cửa chứ không đóng hẳn. Cô đi một lúc, gió thổi mạnh, đẩy cánh cửa mở rộng. Ngọn đèn vốn đã gần cạn dầu trong phòng lung lay rồi tắt.

Vẫn nhắm mắt, Như Yên nghe tiếng chân bước ngoài hành lang. Người vừa đến dừng lại một lát rồi bước vào phòng.

“Lão gia.” Là Như Yên lên tiếng trước. Nàng không nhìn rõ mặt ông ta trong ánh lửa mờ hắt vào từ hành lang. Nhưng nàng có thể ngửi thấy mùi lưu diệp hương thoảng theo gió. Lạ, từ cách phục sức cho đến cả thói quen thường ngày, Linh lão này lại rất giống Thắng Bình.

Có vẻ như cũng đã nhận ra nàng còn ở trong phòng, Linh lão không giật mình. Đứng lại ở giữa phòng, ông ta nhíu mày nhìn về phía nàng. Giọng nàng rất nhẹ, kéo dài như thể đã say. Mấy ngày nay, nàng uống rất nhiều.

“Công nữ chưa về phòng nghỉ?” Linh lão theo lệ mà hỏi, Như Yên uể oải lắc đầu, không để tâm ông ta có nhìn thấy hay không.

“Ta nên gọi lão gia thế nào từ bây giờ nhỉ? ‘Cha nuôi’, có vẻ không hợp lắm? Lão bá thì hơi xa cách, hay nên gọi là chú, hoặc bác?” Giọng nói vẫn nhẹ như tiếng gió, Như Yên cười. Thấy cái bóng hắt đến từ bên kia phòng đổi chân trụ, có vẻ không thoải mái.

“Thôi thì cứ gọi là lão gia thì hơn. Mấy cách gọi kia, thế nào cũng không quen.” Nàng cười khẽ. “Lão gia kể ra còn kém chồng ta đôi tuổi, với quan hệ của chúng ta từ trước thì tiếng chú bác hơi buồn cười.”

“Công nữ say rồi, nên về nghỉ.” Linh lão lại đổi chân trụ, lắc đầu nhắc. Như Yên nhíu mày, lảo đảo đứng dậy, tựa vào bàn mà cười.

“Sao phải khách sáo với ta như thế? Nếu ta chỉ là ‘Phương tiểu thư’, có khi đã trở thành phu nhân của lão gia rồi.” Nàng nói, bất chấp vẻ không thoải mái của người bên kia phòng, chầm chậm tiến đến cạnh ông ta. “Lão gia có thể bảo rằng chưa từng có ý nghĩ ấy? Năm đó, ai tung tin ta đã kết hôn với lão gia ra ngoài?”

“Công nữ…” Hơi nghiêng người lùi lại, Linh lão thận trọng giữ khoảng cách với nàng. Nghĩ nàng đã say, khuyên bảo không ích lợi, ông ta ngoảnh đầu nhìn ra tiếng chân đang đi tới ngoài hành lang, gọi lớn. Giang Hồng nghe tiếng cha gọi liền bước vào, đúng lúc Như Yên nắm lấy tay áo Linh lão.

“Này, năm ấy lão gia định gả con gái, mấy phần vì Đông Phố, mấy phần vì ta thế?” Nàng cười hỏi. Linh lão cau mày rút tay áo ra khỏi tay nàng, vẫy tay bảo Giang Hồng dìu nàng về phòng nghỉ. Giang Hồng vừa đỡ lấy nàng, ông ta đã vội bước ra ngoài. Cái bóng thoáng chốc đã mất hút về phía bên kia sân.

“À, cha cô…” Khi Giang Hồng đã dìu Như Yên ra ngoài, nàng chợt lên tiếng. Tựa đầu lên vai cô gái, nàng lim dim mắt nhìn lên cô. “Gọi là cha em mới phải, đúng không? Ông ta chẳng phải là lòng dạ sắt đá, vô tục vô cầu gì cho cam đâu.

“Em thật là dễ tin người, biết không? Chuyện đồn đại năm xưa chẳng phải là không thật đâu. Chỉ vì ta tốt với em mấy câu mà em tin ta? Thật là khờ.” Ợ lên một tiếng toàn hơi rượu, Như Yên dừng chân đứng tựa vào cột chống. Chiếc đèn treo trên cột đung đưa bên vai nàng. Ánh mắt mờ mịt, nàng nói mà như thể không nhận ra người đằng trước. “Cùng là nữ nhân, nhưng thật là khác nhau đấy, đúng không? Em cứ cúi đầu thế này, chẳng trách không ai thèm nhìn đến.”

“Công nữ…” Mím môi, Giang Hồng đưa tay định đỡ nàng. Như Yên gạt tay cô, cười thành tiếng.

“Ở đây không còn ai, chẳng ai còn đủ sức đứng vững mà tọc mạch, sao em vẫn không chịu thẳng thắn một lần cho xong? Hận ta đến mấy mà cũng không được một lần chửi bới cho thỏa? Ghét ta đến mấy mà không dám tỏ thái độ? Mấy ngày qua em làm gì, chẳng lẽ ta không nhận ra? Hay em nghĩ cứ ngoan ngoãn cúi đầu mím môi câm như hến thì địa vị của mình cao hơn một chút, được người ta trọng thị hơn một chút?” Nheo mắt, Như Yên nhè nhẹ thở ra, vẫy ngón tay trước mặt. “Không đâu, em chẳng có giá trị gì cả. Em dù có ngoan ngoãn thế nào, dễ bảo thế nào, thậm chí, có yêu thương hiếu thuận với người ta đến mức nào, cũng chẳng có giá trị gì cả. Cái giá trị mà người ta thấy là thứ người ta muốn, thứ em có thể đắp lên cho mình, tự tạo cho mình. Người ta muốn có những đứa con xinh đẹp thông minh, muốn con trai hơn con gái, muốn có những người tình chiều chuộng khôn khéo, muốn có những gì có thể đủ để họ tự hào. Yêu thương, em nói, tình thương chắc cũng có đấy, nhưng cũng đầy miễn cưỡng và nghiêng lệch, thế thôi.

“Đừng có cau mày với ta. Em tưởng mình chải tóc chín trăm hay chín ngàn lần thì người chồng sẽ yêu thương em nhiều hơn một chút sao? Em tưởng mình câm nín chịu đựng thì người ta sẽ biết trân trọng em sao? Không, người ta nhìn em như một hòn đá bên đường, như đồng tiền xu trong túi. Chẳng ai thèm để ý đâu, không ai.” Cười khan trong cổ, Như Yên vuốt lọn tóc rơi xuống mắt, bĩu môi. “Đủ để họ ném em đi bất kỳ lúc nào khi có thứ ‘giá trị’ hơn, thậm chí cho một kẻ như ta chẳng hạn.”

Giang Hồng đưa mắt nhìn quanh, nhưng đêm đã về khuya, trong sân quả thật đã vắng tanh. Cả tên canh gác ngoài cửa sân cũng đã gục đầu thiu thiu ngủ. Không còn cách nào khác, cô liền nắm tay áo Như Yên, gần như kéo nàng về phòng.

“À, em hẳn cũng đã quen rồi, với lời châm chọc thế này, hả?” Vừa bước, Như Yên vừa cười nói. “Và rồi em tìm cách trả đũa, theo một cách đáng thương.

“Em hẳn cũng đã nhận ra rồi, đúng không, quan hệ của ta và kẻ kia?” Dấn tới một bước, kề môi sau tai Giang Hồng, Như Yên thì thầm. Thấy ngón tay nắm áo mình chợt siết, nàng cười khe khẽ. “Cha em có từng kể không, mỗi đêm hắn leo vào phòng ta? Chồng em có từng kể chưa, chuyện anh ta gặp ta và hắn nói chuyện ‘trên giường’?”

Giang Hồng chợt đứng sựng khiến Như Yên vấp vào cô. Lảo đảo đứng thẳng người lên, khi ngẩng đầu, nàng đã thấy cô gái nhìn đăm đăm xuống mình.

“Dù em có chải tóc chín trăm lần cũng thế mà thôi. Và một kẻ hỏng bét như ta vẫn được ăn trên ngồi trốc, muốn gì có nấy, kẻ ái người si. Chồng em, cha em biết tất cả đấy, nhưng đã sao? Thậm chí, nếu muốn, ta vẫn có thể cướp tất cả của em.” Cười dài thành tiếng, Như Yên chống tay vào tường mà đứng thẳng lên. “Và tất cả cũng chỉ là một trò đùa thôi, như lúc bắt đầu…”

Bốp! Lời nói của Như Yên bị ngắt ngang bởi một cái tát. Giang Hồng thẳng tay tát vào mặt nàng. Đôi mắt ngày thường an tĩnh của cô lạnh buốt cơn giận trên khuôn mặt đanh lại, đôi môi mím thành đường thẳng mảnh.

“Em có thể sẽ chết vì hành động này đấy.” Nghiêng đầu trở lại, đưa tay chạm lên vết đỏ hằn trên má, Như Yên mỉm cười. Trong bóng tối, mắt nàng thẫm đen như miệng vực. “Vậy thì đã thỏa mãn hơn chút nào chưa? Em có thể đánh ta một cái tát, ta có thể đánh em một trăm cái – mà chẳng cần phải ra tay làm đau tay ta.

“Nhưng ta không có hứng thú với trò cào cấu của đàn bà.” Cười trong cổ, Như Yên vuốt lại tóc, nhún vai mà bước đi. “Ta chỉ nói, đừng có giở trò khôn vặt với ta, tất cả những gì em làm đều đáng thương hại.”

Không quay lại, nàng cũng không nghe được một tiếng động từ sau lưng. Gió ù ù thổi trong khoảng sân rộng dưới chân đồi, cuốn bụi bay rào rào qua mặt nàng. Đưa tay che mặt, bước qua cửa sân để vào đến gian nhà sau, nàng ngồi xuống bệ đá lan can, thở ra hơi đắng trong ngực. Thấy bên môi tê tê, nàng đưa tay chặm lên, nhận ra vệt máu đỏ. Cú đánh của Giang Hồng quả thật không nhẹ.

“Ài…” Mỉm cười một mình, nàng tuột xuống thềm gỗ, tựa đầu lên lan can mà nhắm mắt. Rượu quả thật đang cồn cào lồng ngực, đốt cháy ruột gan, nhưng đầu óc nàng vẫn thanh tỉnh, chỉ ong ong bên tai một thanh âm hỗn độn. Rượu hâm nóng thân thể khiến nàng hầu như không thể cảm thấy hơi lạnh của buổi đêm. Vết đỏ bên gò má giật nhẹ, vẫn còn rưng rức. Nàng quyết định nhắm mắt định thần, ngủ đi một thoáng cũng không sao. Xuân Tử sẽ ra đỡ nàng vào.

Nhưng trong lúc mập mờ, nàng không nhận ra mình đã đi lạc vào gian nhà đối diện chứ không phải phòng mình.

Vì trong tai váng vất, nàng đã không nghe tiếng chân đến gần bên.

Đúng hơn, kẻ vừa đến không có một thanh âm. Như cái bóng hạ xuống trong đêm tối, bay vào theo gió, y đột nhiên xuất hiện cạnh nàng. Như thể cũng đột nhiên sững sờ khi thấy nàng, y đứng chựng. Co người ngồi bên hành lang, toàn thân chỉ mặc sắc trắng, mái tóc dài xõa tung sau lưng, gương mặt nàng lại đỏ hồng, hơi rượu thoảng trong không khí. Đêm đầu tháng hầu như không có ánh trăng, chỉ đôi tia lửa nhợt nhạt hắt tới từ ngọn đèn bên kia hiên, sắc trắng của áo nàng trong bóng tối nhòa nhạt như làn sương mỏng.

Khi ngủ, nàng hầu như không thay đổi. Không thay đổi, như từ gần mười năm trước.

Cái ý nghĩ ấy khiến y ngẩn người.

Mi mắt nàng khẽ rung động, đôi mày hơi cau, nàng thở ra mơ hồ mà không mở mắt. Y vội lui vào bóng tối, định bỏ đi.

“Này,” Khi chân y vừa nhấc, nàng chợt gọi, giọng mỏng như khói, gương mặt vẫn như đang thiếp ngủ, tay đưa ra như vẫy. “Đi đâu đấy, đưa ta vào phòng.”

Y vẫn đứng yên. Bàn tay Như Yên rơi xuống, nàng áp má vào tảng đá, thở ra một hơi dài, mày giãn ra như đã lại ngủ lịm đi. Nhìn qua bên sân không thấy một bóng người, y cau mày. Không thể đưa nàng về phòng để đánh động đám người xung quanh, cũng chẳng thể bỏ nàng say rượu nằm ngủ giữa trời. Khí hậu quái ác vùng rừng núi phương Nam này có thể giết người chỉ trong một đêm.

Y ngoảnh nhìn vào dãy phòng tối. Gian nhà này cùng với cánh đối diện vốn được dành riêng cho khách. Qua mấy ngày lễ tết, khách đã ra về hết, gian nhà trống không tuy vẫn còn tươm tất. Nghĩ một lúc, y đến bên, cúi xuống kéo tay Như Yên lên.

Nàng nhẹ bỗng, y thoáng nghĩ với sự ngạc nhiên nho nhỏ. Có vẻ như nàng vẫn chẳng hơn đứa trẻ mà y đã ôm trong tay ngày xưa. Lảo đảo ngả hẳn vào tay y, nàng nhẹ và mềm, hơi thở, làn da ấm nóng dưới lớp vải. Gần như lúng túng, y nắm lấy cổ áo nàng, nửa kéo nửa đẩy vào căn phòng trống phía sau. Vẫn như một cái đẩy không được nhẹ nhàng cho lắm, y hất nàng lên cái phản cạnh cửa, hai chân vẫn buông thõng xuống đất. Ở vị trí này, nếu Xuân Tử cho người đi tìm vẫn dễ nhận ra.

Đầu va vào tấm gỗ, Như Yên kêu lên khe khẽ. Nàng nhăn mặt, đưa tay xoa vết đau, mắt chớp chớp vài lần trước khi he hé mở. Y cũng không vội lánh đi, trong bóng tối này, nàng hoàn toàn không thể nhìn thấy y.

“Ngươi…” Cau mày, tay vẫn xoa chỗ vừa va đập tê rần, Như Yên giận dữ mắng, tuy lời chẳng thể cao hơn tiếng thì thầm. “Lúc nào cũng đối xử với ta như vậy sao hả?”

Trong bóng tối, y đăm đăm nhìn nàng. Nhưng Như Yên vẫn hấp háy mắt như thể nửa mê nửa tỉnh mà cằn nhằn bằng giọng thanh tỉnh kỳ quái nàng thường có khi say. Co chân lên phản, cuộn người lại, nàng lầm bầm lẩm bẩm mà cau có.

“Lúc nào cũng chực ném ta đi rồi chuồn cho xa. Cho nên, đáng đời ngươi. Tên ngốc kia, chỉ vì hắn chịu ở lại cạnh ta một lúc mà lấy được ta. Đáng đời ngươi, oán trời trách đất giận dữ với tên ngốc kia thế nào, ngươi cũng chẳng biết tại sao hắn cướp được ta. Ừ, cướp đấy. Hắn cướp mất mấy cái hôn của ta, tên càn rỡ ngu ngốc đó. Trong khi ngươi ở cạnh ta bao nhiêu năm thì cũng chỉ chực trốn cho xa.” Miệng hầu như không mở, nàng nói trong cơn mê chập chờn. “Ngay khi hắn nói ‘Ta ở đây’, ta đã biết đó không phải là ngươi. Khi ta khóc, ngươi chẳng bao giờ có mặt. Ngươi bao giờ cũng chỉ chực trốn cho xa.

“Cho nên, ta giận đến mức nào, ngươi biết không hả? Khi nghe câu nói ‘Ta ở đây’, ta đã cảm động đến mức có thể cho hắn hết tất cả. Ừ, lúc đó thì ta cũng chẳng tỉnh táo cho lắm. Nên khi tỉnh ra, khi nhớ lại, ta gần như phát điên vì giận. Nhưng từ lúc đó, hắn đã cướp lấy mọi thứ, tất cả mọi thứ từ tay ngươi rồi. Ta gọi hắn là tên ngốc, chứ ngươi mới đích thực là đồ ngốc. Thậm ngu ngốc! Ngươi oán ta, oán hắn, oán trời, oán người. Nhưng tất cả cũng chỉ tại ngươi.” Môi nhoẻn thành nụ cười không thanh âm, nàng thì thầm ngày càng nhỏ, từng chữ kéo dài, nhẹ như tơ. “Đêm đó, ngươi lợi dụng ta rồi ném ta đi, ngươi còn dám đối mặt với ta? Không, ta chẳng hận ngươi. Vì ta chẳng thể hận ngươi nhiều hơn được nữa. Bao nhiêu năm, bao nhiêu lần, ngươi tưởng ta còn đau lòng vì ngươi được bao nhiêu lần?

“Ngươi phá hết tất cả mọi thứ. Tự ngươi phá hết tất cả mọi thứ. Ngươi sống trên đời làm gì vậy, khi ngươi chẳng hề giống con người?”

Câu nói cuối chuyển thành tiếng thở dài. Thở hắt ra một tiếng, Như Yên phất tay áo che mắt, một lúc sau thì hơi thở đã lại đều đặn. Nhìn nàng thêm hồi lâu, y lặng lẽ rời đi.

Bên kia của dãy nhà là cánh cửa dẫn vào hậu viện. Cửa đóng, nhưng y cứ bước thẳng mà đẩy vào. Theo hẹn, Linh lão đầu đã để cửa cho y. Y đi đến gian phòng chái bên mà ông ta đã hẹn không gặp một bóng người. Linh lão thắp một ngọn đèn lớn, ngồi trên phản mà chờ y. Mấy ngày bận rộn, ông ta cũng đã có vẻ mệt mỏi. Gật đầu ra ý chào, y đến chiếc ghế đối diện mà ngồi.

“Ta đã hẹn được với trưởng buôn ở Phú Yên để họ đem hàng hóa chuyển bằng đường sông phía Tây đến Bình Khang.” Để ly trà lớn xuống khay, Linh lão nói. “Nam Hà chặn đường từ phương Bắc xuống, nhóm người ở Đông Phố chặn lối từ phía Nam lên, muốn gì cũng phải nhờ vào đường Thượng đạo thôi vậy. Mấy ngày nữa, Quảng Phú sẽ đi coi việc chuyển lương. Hoắc Phương đang buôn bán ở nguồn Đá Bàn[1], sắp đến nguồn Hà Di[2], hẳn cũng giúp ta được ít nhiều.”

“Nhờ Hoắc Phương?” Nghe đến cái tên này, y cau mày hỏi lại. Linh lão chép miệng gật đầu.

“Y là thân thuộc của Nam Hà, nhưng cũng vì thế mà ta có thể nhờ vả y được. Bây giờ chỉ có tiếng nói của y mới khiến quân canh Nam Hà thả lỏng mấy cửa sông.” Gác tay lên gối, đôi mày cau sâu chẳng kém y, Linh lão chợt cười nhẹ. “Mà với tính khí của Hoắc Phương bấy lâu nay, y biết cái gì không nên làm nếu không đến lúc.”

Ông xem nhẹ Hoắc Phương quá, y nghĩ thầm, nhưng không nói ra. Y vẫn nhớ ngày mà Hoắc Phương đưa Thiên Túng đến nã pháo vào gia trang ở Quảng Ngãi. Hoặc là Thiên Túng đưa bọn y hành động, y cũng không rõ ràng kẻ nào là chủ mưu và chỉ huy cho tất cả hành động ấy – Nếu không, y đã không thể cho phép nã pháo vào gia trang. Nhưng với hành động ấy, Hoắc Phương đã thể hiện rõ – Nếu điều kiện cho phép, bang chủ Thanh Hải bang sẵn sàng hủy diệt toàn bộ đám người này. Nguyên nhân chẳng phải khó đoán. Tên thanh niên ốm yếu ấy có vẻ ngoài vô hại, hiền lành và mềm mại hơn những gì y thực sự nghĩ, thực sự có thể ra tay. Tiếng gọi ‘đồng minh’ hay ‘bạn hữu’ với Hoắc Phương hầu như chẳng có ý nghĩa. Lơi lỏng với kẻ ấy một khắc có thể phải trả giá đắt, với bất cứ ai.

Nhưng dù sao lúc này cũng chẳng phải là thời gian thuận tiện, vì ý nghĩ ấy, y quyết định không nói về Hoắc Phương. Lúc này không phải là thời gian thuận tiện cho những xáo trộn và rối loạn. Ngay cả nếu như có bắt được ‘bằng chứng câu kết mưu phản’ của Linh lão bây giờ, triều đình Nam Hà cũng sẽ không vội ra tay. Khi trận chiến còn chưa phân thắng bại ở Bình Khang, tạo thêm một sự xáo trộn lớn lao nữa ở nơi này hoàn toàn là một hành động dại dột. Vì thế, một sự trở mặt hay một dấu hiệu bất đồng nào của Hoắc Phương vẫn chỉ có hại với bản thân kẻ ấy trước hết. Hoắc Phương biết nên làm gì vào lúc nào, quả vậy.

“Người quen của các hạ…” Bên kia, Linh lão chợt lên tiếng. Y đưa mắt nhìn sang. Ông ta ngừng lời một thoáng, ngón tay cái búng khẽ trong lòng bàn tay. “Quan hệ của nàng ta với phu quân hiện tại thế nào?”

“Không rõ.” Sau một lúc im lặng, y trả lời. Chẳng phải là không thật, y không thể rõ hiện tại quan hệ của Như Yên và người mang danh là chồng nàng, người lãnh đạo toán quân đối đầu với y ở Bình Khang, như thế nào.

Tướng quân đối đầu, tâm trí y chợt chững lại, nhắc thầm. Đối thủ trên chiến trường của quân Chiêm Thành là Nguyễn Hữu Kính, nhưng kẻ giữ thành lũy cản ngăn bọn y là Chưởng cơ Phò mã Nguyễn Hữu Oai. Đối thủ thực sự của y là kẻ lãnh đạo thứ mà Nam Hà gọi là dinh Bình Khang, trên đất Kauthara cũ của Chiêm Thành.

Ngón tay Linh lão cũng đã dừng cử chỉ bồn chồn. Ông ta hỏi y vì sự ‘quen biết’ của y và Như Yên xưa kia, khi y theo nàng như hình với bóng. Nhưng hiện tại, thành thật với chính bản thân, y không thể hiểu được những gì nàng đang nghĩ, cuộc sống nàng đang chọn cho mình.

Hắn có thể giải thích cho nàng tất cả lý do, nhưng nàng có vẻ không cần cả cái lý do ấy. Ném y xuống thuyền của nhóm người Chiêm Thành để luồn theo những con sông nhỏ đào thoát ngay trong đêm ấy, hắn xuất hiện sau đó ở Panduranga với thái độ mà y khó lòng dò được. Khuôn mặt lạnh băng, hắn hỏi về quyết định của y, và rời khỏi sau khi y nói rằng vẫn muốn ở lại nơi này. Hắn biết rằng không thể thuyết phục y buông tay, và cũng không thử cố làm, hoặc cũng chẳng còn đủ sức lực để làm. Trong ánh mắt hắn vẫn là sự trống trải muôn thưở, nhưng y cũng chẳng còn thấy sức sống hoạt bát trước kia. Y không cần hỏi về quan hệ của hắn và Như Yên, khi câu trả lời đã quá rõ ràng. Sau đó, y biết nàng đã trở về Hội An, chấp nhận cuộc sống của một công nữ, cũng như người chồng mà nàng đã được gả cho. Nàng vứt bỏ mọi thứ, nhưng rồi cũng vẫn nhất quyết theo đuổi điều mà nàng chưa từng để tâm trước kia. Nàng vứt bỏ bản thân mình, trở thành – trong những ý nghĩ thoáng qua mà y cho phép mình ngẫm ngợi – một cái bóng của người đàn ông đã đưa nàng về giữa những lối trúc quanh co. Bao nhiêu năm, y chưa từng nhận thấy sự sống nào trong con người ấy, thậm chí, chưa từng xem người đàn ông ấy là một con người.

Y đã sớm biết sự xuất hiện của nàng ở trang viện này. Và trong đôi lần nhìn thấy nàng, trong lòng y vẫn gợn lên cái ý nghĩ vô cùng khó chịu: Nàng cũng chẳng còn là một con người – không chỉ con người mà y từng biết, mà là tất cả. Mọi thứ về nàng đều khuấy động trong y cảm giác khó chịu như thể nhìn một hình ảnh sai lạc kỳ quặc.

Ngay cả với những lời nói của nàng trong đêm này, y cũng không cảm thấy bất cứ cảm xúc nào trong đó. Nàng chỉ đơn thuần là kể lại, thuật lại, với sự thản nhiên của một người xa lạ. Trong cái dáng vẻ thân thuộc, nàng lại trở nên xa lạ như thể mang linh hồn của một kẻ khác.

“À, như vậy…” Linh lão thở ra, cân nhắc một lúc rồi cười, chòm râu rung rung. “Chúng ta có thể sử dụng nàng ta để chạm tới Bình Khang chứ?”

“Nắm giữ được nàng ta trong tay, có thể xem như chạm tới được chân lũy Bình Khang.” Nhìn y thăm dò, Linh lão gật đầu. “Nam Hà cử Phò mã của mình tới, ta lại không thể giữ công nữ của chúng sao?”

 

 

Chú thích:

[1] Thuộc phủ Quy Ninh.

[2] Thuộc phủ Phú Yên.

 




Hồi 11: Cố nhân
Wednesday, February 8, 2012 Author: Trường An

Đến lúc ấy, nàng mới chợt nhận ra mình đã quên mất một điều.

Nàng vẫn không quên y, chắc chắn. Khi tin tức về nhóm người của y vẫn được báo về đều đặn. Khi chuẩn bị đến vùng đất này, nàng đã được cảnh báo – và cũng đã tự nhắc mình, có khả năng sẽ đụng độ với y. Trong khoảng thời gian này, tất cả mọi kẻ đều có chung một mục đích, tuy hướng về các mục tiêu khác nhau. Nàng đã chuẩn bị đối phó với bất cứ kẻ nào tìm đến, hoặc những cuộc gặp mặt sẽ xảy ra một khi đã đến đây.

Nhưng rốt cuộc, nàng lại quên mất sự hiện diện của y.

Chính xác hơn, từ ngày ấy, nàng dường như đã quên đi sự hiện diện của một kẻ như thế trên đời. Chỉ còn lại một cái tên – cái tên đại diện cho nhiều điều, nhiều kẻ - chứ không phải là một con người. Từ ngày ấy, bằng cách nào không rõ, tâm thức lẫn trí óc nàng đã từ chối nhớ đến y. Bằng cách nào không rõ, như thể một khoảng ký ức đã bị xóa trắng trong nàng. Chỉ còn lại sự kiện và tin tức, sự nhận biết như đến từ một cuộc đời khác.

Cho nên, lúc này, nàng trừng trừng mắt nhìn kẻ đang đứng trên triền đồi. Triền đồi dốc đứng bên bờ rào, bụi cỏ và thạch xương bồ cao cả trượng cùng hàng cây có lẽ đã che chắn nàng khỏi ánh mắt y. Y không để tâm đến nàng. Đứng trên triền đồi, y hướng mắt về phía cửa rào bên kia trang trại như chờ đợi. Cái nón rộng đã trật ra sau lưng, tóc y vẫn xõa đen nhánh trên vai, đổ tràn qua gò má, khiến làn da tai tái trắng nhợt như ngọc dưới ánh trăng, trường bào xám cũng chuyển thành sắc nguyệt bạch. Trong dáng vẻ bất động, y trông như thể một pho tượng đá. Nàng có thể đã đi ngang qua y mà không hề hay biết, nếu như không có một linh cảm khiến nàng giật mình nhìn lên.

Qua bấy nhiêu năm, nàng vẫn có thể nhận biết sự hiện diện của y nhanh đến thế. Như thể một nhận thức sững sờ từ sâu thẳm, khiến cả thân người lạnh đi, từng sợi tóc rởn lên cảnh giác. Dưới bóng của cỏ và lùm cây, nàng trừng trừng nhìn lên y, trong một lúc lâu vẫn chưa thể phản ứng.

Đến lúc ấy, nàng mới nghĩ ra mình đã quên mất điều gì. Bóng lưng y nhòa trong sương đêm ấy, tan khuất vào bóng tối. Một hình ảnh lặp đi lặp lại trong ký ức nàng, rồi bị lãng quên. Nàng nhớ mọi điều đã diễn ra, nhưng tiềm thức từ chối một hình bóng duy nhất – một điều duy nhất: Y – nguyên nhân và hệ quả của tất cả những gì đã xảy ra, trong cuộc đời nàng. Nàng ghi nhớ, như thể cuộc đời của một người khác, từ chối đào sâu thêm về nó. Đến lúc này, như thể bị một cái đánh mạnh đến sững sờ, nàng nhận ra sự hiện diện của y. Y vẫn còn đứng dưới cùng một bầu trời. Và những gì đã xảy đến trong đêm ấy, như ánh trăng rực rỡ chói mắt tràn ứ mà lạnh buốt, đổ ập xuống trí nhớ nàng.

Đêm ấy, Thanh đã chết, dòng máu nóng đã bắn vào mặt nàng, trong một ánh chớp xanh xé toạc màn đêm. Đêm ấy, sau một hồi sững người đứng bên dòng sông vắng, nàng đã trở vào ngôi làng bên cạnh, dùng quyền lực của mình để gọi trưởng làng đốt đi vài căn chòi nhốt ngựa, báo động cho xung quanh. Và khi trở về, đón nàng là người anh trai chỉ còn lại nửa mạng sống, sắp mất đi mạng sống. Nguyên nhân, nàng không cần hỏi hắn, vì trong thâm tâm, nàng hiểu rõ.

Khi không thể tha thứ cho bản thân mình, tiềm thức nàng lại từ chối nhớ về y. Dường như đã có hai phần tách bạch trong tâm trí nàng – ý thức và cảm nhận. Nàng hiểu, nhưng đó chỉ là một loại ý thức nằm mập mờ đâu đó giữa nhận biết và tính toán, không thể tác động được vào lớp vỏ cứng đã bao bọc trái tim nàng. Và lúc này, như bị một cái gõ mạnh vào màng não, nàng trân người nhìn kẻ đứng như một bức tượng đá trên cao, tịnh không thể nghĩ được điều gì. Trí óc nàng trống rỗng, trong mắt chỉ có ánh trăng sáng lòa đến gần như mờ mịt.

Không biết nàng đã đứng bất động ở nơi ấy bao lâu, cho đến khi y đã quay lưng đi xuống đồi, nàng mới giật mình sực tỉnh. Không đi về phía gia trang, y trở ngược vào rừng, hướng mà nàng biết sẽ đến một tháp cổ của Chiêm Thành đã bị bỏ hoang từ lâu. Nhìn bốn phía xung quanh vẫn yên lặng, Như Yên chầm chậm thận trọng trở lại gian nhà dành cho nàng.

Xuân Tử nhận thấy nàng ra ngoài đã lâu liền đóng sách vở, ra hàng hiên đứng ngóng. Như Yên vào nhà mà dường như không nhìn thấy cô. Nàng quên cả chiếc khăn vẫn vắt trên tay cho đến khi đã ngồi xuống giường. Vẫy tay bảo Xuân Tử đi ngủ, cắt đèn cho nhỏ lại, buông màn xuống, nàng vẫn ngẩn người ngồi tựa vào đầu giường. Dù mệt mỏi, cơn buồn ngủ đã bay biến đi gần hết. Trong nàng chỉ cồn cào cảm giác gây gây say say, cùng cơn lạnh từng đợt dâng lên trong lồng ngực. Cảm giác gần như khi phải đối mặt với hắn.

Kẻ không dung được bản thân nhất chính là nàng, từng lời y nói trong đêm ấy trở lại, vang rành mạch trong tâm trí nàng. Không phải hắn, cũng không phải y, mà là chính nàng. Nàng không oán hận hắn, chẳng nhớ đến tội lỗi của y, chỉ đơn giản là chẳng thể đối mặt. Hắn, y, bọn họ, tất cả con người nơi này, chẳng ai có tội, ngoài chính nàng.

Phá vỡ cuộc đời Giang Hồng cùng bao nhiêu kẻ có tên hay không tên khác. Phá vỡ cuộc đời y, giết chết tất cả những kẻ y yêu thương trân quý. Phá vỡ cuộc đời của tất cả mọi người mọi kẻ xung quanh nàng. Để rồi, bây giờ, đây là kết quả mà nàng phải nhận lãnh. Nhân quả, đến lúc nó phải trở lại, táp vào mặt nàng với sức mạnh của một ngọn cuồng phong.

Không chỉ là những gì đã xảy đến trong đêm ấy. Đó là kết quả của rất nhiều, rất nhiều điều đã xảy ra. Những gì đã tạo ra y hiện tại, cơn lốc đang cuộn xoáy chực chờ hất vùng đất này xuống vực.

Y ở đây làm gì? Trong cõi hỗn loạn của tâm trí nàng, một ý nghĩ có vẻ thanh tỉnh lại nảy lên, nàng liền bám ngay lấy nó. Nơi này là gia trang của Linh lão đầu, vùng đất rộng hàng chục dặm xung quanh cũng là đất đai của ông ta, y xuất hiện ở đây làm gì, khi đêm đã về khuya? Khi đáng lẽ y phải đang ở Bình Khang, nơi mọi kẻ đang đắp lũy xây thành, chuẩn bị cho cuộc đụng độ lớn?

Nàng biết nhóm người của Oc-nha That không được trọng dụng trong cuộc chiến này, nhưng đích thân y bỏ rơi chiến trường để tới đất địch hẳn phải có dụng ý khác. Vừa rồi, y không có vẻ như đang đợi người, chỉ đứng nhìn vào trong gia trang. May mắn, nàng đã đi ngược phía mà y đang hướng tới. Nàng đã đảo một vòng lớn quanh gia trang, và ánh mắt y đã nhìn về đúng nơi nàng đang đi trở lại – gian nhà dành cho khách của trang trại. Có vẻ y cũng đã ở đó không bao lâu, nếu không hẳn đã nhận ra nàng đi bên kia khoảng sân rộng.

Nếu như vậy, y từ đâu tới? Như Yên nhíu mày, hồi tưởng lại quang cảnh ngoài gia trang. Khoảng đồi cao viền lấy dãy rào, không có nẻo khác để lên nếu không băng ngang qua trang trại, nếu đi ở con đường trên đồi, hay từ triền đồi bên kia lại, y hẳn đã phải nhìn thấy nàng ngay phía dưới.

Băng ngang qua trang trại, Như Yên lặp lại ý nghĩ ấy trong tâm trí. Có nghĩa là, y từ bên trong gia trang đi ra. Khi nàng đã đảo hết vòng sân, dừng chân dưới cửa rào men theo đồi, y mới đi lên đồi nên không thể nhìn thấy nàng. Y đã từ trong sân đi lên. Từ trong gia trang của Linh lão đầu.

Điều đó chẳng phải đã giải thích cho tất cả?

Không phải chỉ mình nàng hướng đến vùng đất này. Tất cả đang có cùng chung một mục đích.

À… Như Yên khe khẽ thở ra, ôm cái gối vào lòng chặt hơn. Linh lão đầu hẳn đã gặp y. Vậy thì, theo biểu hiện vừa rồi, hẳn y đã biết sự hiện diện của nàng nơi này? Ánh mắt y đã hướng đúng về phía gian nhà của nàng – Nơi mà hẳn là Xuân Tử đã ra đứng đợi nàng.

Linh lão đầu để cho y đi – Âu cũng là hành động có thể hiểu được, khi không ai muốn gây thêm rắc rối cho mình. Nhưng nếu là trường hợp khác – bọn họ bắt tay với nhau?

Mãn giang hồng, nàng vẫn nhớ bài thơ ấy, những gì mà Linh lão đầu từng nói với nàng, với Hoắc Phương. Nàng vẫn ghi nhớ rằng ông ta luôn muốn kết liên với ‘những hào kiệt ở Đông Phố’, những thần tử nhà Minh chống Thanh triều. Những kẻ vẫn chưa chịu buông tay, vẫn chờ đợi một cơ hội để quật khởi.

Nàng thầm nghĩ, nhợt nhạt cười. Cuối cùng, cũng vẫn đến con đường này. Sợi dây liên kết giữa nàng và y có vẻ như chẳng thể cắt lìa.

Duyên phận, quả thật nhiều khi là nghiệt duyên vậy.

***

Đến cận ngày Tết, Hoắc Phương vẫn chưa trở về. Như Yên dần cũng không còn có vẻ nóng lòng. Đến phủ Hoài Nhơn thăm viếng nhà họ Trần vài hôm, nàng trở về gia trang của Linh lão đầu trước ngày ba mươi Tết. Vì công việc, nàng giải thích. Ngày Tết, người trong gia trang và khắp nơi lân cận lẫn xa xôi đổ về thăm viếng Linh lão. Ở địa vị một người sắp trở thành thân cận với ông ta như nàng, nên ở nơi này để gặp gỡ bọn họ.

Sắp trở thành thân cận – Khi nàng từ Trần gia trở về, đi cùng với một người họ Trần. Và qua vài câu chuyện phiếm sau chén rượu cuộc trà, anh ta gợi ý cho nàng nhận Giang Hồng làm chị em kết nghĩa.

Giang Hồng, như mọi khi, vẫn im lặng, nhè nhẹ mỉm cười, ánh mắt hướng đến vệt nắng chái hắt qua cửa trên sàn. Quảng Phú, sau một lúc suy nghĩ, trở nên hào hứng đặc biệt. Và Linh lão đầu cũng mỉm cười. Ông ta quay đầu hỏi ý con gái, một cử chỉ cho có lệ. Ra Tết là sinh nhật của con bé, sẽ soạn lễ cho chúng nhận nhau, Linh lão nói mà không cần đợi Giang Hồng gật đầu.

Tất cả bọn họ đều hiểu sự kết giao này có ý nghĩa gì – Nhất là, khi lễ kết bái được tổ chức rình rang bất thường với sự tập hợp của đông đảo thân nhân bạn bè, hầu hết người ở Quy Ninh này đều tới. Tuy thanh thế Linh lão đầu không còn như ngày trước – hậu quả của xung đột do Như Yên gây ra, khiến nhóm của Ngụy lão rời bỏ ông ta – người làm ăn vẫn là người làm ăn, chẳng ai muốn đắc tội với một trong hai nhóm. Ngày Tết, khách đến gia trang nườm nượp. Trăm mẫu ruộng đất xung quanh gia trang in dấu xe ngựa, chòi nghỉ được dựng bên đường nối tiếp nhau dẫn vào trang trại, nhìn như thể đám rước hội của vua chúa. Khách từ miền cao xuống có khi đem theo một đàn ngựa lớn, bụi cuốn mù đường.

Giang Hồng mặc áo đỏ, đứng ở cửa cùng các phu nhân của Linh lão đón khách. Có khi các quan viên trong vùng đến, họ vào nhà trong để gặp Như Yên. Đến chừng ba mươi Tết, vừa ăn xong bữa trưa, Quảng Phú đẩy cửa vào, vẫy tay cho mấy người hầu lui ra.

“Có người vừa đến tìm tôi.” Thấy Như Yên nhướng mày, Quảng Phú xua tay nói. Cẩn thận nhìn lại cánh cửa vừa khép sau lưng cô hầu, gã rút trong áo ra một tờ thiếp hơi quăn góc, nói nhanh. “Họ Lâm, định bàn bạc với công nữ về nguồn Đà Bồng[1].”

“Nguồn ấy được cấp cho Chưởng cơ Phò mã, có phải? Họ Lâm này định xin chức quan trông coi thu thuế nơi ấy[2].” Nghĩ xung quanh đã vắng, Quảng Phú ngồi xuống trước bàn cơm Như Yên vừa ăn xong, đặt tấm thiếp lên bàn. “Tôi bảo phải nói với công nữ trước đã.”

“Ta nhớ quan ở nguồn ấy họ Hoàng.” Như Yên nhíu mày, lục tìm lại trí nhớ. Quảng Phú gật đầu.

“Họ Lâm này bảo sẽ nộp nhiều gấp đôi tiền lễ để nhận bằng.” Gã nói, thấy mày Như Yên nhướn cao hơn.

“Gã muốn hất cẳng họ Hoàng?” Nàng thận trọng hỏi lại. Nộp số tiền lớn đến thế để nhận chức quan thu thuế nguồn, hẳn gã họ Lâm này cũng chẳng muốn chia sẻ công việc với người khác. Nhưng lần này Quảng Phú lắc đầu.

“Không, gã chỉ muốn… có chức vị gì đó.” Đằng hắng một tiếng, đưa mắt rất nhanh về phía cửa, Quảng Phú hạ giọng. “Chẳng giấu gì, gã là anh em của tôi, xuất thân cũng không tốt lắm. Không muốn lênh đênh rày đây mai đó, chẳng có cơ bản, gom góp được ít tiền thì nghĩ đến chuyện tìm một nghề nghiệp nào đó phục vụ triều đình, hưởng lương mà sống chứ không cầu xa hoa…”

“Họ Lâm này…?” Nghe lời nói, Như Yên đâm ra nghi hoặc, với tay lấy tấm thiếp trên bàn. Quảng Phú nhanh nhảu đáp lời.

“Gã tên Lâm Phi.” Gã nói thành tiếng cái tên nàng đang nghĩ trong đầu. Thấy nàng nhìn lên, Quảng Phú liền nhún vai. “Gã cứ nhất định đòi vào gặp công nữ, tôi bảo phải đợi đã.”

“Cần gì phải khách sáo?” Đặt tấm thiếp ghi mấy chữ nghuệch ngoạc xuống bàn, Như Yên mỉm cười. “Cứ gọi anh em của công tử vào đây, sắp trở thành người nhà, nên giúp đỡ lẫn nhau chứ.”

Được lời như cởi tấm lòng, Quảng Phú nhanh chóng đứng dậy, ra gọi kẻ đang đợi ở phòng bên vào, bản thân gã đứng lại ngoài cửa canh chừng. Vẫn ngồi sau bàn, Như Yên chỉ ngước mắt nhìn gã thanh niên vừa bước qua cửa. Đã mấy năm không gặp, Lâm Phi cũng không có vẻ đổi khác quá nhiều, trừ làn da gần như đã chuyển sang màu gụ. Dưới trời phương Nam mà gã vẫn quấn một mảnh lông gấu trên vai, bộ dáng cao to lừng lững choán hết một góc phòng.

“Lâu không gặp.” Như Yên mỉm cười lên tiếng. Miệng nhoành ra thành nụ cười không được tươi tắn cho lắm, Lâm Phi đến ngồi trên chiếc ghế mà Quảng Phú vừa bỏ lại. Như Yên nhìn vẻ mặt gã, nghiêng đầu. “Nếu muốn gặp ta thì cứ đến tìm, sao lại phải khách sáo thế?”

Lâm Phi đưa mắt nhìn nàng, nụ cười hơi đông cứng bên mép. Không chỉ đã lâu không gặp, từ lâu rồi nàng không biết tin tức của gã, Như Yên thầm nhắc mình. Là do gã đã chủ động cắt đứt liên lạc, không rõ từ bao giờ, có thể là sau khi việc xảy ra ở Đông Phố. Nàng cũng quá bận tâm đến nhiều việc khác để nhớ đến gã. Thi thoảng, khi sực nhớ ra, nàng lại cho rằng gã bất mãn khi bị ném đến Quy Ninh làm tặc khấu. Nhưng nhìn quan hệ của Quảng Phú và Lâm Phi hiện tại, có vẻ không phải là thế.

Nàng thật đã quên mất quá nhiều chuyện, Như Yên thầm thở dài trong lòng. Linh lão – Quảng Phú – Lâm Phi – và y, tất cả mối dây dường như đang tụ lại.

“Ta thật áy náy.” Hồi lâu không thấy Lâm Phi trả lời, Như Yên giữ nguyên ngữ điệu mà cười nói. “Vì công việc mà ta cử các người đến đây, cuối cùng lại thành bỏ rơi các người. Khi không nhận được tin tức của các ngươi, ta lo là đã có việc xảy ra. Xem chừng đã là gặp họa hóa phúc rồi.

“Họ hình như không biết quan hệ của ta và ngươi?” Hơi hất cằm về phía cửa, Như Yên hỏi. Thái độ của Quảng Phú ra vẻ như không biết Lâm Phi là người quen cũ của nàng.

“Tôi không nói.” Lâm Phi ngắc ngứ đáp lời. Ngừng một thoáng, gã nói nhanh. “Một lần thủy trại bị tấn công, Quảng Phú cứu tôi. Không muốn làm hại ai trong hai bên, tôi nghĩ chỉ cần lui về làm một thuộc hạ bình thường của y là được.”

“Nhưng vẫn muốn làm quan?” Như Yên lại cười. Lần này nghe thấy tin nàng kết giao với Linh lão, liệu tình hình chẳng biết được bao lâu, gã liền gấp gáp tới tìm nàng xin một chức lại thuộc nho nhỏ, âu cũng có thể hiểu được. “Vẫn còn liên lạc với Tư Tư cô nương?”

Lại một cái đảo mắt rất nhanh, trước khi Lâm Phi chầm chậm gật đầu. Nụ cười của Như Yên chợt sáng thêm mấy phần. Nàng nghiêng người qua bàn, nhìn thẳng vào mắt gã.

“Vậy ngươi hẳn đã biết, phải không, quan hệ của ta và nhóm người Tư Tư?” Nàng trầm giọng hỏi. Khi đầu Lâm Phi cứng nhắc gục gặc, nụ cười của nàng càng tươi hơn. “Như thế, vì lý do gì mà ta phải giúp ngươi?”

“Quan hệ của ngươi và Tư Tư, quan hệ của ngươi và người nơi này, quan hệ của Tư Tư và nhóm nổi loạn kia, ta ngốc sao mà giúp ngươi?” Nheo mắt, Như Yên nhịp ngón tay lên bàn, chậm chạp nhả từng lời. “Nếu như ngươi lợi dụng thời cơ, khuấy đảo nguồn hàng ở Bồng Sơn, câu kết với người Thượng đánh phá dân sở tại, khiến rối loạn bùng nổ khắp Quy Ninh này, liên kết với Chiêm Thành đánh Phú Yên ngược lên phương Bắc - thì sao đây hả? Đến lúc ấy, ta có mấy cái đầu để trả nợ?”

“Tôi không hề có ý như thế.” Lâm Phi vội vã ngắt lời nàng, gã thoáng vẻ bối rối. “Tư Tư có lần kêu gọi, tôi còn không chịu theo… Tôi thật cả đời làm quần quật chỉ cầu có nơi an ổn mà sống, còn cả anh em phải lo. Đánh nhau cho người Chiêm Thành để làm gì?”

“Nhưng nếu Tư Tư có liên quan, chẳng lẽ ngươi bỏ xuống được? Rất tiếc, người ta không dự liệu được mọi thứ.” Như Yên nhún vai thở ra, tựa lưng vào ghế mà khoanh tay nhìn kẻ trước mặt. “Bây giờ đang lúc rối loạn, người ta còn phải canh chừng cả tâm phúc, ta không đủ liều lĩnh để đem rắc rối vào mình. Ngươi làm thuộc hạ cho Quảng Phú cũng không tệ…”

“Nếu chỉ muốn xin một chức quan, tôi xin với Chiêm Thành chẳng được sao?” Lần này, đến lượt Lâm Phi nổi nóng. Gã nghiêng người về trước mà nghiến răng, hạ giọng nói. “Tôi muốn làm quan của Nam Hà, để lôi Tư Tư đi…”

Gã đột ngột im lặng. Vẫn khoanh tay, Như Yên chỉ nhìn gã, chờ đợi gã nói tiếp. Một lúc lâu sau, Lâm Phi thở ra một cái dài sườn sượt, đưa tay vò rối mái tóc trên đầu, nói mà không nhìn nàng.

“Tôi chẳng hiểu tại sao cô ta lại muốn đánh nhau đến thế, lại… gắn chặt với tên kia đến thế.” Gã lầm bầm nói trong cổ họng. “Lúc đầu cứ tưởng là nữ nhân mỏng manh hiền lành, ai ngờ hóa ra gián điệp. Bây giờ thì lại lang bạt khắp nơi, cặp kè với đủ mọi loại người, làm đủ mọi chuyện cho cái gã kia. Nếu cứ để yên, cô ta không bị giết ở đâu đó thì cũng hóa thành bà lão không chồng không nhà cả đời, để được cái gì chứ? Thà cứ lôi về nhốt lại, phá tan đám ấy đi cho khỏi còn gì để làm, có khi thế mới yên.”

“Vậy thì Tư Tư hận ngươi cả đời.” Như Yên mỉm cười, bình thản nói như tán ngẫu. Nàng đột ngột đổi giọng. “Vậy thì ngươi đến gặp ta đâu phải chỉ để xin chức quan?”

Lại một khoảng im lặng kéo dài. Lâm Phi mím môi mấy lượt, hết nhìn lên trần nhà đến cửa sổ rồi mới nhìn thẳng vào nàng.

“Tôi muốn phá đám người của Tư Tư. Chúng chỉ lôi kéo cô ấy vào những việc không nên.” Khi gã nói, nàng nghe tiếng răng nghiến nhẹ vào nhau. Bàn tay gã nắm chặt trên gối. “Công nữ, tôi biết trước đây không phải với người. Nhưng lần này, nếu có thể, tôi sẽ làm bất cứ điều gì. Việc này cũng có lợi cho công nữ.”

“Để phá đám người ấy, hả?” Như Yên vẫn chỉ lặng lẽ cười. “Nhưng có gì để ta tin ngươi?”

“Tôi biết nhóm người ấy ở đây.” Như thể đã chờ đợi câu hỏi ấy, hoặc đã nôn nóng muốn nói ra, Lâm Phi đáp ngay. Ánh mắt gã sáng rực một tia nhìn tăm tối kỳ lạ. “Nếu công nữ tin, tôi sẵn sàng đem bản thân ra trả.”

 

 

 

Chú thích:

[1] Đà Bồng: Nay là nguồn Thanh Bồng, thuộc huyện Bồng Sơn, Quy Nhơn.

[2] Nguồn: Một thuật ngữ phát sinh trong nền kinh tế hàng hóa Đàng Trong. Nguồn là cách gọi tắt của ‘chợ đầu nguồn’ – Hoạt động như những địa điểm tập trung hàng hóa và thu thuế tập trung từ các chợ nhỏ, từ núi đến miền trung du và đồng bằng. Người buôn bán mua hàng từ các chợ phiên hay từ các chợ nhỏ hơn, hoặc từ trong các làng, tập trung lại để đem đến nguồn. Các nguồn tạo nên một hệ thống rộng, do người Hoa làm việc ở vùng biển và đồng bằng, người Việt ở vùng đồng bằng và trung du, người Thượng ở miền núi. Mỗi nhóm đem hàng hóa về nguồn để trao đổi buôn bán với nhau, dưới sự kiểm soát và đánh thuế của nhà nước.

Thời chúa Nguyễn, các quan lớn trong triều đình có ngụ lộc là thuế của nguồn được cấp riêng cho, như Trương Phúc Loan có nguồn Trà Đinh – Trà Vân, mỗi năm nộp tiền thuế 2550 quan. Tại nguồn có quan trông coi nguồn để thu thuế. (Mà theo tài liệu của các giáo sĩ vào năm 1840, vùng An Sơn (Tây Sơn) chính là một trung tâm thương mại lớn của người Việt và người Thượng, được gọi là nguồn Phương Kiệu. Sau chiến tranh, An Sơn trở thành ranh giới của vùng Thượng và vùng Việt, không cho phép dân Việt vào đất Thượng cũng như dân Thượng vào đất Việt vượt qua ranh giới An Sơn.)

 




Hồi 10: Ký ức
Saturday, January 28, 2012 Author: Trường An

“Ta muốn về…”

Xuân Tử đưa mắt nhìn về phía tiếng rên phát ra, tay vẫn không ngừng gẩy bàn tính gỗ. Quấn tròn trong chăn chỉ ló đầu ra, Như Yên úp mặt vào gối mà than thở, tuy cũng chỉ dám nói thầm. Cô chẳng lạ gì với tính cách này của chủ nhân nên cũng để mặc, chăm chú lại vào sổ sách đang tính. Bên kia, Như Yên tiếp tục dùng giọng điệu đầy bất mãn mà nói với cái gối.

“Vịt ốm, ta sẽ lấy thêm mấy phần lợi tức hiệu buôn của ngươi, ta sẽ bảo Tàu Ty cục tăng thuế với ngươi, ta sẽ bảo quan Trấn thủ trù dập ngươi. Ngươi đem ta dâng cho lão cáo già rồi bỏ của chạy lấy người.” Bất chấp tai vách mạch rừng, nàng nghiến răng. “Lần này về, ta bảo Khám lý tăng thuế đồng loạt cho các ngươi biết tay.”

“Công nữ cẩn thận đừng gắp lửa bỏ tay người.” Bên kia, vẫn chăm chú vào những dòng chữ, Xuân Tử lên tiếng nhắc. Hiện tại là lúc có chiến tranh, thuế được thu tại địa phương đã cao hơn, nếu có sự bất ngờ phải tận thu thêm, lời nói của nàng sẽ trở thành bất lợi không chừng.

Cô nghe tiếng đấm vào gối, nhưng Như Yên không than thở nữa mà ngẩng mặt nhìn lên đỉnh màn, nơi bóng tối tràn ngập. Đêm đã về khuya, nàng mới từ gian nhà chính trở lại, ném cho Xuân Tử một chồng sổ sách mới, bản thân nằm vật xuống giường mà oán trách tất cả kẻ xung quanh.

Đây đã là cảnh tượng của mấy ngày liên tiếp. Từ khi Linh lão đầu ngỏ ý muốn ‘nói chuyện’ với nàng.

Hoắc Phương đã biến mất không thấy bóng dáng. Y đến mách cho Linh lão đầu về sự xuất hiện của Như Yên, và rồi biến mất - ‘đi về nguồn hàng phía Tây’ theo lời của người trong gia trang. Vốn dĩ, theo kế hoạch thì y phải đến thăm dò động tĩnh của những đồng bạn thương lái ở Quy Ninh, nhưng dường như y đã mặc nhiên đẩy hết tất cả việc ấy cho nàng. Để mặc nàng đối phó với đủ ‘tính toán, yêu cầu, sách nhiễu’ của những kẻ nhanh chóng đánh hơi được mối lợi từ cô công nữ con cháu Trần gia mà chạy đến.

Hẳn nhiên, câu chuyện ‘hàn huyên’ của nàng và Linh lão đầu đã nhanh chóng chuyển hướng về những mối lợi sẽ có khi cả hai hợp tác. Chuyển về Quy Ninh, nàng nói, và ngay lập tức được ‘gợi ý’ về những công việc có thể đem đến lợi nhuận ở vùng đất này. Quan lại của Nam Hà vốn không được triều đình cấp bổng lộc, đất phong dành cho họ cũng vô cùng ít ỏi, ngược lại, họ phải cung cấp cho triều đình những khoản thuế khóa hay bất cứ yêu cầu nào được báo xuống. Bổng lộc của họ được trả ngay chính tại vùng đất trị nhậm, dựa trên số lợi nhuận mà họ có thể tạo ra. Như thế, sự tồn tại của quan chức và những thế gia nắm giữ kinh tế của vùng đất đã gắn chặt với nhau, không thể tách rời.[1]

Linh lão đầu, cũng như tất cả các thương nhân khác, chẳng thể bỏ lỡ một cơ hội tìm kiếm thêm lợi nhuận và thế lực dưới cái bóng của một thái trưởng công nữ, Chưởng cơ phu nhân – hay đơn giản hơn, một thế lực cho phép họ vươn tay đến những vùng đất xa xôi, chiếm lĩnh những nguồn hàng, thao túng các cửa sông cửa biển, hoặc chỉ đơn thuần là giấy phép cho những món hàng bị hạn chế. Rất nhiều việc có thể làm, nhất là với một quyền lực nằm ngoài hệ thống quan lại của triều đình như nàng. Gợi ý cho nàng những món hàng có thể kinh doanh, những địa hạt có thể ‘kiếm nhiều lợi nhuận’, thậm chí, hào phóng hơn, cung cấp hàng hóa cho nàng không cần cả tiền vốn, cũng chỉ là cách mượn đầu heo nấu cháo.

Cứ thế mà mỗi ngày nàng bị lôi kéo vào kế hoạch này lẫn dự định nọ. Những số liệu đầy hứa hẹn và cả những sổ sách buôn bán được đưa tới chứng minh. Cả những thư lại địa phương thân cận với Linh lão đầu cũng đã tới, cung cấp cho nàng đủ mọi tư liệu nàng cần. Những sổ sách mà nàng đẩy cho Xuân Tử tổng hợp, khi đầu óc đã mụ mị sau một ngày dài tính toán đối phó với đủ mọi loại người. Thấy nàng chỉ là một cô gái trẻ, họ dường như càng cố khiến nàng bối rối hỗn loạn thêm. Họ đang cố khiến nàng hỗn loạn – khi ở nơi này, nàng chỉ có thể nhờ cậy vào một người duy nhất: Linh lão đầu.

Như Yên nghĩ thầm, nhẹ bĩu môi. Lão cáo già cứ việc ngồi chờ, để xem ai là người thua cuộc trước.

Hẳn nhiên, ông ta vẫn còn nghi ngờ thận trọng với nàng, tất cả những sổ sách số liệu này đều là thứ được thẩm tra kỹ càng để không lộ ra bất cứ sơ hở nào. Nhưng nàng cũng không đến đây để moi móc lỗi lầm hay sơ hở của thương gia này. Nàng cũng chẳng vờ vịt chùng chình do dự được mãi. Đến lúc thì nàng cũng phải lựa chọn liên kết với Linh lão này bằng hình thức nào. Tuy vậy, nàng vẫn muốn có một đồng bạn ở bên để bàn bạc tránh sai lầm. Không phải vì nàng nói muốn tránh điều tiếng, Hoắc Phương liền cứ thế tránh nàng càng xa càng tốt?

“Vịt ốm, về đây rồi ta sẽ luộc ngươi nấu cháo.” Lầm bầm, Như Yên nghĩ quanh quẩn rồi lại nổi giận. Vì y đã đi mất, Linh lão đầu tiện thể viện cớ muốn chờ y trở lại bàn bạc mà giữ rịt nàng ở hẳn gia trang này, mặc nàng thoái thác muốn trở về Nước Mặn. Như thể ông ta sợ nàng lại cùng với y tái diễn hoàn cảnh mấy năm trước, mà để bảo đảm lòng tin của ông ta, nàng phải miễn cưỡng lưu lại. Mỗi ngày đau đầu đối phó với đủ mọi hạng người.

Kể cả Quảng Phú và vợ gã, giờ thì nàng đã nhớ tên cô, Giang Hồng, tuy nàng vẫn quen gọi là Quảng phu nhân. Cô vẫn như đêm ấy, lịch sự và xa cách, nhưng bằng cách này cách khác, nàng cảm thấy như cô vẫn cố gợi lại chuyện cũ. Từ chiếc lược để trên bàn, bộ ly uống trà mỗi sáng cho tới cả chiếc áo, đôi giày thay đổi mỗi ngày, nàng đều cảm thấy chúng như được lấy ra từ dưới đám đất vụn ở Quảng Ngãi. Dù chẳng thể nào nhớ được chừng ấy chi tiết, nàng cũng phải chột dạ khi nghe khúc nhạc được tấu cho đoàn sứ giả Chân Lạp đêm ấy lại ngân nga đâu đó trong sân, hay chuyện người hầu cố tình bỏ qua việc nàng đang mang tang mà cứ thế đem bộ áo màu tím tới, viện cớ vẫn là sắc tang. Cái vẻ lãnh đạm rụt rè dè dặt của cô gái như thể xây một bức tường khiến nàng chẳng thể vượt qua dù chỉ để nói mấy câu trò chuyện thông thường. Do đó, với thái độ lẫn hành động trả đũa nho nhỏ (mà có phải là như thế?) của cô gái, nàng chỉ có thể im lặng cho qua, xem như không hay biết.

Quảng Phú lại có cách khác khiến nàng đau đầu, dù nàng cho rằng gã cũng không cố ý. Mỗi khi gặp nàng, không hiểu vì lý do gì, chủ đề yêu thích của gã lại là ‘Tử Hiên của cô nương’. Nàng ghét cách gọi ấy, nhưng chẳng lời nào nàng nói có thể lọt vào tai gã lục lâm võ biền này. Gã cũng ra vẻ chẳng hề nhận thấy thái độ ngày càng miễn cưỡng khó chịu của nàng mà thao thao bất tuyệt về kẻ mà người xung quanh nàng từ lâu đã tránh nhắc tới. Câu chuyện của gã khiến nàng cuối cùng cũng hiểu được chuyện đã xảy ra ở Phú Yên – nhưng đó lại càng chẳng phải là điều khiến nàng vui vẻ. Và mặc kệ khuôn mặt nàng đã mang sắc thái của đám mây bão cuối chân trời, Quảng Phú tiếp tục trầm trồ về phong thái của ‘kẻ giết người tuyệt hảo’ mà gã nhận ra đêm đó.

Kẻ giết người tuyệt hảo, đó có phải là một bộ mặt khác của hắn mà nàng không hề hay biết? Nàng đã từng thấy một phần bộ dạng ấy, ngày mà hắn bắt Quảng Phú về theo ý nàng. Nhưng chuyện đêm đó, nàng vẫn cho rằng một phần lỗi là của nàng; và hắn là một người lớn lên trong chiến trận, có sự phản kháng bộc phát đầy tính bản năng mỗi khi tính mạng bị đe dọa, sự bộc phát mà hắn cũng không khống chế được. Kẻ giết người? Nàng chưa bao giờ tưởng tượng ra bộ mặt ấy của hắn, cũng chẳng thể nào tưởng tượng được. Nhưng rốt cuộc, nàng đã hiểu gì về hắn?

Rốt cuộc, nàng hiểu gì về cái phần khuất tối lạnh lùng cùng cực mà nàng vẫn nhầm lẫn với sự mơ hồ mờ mịt trong hắn? Nàng hiểu gì về thứ lý trí rạch ròi không khoan nhượng mà nàng vẫn cho là sự tỉnh táo thông minh? Nàng hiểu gì về thứ thái độ kiêu ngạo dửng dưng mà nàng vẫn đánh đồng với sự ngông nghênh khờ khạo? Hắn giữ cho mình cái phần dửng dưng khuất tối không khoan nhượng, không ai có thể chạm vào hay lay động được, ngay cả nàng. Thậm chí, có thể là ngay cả bản thân hắn.

Nàng chưa bao giờ điều khiển được hắn. Hắn chưa bao giờ làm theo ý nàng. Thậm chí, hắn chưa bao giờ vì nàng mà đổi thay bất cứ điều gì mình muốn. Thậm chí, hắn cũng sẽ chẳng giữ nàng lại. Chẳng thanh minh, chẳng truy cầu, chẳng níu kéo, chẳng cố gắng, chẳng van xin.

Khi quay lưng đi ngày ấy, nàng đã ngẩng nhìn đám lá rơi xuống triền đồi. Và trong khoảnh khắc nghi hoặc cực cùng mà tự hỏi: Có phải là gió đã khiến lá rơi?

“Ta muốn về…” Vùi mặt vào gối, nàng lại cắn môi mà rên lên. Ở nơi này lâu hơn, không phải Quảng Phú thì cũng là vợ gã sẽ bức nàng phát điên. Nàng chỉ e đến lúc không chịu đựng được thêm thì sẽ quát vào mặt cả hai người để khiến họ ngậm miệng hay thôi những trò họ đang làm. Nàng đã chuẩn bị để đối phó với đủ mọi tính toán âm mưu, nhưng không phải là những câu chuyện hàn huyên nhắc nhớ kiểu này. Những loại chuyện tủn mủn nhỏ nhặt như thể một điệu nhạc lúc chiều tà hay lời nói vu vơ bên bàn nước cũng đủ khiến tim ngừng đập trong khoảnh khắc và tâm trạng u ám kéo dài không cách nào chợp mắt trong đêm.

Xuân Tử lại liếc mắt nhìn cô gái đã cuộn tròn dưới tấm chăn rộng, nhưng vẫn không lên tiếng. Những ngày này, ở cạnh Như Yên, cô cũng đã nghe được mất những chuyện Quảng Phú nói. Tuy vậy, thêm một lời của cô cũng chẳng có ích gì. Nàng không cần bất cứ lời an ủi hay thậm chí một câu góp chuyện nào, chúng chỉ khiến nàng tức giận hơn. Những chuyện cũ luôn khiến nàng tức giận – nếu đó là một mô tả chính xác về phản ứng của nàng.

Cô nghe tiếng Như Yên lăn qua trở lại trong giường một lúc, rồi nàng trở dậy, vuốt lại tóc, với tay lấy chiếc khăn đầu giường định ra giếng rửa mặt. Đây cũng là hành động bình thường của nàng mỗi tối, Xuân Tử quyết định ngồi ở lại đọc sách, không đi theo.

Khi đẩy cửa bước ra hành lang, Như Yên phải chớp mắt trước ánh trăng rạng rõ sáng rực khoảng sân trước nhà. Đám mây mù ban chiều đã bị gió cuốn đi, để lại khoảng trời trong vắt, trăng tròn vằng vặc tỏa sáng như ánh nắng đêm. Khu vườn rộng nhưng chỉ trồng ít bụi cây cùng vài trảng cỏ nhỏ, để khoảng trống tràn ngập ánh trăng chói mắt. Bốn phía, núi cao rì rào tiếng lá bao phủ khu gia trang, càng khiến cho không gian như bị thu hẹp lại, sương cùng bụi cuốn tròn trong gió tựa như làn nước vàng sóng sánh. Đêm đã khuya, hầu hết nhà trong gia trang đều đã tắt đèn, đèn trong hành lang cũng đã bị gió thổi tắt ít nhiều. Nhưng dưới ánh trăng này, nàng có thể đi lại mà không cần đem theo đèn. Như thể bị ánh trăng thôi miên, nàng đi vòng qua dãy hành lang, bước về phía bóng mái hiên đổ xuống, cách xa với hướng của giếng nước nàng đang định tới. Nhà trong gia trang được xây thành từng dãy theo kiểu chữ Hồi, mỗi dãy cách nhau một khoảng sân vườn rộng, được nối bằng một hành lang nhỏ tránh mưa. Bước khỏi dãy hành lang, nàng đi bằng con đường dành cho xe ngựa qua lại, nép dưới bóng của hàng giáng hương trồng hai bên đường. Sương mỏng như khói đọng lại trên lá cỏ, đôi lần chạm vào tay nàng lành lạnh.

Chỉ định lang thang ngắm trăng một lúc, nàng chợt nhận ra mình đã đi vào con đường dẫn lên núi. Con đường năm nào nàng đã dùng để dẫn dụ Thắng lão đi theo, hiện tại đã bị đóng lại bằng một dãy rào lởm chởm chông nhọn. Dừng chân đứng lại, nhè nhẹ cau mày, Như Yên quyết định quành về bằng đường bọc hàng rào gia trang. Tâm trạng vẫn còn buồn bực, nàng không hề muốn vội vã trở lại gian phòng đóng kín cửa để nhìn những chồng sổ sách trêu ngươi, chịu đựng sự im lặng của Xuân Tử.

Gần cuối năm rồi, khoanh tay trong áo khi cơn gió lạnh thổi qua, Như Yên vừa ngẩng nhìn trăng tròn ngày rằm vừa thầm nghĩ. Đã là rằm tháng chạp, chỉ hơn mười ngày nữa là đến Tết Nguyên đán. Tết năm này, Hoắc Phương chẳng biết đã chịu trở về để nàng có thể tránh thoát khỏi nơi đây? Ăn Tết ở gia trang này thật ra cũng không tệ, nếu như nàng đã không hứa trở về thăm người của Trần gia. À phải, nàng có thể lấy họ Trần lẫn họ Nguyễn làm cớ để xin phép trở về Nước Mặn. Linh lão chẳng có lý do nào để ngăn cháu dâu thực hiện nghĩa vụ với gia đình chồng.

Gia đình chồng, Như Yên cười một mình khi nghĩ đến những từ ấy. Những từ xa lạ với nàng ngay cả bây giờ. Nàng chẳng biết ai trong số họ, cũng như họ Trần đã không muốn tiếp nàng. Nhưng bất cứ mối quan hệ nào cũng cần phải được xây dựng, không phải là thứ sẵn có. Ở nơi này, không có những mối quan hệ cần thiết, nàng sẽ chẳng là gì. Người duy nhất có thể bảo vệ nàng, bảo vệ nàng vô điều kiện, đã không còn nữa.

Cũng gần đến ngày rồi, nàng nghĩ khi cơn lạnh ân ẩn thấm vào sau cổ. Tháng sau sẽ là ngày giỗ lần thứ hai của ngài ấy. Theo lệ, nàng đã có thể bỏ áo tang, nhưng nàng vẫn muốn giữ đủ ba năm. Có lẽ nàng sẽ viết thư cho vị chúa hiện tại, khất việc không thể về Phú Xuân. Năm ngoái nàng cũng đã không về, nhưng năm nay thì nàng có lý do hợp lý.

Nói thật ra thì nàng vốn ghét bỏ mọi hình thức tế lễ linh đình. Những hàng người sắp theo tôn bậc để đến cúi đầu theo thứ tự, bày tỏ một bộ mặt tiếc thương thành kính theo lễ phép. Tiếng xướng lễ, tiếng trống chiêng, mùi nhang khói, sắc màu của võng lọng màn chiếu. Tất cả đều khiến nàng nhức mắt, ong ong trong tai thành một tạp âm hỗn độn đến khó thở. Vì những đồ dùng lễ trượng được sử dụng ấy hẳn có mấy phần do nàng chỉ đạo làm từ ngày trước, nàng sẽ không ngăn được ý muốn đến xé tan chúng ra.

Nói thật thì nàng không muốn trở lại Phú Xuân. Con người, nhà cửa, đền đài, cung điện, phố phường cho đến từng lá cây ngọn cỏ nơi ấy đều gợi nhắc nàng về một giấc mơ nặng nề đến khó thở. Một giấc mơ nhòa nhạt, không rõ hình hài, tràn ngập những khuôn mặt cùng hàng dài người lướt qua, lướt qua trong một thứ tiếng động ong ong vang mãi không ngừng. Thời gian hàn gắn cho nàng vài vết thương, phủ mờ đi một vài ám ảnh, ngoại trừ giấc mơ thỉnh thoảng trở lại trong đêm. Nàng không thể nhớ chi tiết của những chuỗi lửa chớp tắt trong sương, làn nước mờ bụi mù cuồn cuộn khói, hay sự thinh lặng khôn cùng đã đổ đầy trong thanh âm ồn ã ngày ấy. Trong nàng chỉ còn vài mảng màu loáng thoáng của tiếng động và hình hài. Những giấc mơ trở đi trở lại trong đêm, như những đêm ngày nàng quỳ bên linh cữu cứ thế mà kéo dài ra mãi mãi. Nàng không thấy bất cứ ai trong số họ, những người quỳ xung quanh nàng, những kẻ đến và đi. Nàng không nghe thấy bất cứ thanh âm nào, từ tiếng kinh cầu của các nhà sư tụng niệm, tiếng khóc hờ hay tiếng lao xao của đám đông. Tất cả đã trộn lẫn thành cơn mộng mị hoang đường, bị đẩy về một cõi xa tít tắp. Khi tỉnh dậy, nàng đã thấy mình trở lại căn phòng của nàng ở nhà chồng, với Xuân Tử cạnh bên. Cô im lặng, như đã luôn luôn không nói về những gì đã xảy ra ngày ấy. Cô cũng chỉ im lặng tuân lời khi nàng bảo cô sắp xếp cho mình một chiếc thuyền để trôi xuôi theo dòng sông.

Trôi xuôi theo dòng sông, nàng sẽ gặp hắn. Nàng luôn biết hắn sẽ ở bên ngoài chờ đợi. Nhưng nàng đã mệt mỏi đến mức không còn có thể nói thành lời, không thể nghĩ suy. Nàng mệt mỏi đến mức không thể nhìn thẳng vào hắn. Oán hận hay giận dữ, nàng cũng không thể biết rõ. Bây giờ, nàng cũng không biết. Nàng đã không hỏi hắn bất cứ điều gì. Có thể hắn đã giải thích, nhưng nàng không nghe được lấy một lời hắn nói. Những ngày ấy, nàng không nghe, không nhìn được bất cứ điều gì ngoài bản thân. Tất cả những gì nàng muốn là được ở một mình, và chỉ cần nhìn thấy hắn, cơn chuếnh choáng ngay lập tức trở lại ong ong trong tai, tràn ứ lồng ngực. Trạng thái ấy chỉ bớt đi sau khi linh cữu của vị chúa được đưa về nơi an nghỉ. Khi ấy, mùa xuân đã qua, để lại nắng chói chang trên đỉnh núi và bầu trời. Nàng nhìn khoảng không trống thênh tràn nắng dưới bầu trời, cảm thấy như mình vừa tỉnh dậy từ giấc mộng muôn kiếp trước.

Nhưng nàng cũng không hối hận về những gì mình đã quyết định. Câu trả lời, đúng như anh trai nàng đã nói, chẳng phải là quan trọng. Thứ quan trọng duy nhất là điều đã xảy ra, kết quả của nó. Nàng sẽ vĩnh viễn không thể nhìn thẳng vào hắn mà không cảm thấy cơn ác mộng kia trở lại. Vĩnh viễn, đúng theo những gì y đã nói, nàng không bao giờ có thể tha thứ cho chính mình.

Vậy thì, cắt đứt trước khi kịp nhận ra, có khi chẳng phải là điều không tốt. Không bao giờ muốn nhìn thấy hắn, lời nàng nói chẳng phải là không thật.

Ngày ấy, dưới ánh nắng tràn ngập khoảng trống dưới bầu trời, lấp lóa đổ tràn mặt nước, nàng đã nghĩ về những ngày sẽ đến của đời mình với cảm giác của kẻ vừa qua một giấc mơ dài. Nàng đã nghĩ đến cách để sống những năm tháng chỉ còn lại một mình, chứ không phải về những gì đã qua. Tất cả đã đi qua, bọn họ, và ngay chính cả bản thân nàng. Trong một cái chớp mắt, thế giới đổi thay. Và có đổ bao nhiêu nước mắt cũng chỉ là vô ích.

Hắn đã từng ở đó, làm một khúc cây mục cho nàng dựa dẫm. Nhưng – mà nàng căm ghét sự rõ ràng thông suốt lạnh đến thấu xương của y biết bao – đó là sai lầm của cả hắn lẫn nàng. Hết lần này đến lần khác, nàng vọng tưởng níu kéo lại chút hơi ấm, hóa ra chỉ nắm trong tay được một giấc mơ. Cả hai đã gây tổn thương cho nhau đến mức không thể chữa lành.

Nàng vẫn muốn biết tin tức về hắn, chẳng phải vì không có một phần thật lòng quan tâm. Con người ấy, kể cả cái phần tối tăm xa cách lạnh lùng dửng dưng thường trực, vẫn đã vì nàng mà ở lại, trở lại. Nàng không xót thương, cũng chẳng hề muốn níu kéo hay luyến tiếc, nhưng vẫn quan hoài. Nàng vẫn muốn có được sự khẳng định một lần và vĩnh viễn: dù có hay không có nhau, cuộc đời vẫn cứ trôi đi. Một ngày nào đó, nghe tin hắn tìm được bến đỗ cho mình, nàng sẽ có thể vĩnh viễn ném đi giấc mộng xưa, không cần lay động dù chỉ thoáng qua trong ký ức. Cũng không cần giận dữ hay phiền muộn khi gợi nhắc, như thể về cuộc đời của một người khác.

Như bây giờ thì nàng vừa bực bội vừa phiền muộn, không chỉ với vợ chồng Quảng Phú, mà cả bản thân. Hai người bọn họ, bằng cách này cách khác, gợi lại những kỷ niệm cũ, bằng chính những gì nàng đã bỏ qua, đã không thể thấy được. Ngày ấy, bằng cách nào nàng có thể nhận thấy mình đã lưu tâm đến hắn nhiều hơn nàng tưởng? Ngày ấy, nàng đã hiểu gì về hắn, về mình, về xung quanh và tất cả? Tất cả, khi được nhắc lại, khiến nàng cảm thấy mình như đã mơ ngủ suốt cả nửa cuộc đời. Tất cả, được gợi nhắc lại như một điều đã vĩnh viễn xa tầm tay với, đẹp đẽ chỉ để u sầu. Càng hiểu rõ, càng chông chênh.

Ngay cả đứng ở nơi này cũng khiến nàng nghĩ đến chuyện không muốn nhớ. Vị hương của thạch xương bồ và hơi ấm phảng phất trong gió mưa. Những gì tưởng chừng không thể buông tay, rốt cuộc cũng đã đi qua, để lại vị đắng vương mãi.

Chìm trong suy nghĩ, nàng bước đi mà chỉ thấy ánh trăng tràn ngập. Với một cái rùng mình ớn lạnh từ đầu đến chân, nàng chợt đứng chựng.

Chìm trong ký ức, nàng phải mất một khoảnh khắc để nhận ra hình bóng trước mặt không phải do nàng tưởng tượng.

Dưới ánh trăng vằng vặc, phảng phất như không người cảm thấy, trên triền đồi cao cheo leo giữa đá và thạch xương bồ, vẫn như trong đêm ấy, tà áo lướt qua ký ức nàng như làn gió rạch đôi khoảng không.

 

 

 

Chú thích:

[1] Triều đình Nam Hà không trả bổng lộc cho quan lại bằng tiền và đất đai như ở Bắc Hà. Hàng ngũ quan lại cao cấp cho đến nhà chúa chỉ được cấp từ 1 đến 10 mẫu đất. Bổng lộc của họ là ngụ lộc từ phía người dân. Tùy theo phẩm cấp, các quan lại được cấp cho một số phu hầu, và bổng lộc của họ là tiền thuế thân của số phu hầu này. Và chính các quan cũng phải nộp số tiền thuế khá lớn cho triều đình dưới hình thức lễ vật hay tiền lễ. Như năm 1725, chức Tướng thần nộp tiền thượng lễ 35 quan, nội lễ 7 quan, cùng 7 quan tiền lĩnh bằng và ngụ lộc cho các quan là 49 quan…Giống như các nước phương Nam như Chân Lạp hay Xiêm La, Nam Hà cũng có chế độ nộp tiền để trao quan tước. Số tiền thực thu của triều đình có khi còn nhiều hơn ngụ lộc của các quan. Cho nên, ngoại trừ một số quan lại cao cấp họ hàng với nhà chúa, các quan địa phương của Nam Hà phần lớn là những thế gia có tiền tài nhất định. Trong thời gian khai phá đất mới, họ Nguyễn dựa vào các thế gia, địa chủ này để ổn định tình hình, khai phá đất đai, nộp thuế cho nhà nước…Hình thức này tiếp tục diễn ra ở Nam Bộ, khi triều Nguyễn để dân chúng tự do khai phá đất mới, lấy đất ấy làm của riêng, dần dà hình thành nên một tầng lớp địa chủ sinh ra sau quá trình mở đất. Mà đến năm 1839, với tình hình ruộng tư chiếm gần hết đất đai ở Bình Định, phần lớn nằm trong tay địa chủ với phân cấp giàu nghèo quá mức, triều đình phải ra lệnh cải cách ruộng đất ở Bình Định nhằm san lấp bớt chênh lệch này, đưa một số ruộng tư trở thành ruộng công sao cho công tư bằng nhau. Việc này gây ra sự phản đối gắt gao, năm 1853, quan lại dâng sớ xin trả đất tư lại cho Bình Định.

Sự tư hữu đất đai ở miền đất Nam Hà trở vào là kết quả tất yếu của quá trình khai hoang, và triều Nguyễn sau này cũng e ngại phải xâm phạm đến sự sở hữu đất đai hợp pháp này – khi đất ấy được khai phá và trở thành sở hữu truyền đời của tư nhân. Đặc điểm này của Nam Hà khác với Bắc Hà vốn đã được đặt dưới sự quản lý lâu đời của nhà nước và ruộng đất cũng đã được khai khẩn từ lâu, có nơi đất đai địa chủ chiếm ưu thế, có nơi nông dân tự canh, nhưng chủ yếu địa chủ vẫn chỉ sở hữu đất đai vừa và nhỏ. Sự tự do khai phá mở rộng đất mới khiến Nam Bộ có những đại địa chủ có hàng chục ngàn mẫu đất.

Thời kỳ đầu dưới thời các chúa Nguyễn, quan lại được bổ sung dưới 3 hình thức: tiến cử, khoa cử và nộp tiền. Điều này dẫn đến sự bất cập khi triều đình không thể quản lý được hệ thống quan lại – hay khi chính triều đình trở nên suy đồi, như thời kỳ của Trương Phúc Loan. Thuế tăng quá cao để đáp ứng nhu cầu của triều đình, dẫn đến hệ thống quan lại cấp dưới buộc phải lấy nhiều hơn ở kẻ dưới. Cùng với khủng hoảng tiền tệ khiến kinh tế suy sụp, thuế tăng thực chất đánh vào tầng lớp địa chủ, phú hào lẫn thương gia – và cả quan lại cấp dưới. Như Nguyễn Nhạc “tiêu hết tiền thuế nên trốn đi”, và quân Tây Sơn ban đầu có Tập Đình, Lý Tài là những thương buôn người Tàu, và cả những địa chủ địa phương. Cơ cấu quan lại này sau đó đã được thay thế bằng lớp quan trị nhậm được bổ nhiệm ăn lương của nhà nước, tách bạch với tầng lớp địa chủ. Hệ thống ruộng đất tịch điền hay đất phong cho quan lại cũng bị bãi bỏ vào giữa thế kỷ XIX. Tuy nhiên, đến giữa thế kỷ XIX, đất đai Bình Định phần lớn vẫn nằm trong tay tư nhân, mà sự cải cách của vua Minh Mạng chỉ khiến rối loạn bùng nổ.    

 




Hồi 9: Kết tóc
Tuesday, January 24, 2012 Author: Trường An

Khi Như Yên rời khỏi quán ăn, trời đã đổ mưa.

Cơn mưa phương Nam sầm sập, dầm dề, mang chướng khí từ đầu sông, hướng núi phả đến lạnh gai người. Đứng trước cửa quán chờ xà ích đánh ngựa tới, nàng bỗng thấy trước mặt có bóng đen chắn lối. Một người đàn ông trung niên đứng trước nàng, tay khoanh trong áo, khi nói chỉ hơi nghiêng vai.

“Tiểu thư, Linh lão gia có lời mời.” Ông ta nói, thậm chí Như Yên không chớp mắt. Nàng cũng chẳng cần hướng ánh nhìn ra phía sau lưng ông ta để thấy một toán người nho nhỏ trùm kín nón áo lá. Nàng nghe Xuân Tử thở nhẹ sau lưng, liền gật đầu.

Thay vì về nhà trọ, chiếc xe ngựa của nàng xuyên màn mưa mà đi qua Nước Mặn, hướng về phía cánh rừng nằm giữa Thị Nại và Kẻ Thử.

Nàng vẫn còn nhớ chuyến đi ngày trước, khi kẻ dẫn đường loanh quanh hết cả ngày trong rừng để đưa bọn nàng từ Thị Nại về gia trang của Linh lão đầu. Nước Mặn là một phố chợ, Thị Nại là một bến cảng, người như Linh lão cần một nơi an toàn và xa cách hơn để xây dựng cơ ngơi - mà cũng là căn cứ riêng của mình. Nhưng bây giờ, có lẽ vì đã muộn, cũng có thể vì mưa lớn, toán người dẫn đường thẳng lộ mà đi. Tuy nhiên, đường lộ ở vùng này vốn đã bị phong tỏa, họ phải quành qua những lối đi nhỏ hơn lấm bùn. Trong xe, mệt mỏi vì hành trình dài, Như Yên gối đầu lên chân Xuân Tử, nửa thức nửa ngủ. Khi nửa đêm, xe đến trước cửa gia trang của Linh lão đầu, Xuân Tử lay nhẹ vai nàng. Như Yên chớp mắt, thấy bóng của chiếc cầu qua hào đang hạ xuống phía bên kia rèm, che mất một nửa khoảng sáng nhòa nhạt hắt qua màn mưa.

Trong gia trang vẫn yên lặng. Những gian nhà san sát nhau trong khoảng đất rộng đã chìm vào bóng tối, chỉ còn vài ngọn đèn leo lét treo dưới mái cột. Đoàn ngựa xe đi thẳng đến dãy nhà chính, nơi có vẻ vẫn đông đúc, đèn thắp sáng trong nhà, ngoài cửa vẫn còn năm sáu kẻ đứng canh. Như Yên đợi cho đến khi có người mang ô tới rồi mới mở cửa xe.

Đón nàng, từ bậc thềm đến gian nhà trong, chỉ là khoảng im lặng tràn đầy. Sấm đã nổ đâu đó sau chỏm núi, nhưng thậm chí chẳng làm người xung quanh động đến một cái mi mắt.

Gian nhà giữa thắp sáng đèn, nhưng không đông người. Ngồi ở giữa hai hàng ghế kê dọc căn phòng hẳn dùng để hội họp thường ngày, chỉ là Linh lão đầu và Quảng Phú. Kẻ mới đưa nàng đến khom người báo cáo rồi lặng lẽ rút lui. Như Yên thấy tay áo nàng lay động như thể Xuân Tử đã chạm vào trong một cử chỉ rất nhanh.

Nhưng nàng chỉ khoanh tay đứng lại trước dãy ghế dài. Trước ánh mắt hai người đàn ông - một tối tăm như đêm, và một ánh lên hoang dại như mắt dã thú. Linh lão đầu không đổi khác, vẫn bộ dạng văn nhã với chòm râu được chải chuốt kỹ lưỡng, trường bào gần chấm đất, gương mặt xương xương với những đường nét dài và hẹp. Quảng Phú trông lại khác hẳn với lần cuối nàng nhìn thấy gã. Râu tóc vẫn bờm xờm tuy đã được cắt tỉa, nhưng y phục chỉnh chu, lụa là kết hợp với những đoạn đai lưng, xà cạp, giáp tay bằng da bóng loáng, đao đeo bên hông để lộ cái chuôi bằng vàng chạm trổ tinh xảo, vẻ hoang dã của gã trước kia đã trở thành nét đường bệ đầy đe dọa. Khi nhìn nàng, sau hàm râu rậm, gã dường như đã thoáng một nụ cười.

“Lâu không gặp.” Là nàng lên tiếng trước, vai không động, giọng nói mềm nhẹ như cười. Nàng thấy mi mắt Linh lão chớp nhẹ, trước khi Quảng Phú lên tiếng trả lời nàng.

“Lâu không gặp, tiểu thư… hay trưởng công nữ, hay là Chưởng cơ phu nhân?” Gã cười nói, trong ánh mắt lại sáng lên sự thích thú không che giấu. Gã luôn là kẻ thích thú trước những điều kỳ quặc mới lạ. Trước đây, khi Như Yên tìm cách bắt gã về, sai phái gã đi làm việc cho nàng, gã đã lờ mờ nghĩ đến thân phận kỳ lạ của nàng, tuy không muốn đào sâu thêm. Thân phận của nàng còn vượt xa ý nghĩ của gã. Tuy vậy, gã chẳng có thù oán nào với cô công nữ này, nếu không muốn nói, chính nàng tạo ra cơ hội cho gã có được ngày hôm nay.

“Phương tiểu thư, ta nên nghĩ ra, đó là một cái tên.” Linh lão nhẹ nói trong cổ. Ngược lại với Quảng Phú, ông ta chẳng có một tia thiện ý nào trong ánh mắt lẫn giọng nói. “Cô lại đến đây.”

“Tất nhiên ta phải đến, vì đây là xứ sở nhà chồng ta.” Như Yên cười, đáp lại lời nói của hai người kia như sự đương nhiên nhất đời. “Cống Quận công, Lộc Khê hầu, Thuận Nghĩa hầu đều lấy Quy Ninh làm quê hương xứ sở, điền trang phong địa, đền miếu lăng thờ cũng đều ở đây. Chưởng cơ Phò mã nhận lệnh đến Bình Khang, ta cũng phải nghĩ tới chuyện chuyển về nơi này lập nghiệp thôi.”

“Chuyển về nơi này?” Quảng Phú bật ra một tiếng cười, liếc mắt về phía người cha vợ. “Xem ra, Hoắc bang chủ nói đúng.”

“Đã là bè phái của nhau, sao lại không rõ.” Linh lão vẫn không chuyển nét mặt, hầm hừ nói. Bên kia, Như Yên nhướn mày, nhưng không có vẻ ngạc nhiên.

Hẳn nhiên, Hoắc Phương đã tiên liệu đến việc gì sẽ xảy ra khi nàng xuất hiện tại Quy Ninh. Buổi sáng, khi đến gặp Linh lão đầu, hẳn y đã rào xa đón gần mà đem thân phận nàng nói ra trước khi có điều bất lợi. Dù sao ‘danh tiếng’ của y cũng như của Hoắc gia từ lâu vốn đã gắn liền với những mối quan hệ mờ ám, với những thế lực mà dù không nói ra nhưng người xung quanh cũng đều hiểu rõ ít nhiều. Vậy thì y có đem tất cả trách nhiệm lẫn tội lỗi đổ cho nàng cũng chẳng khiến ai ngạc nhiên hay thắc mắc. Quả thật, chuyện năm xưa, trách nhiệm phần lớn đều ở nàng, mà y có đem sự thật ấy nói ra cũng không làm nàng phật lòng.

Vì có y tiết lộ thân phận thật của nàng, đã đỡ đi cho nàng bao nhiêu rắc rối không cần thiết. Công nữ, Chưởng cơ phu nhân, cháu dâu của Cống Quận công, với bấy nhiêu thân phận, nàng có thể đường hoàng đứng nơi đây, không hề e ngại. Đầu chiều tối, nàng vừa bước chân ra khỏi nhà của họ Trần. Và sự có mặt của nàng, hiện tại, có lẽ đã được báo đến tận dinh trấn Quy Ninh.

Trong giọng điệu của Linh lão đầu, nàng nhận thấy cơn giận dữ xen lẫn với sự cay đắng, được che giấu bằng sự đề phòng đầy cảnh giác. Ông ta giận dữ, tất nhiên. Nhưng còn đáng giận dữ hơn nữa khi biết được chân tướng những gì đã xảy ra ngày ấy, biết sự bất khả xâm phạm của nàng bây giờ. Và sự xuất hiện trở lại của nàng, cùng tuyên bố ‘ lập nghiệp nơi đây’, như gióng một hồi chuông đầy đe dọa.

“Vậy thì Hoắc bang chủ hẳn đã nói rõ, nguyên nhân khiến ta gây ra chuyện năm xưa chỉ là Thắng Bình.” Mềm mại mỉm cười, nàng nhìn thẳng vào Linh lão, trầm giọng nói. “Ta và ông ấy có vài chuyện khúc mắc, liền đến đây bắt ông ta đi. Những chuyện sau đó, chính ta cũng không khống chế nổi.”

Dù sao, điều này cũng là sự thật. Nàng không khống chế nổi cục diện rối loạn, đến chính bản thân cũng phải trốn chui trốn nhủi về lại Phú Xuân, Thắng lão cũng sổng khỏi tầm kiểm soát, gây chuyện suốt một năm trời sau đó ở Quy Ninh. Nếu Hoắc Phương cứ theo đúng sự thật nói ra, nàng chẳng có gì phải e sợ.

“Vậy thì kẻ đồng bạn với công nữ lúc ấy là gì vậy?” Lần này, Quảng Phú lên tiếng trước Linh lão. Vẫn có vẻ thích thú ngấm ngầm trong gã, khi gã hơi nghiêng người qua tay ghế mà hỏi. “Kẻ đã đến Phú Yên ngăn cản ta, rồi đi cùng đoàn sứ giả Chân Lạp đến Quảng Ngãi cùng công nữ diễn một đoạn bi hài kịch, nghe nói còn xuất hiện ở cả Phú Xuân. Việc gì công nữ cũng góp mặt, như thế lại bảo là không định trước?”

“Việc gì ta cũng làm, không có nghĩa là ta nhắm vào các vị.” Như Yên nhún vai, giọng nói vừa uể oải vừa độ lượng như thể miễn cưỡng mà giải thích. “Kẻ kia, tên gọi Tử Hiên, là người ta nhặt được ở bên đường, làm thuộc hạ cho ta một thời gian. Khi ta bảo Quảng công tử đây đến Phú Yên, ta nói gì hẳn công tử còn nhớ rõ? Kẻ kia lai lịch bất minh, nắm giữ số tài sản quá lớn chỉ khiến người ta nghi ngờ. Ta có nhắm vào lão ta hay kho báu ấy cũng đều là chuyện bình thường. Sau đó, ta đến Quy Ninh bắt Thắng Bình, liên lụy đến tất cả mọi người nơi này, nhưng hẳn ta cũng không có ba đầu sáu tay để khiến chừng ấy người nổi loạn? Linh lão gia bắt ta đến Quảng Ngãi, Hoắc Phương lại chẳng phải là thân thuộc đáng tin, ta thân cô thế cô, bắt buộc phải tìm kế bảo toàn cho mình nên mới bày cho tên thuộc hạ kết thân với lão gia. Nhưng hẳn cũng không ai nghĩ ta lại có thể quay tất cả đầu pháo vào trong gia trang, hay ta có thể phân thân đi đốt pháo bắn vào nơi chính mình đang ở? Lần ấy, ta cũng may mắn mà thoát thân được, nếu không trốn đi thì ngay mạng mình cũng còn khó giữ. Tuy ta làm nhiều việc bất minh, lừa gạt Linh lão gia đây vài chuyện, nhưng bảo ta có ý hại người thì quả là quá đề cao phận nữ lưu như ta đây rồi.”

“Còn kẻ tên gọi Tử Hiên kia, hành động của hắn, ta không quản được.” Nhíu mày một cái rất nhanh, Như Yên thở ra. “Hắn cũng là kẻ lai lịch bất minh, hành tung mờ ám, ta đã đuổi đi từ lâu rồi.”

“Đáng tiếc!” Quảng Phú thở dài. Trước ánh mắt của Linh lão đầu, gã liền hắng giọng. “Vậy thì, công nữ nói ‘muốn ở lại đây’ là có ý gì?”

“Ý gì?” Như Yên hỏi lại, như thể không hiểu. “Lấy gà theo gà, lấy chó theo chó, đó là đạo nghĩa xưa nay. Ta muốn về quê chồng thì có điều gì lạ? Ta dù có không ở tại Quy Ninh thì cũng phải ghé lại luôn. Nhân đây ta cũng muốn đến gặp các vị để xin lỗi chuyện ngày xưa. Trong việc ấy, chẳng ai trong chúng ta có lợi, sao lại phải đi cắng đắng nhau?”

“Công nữ nghĩ thật đơn giản.” Linh lão đầu lên tiếng, mắt vẫn chỉ nheo lại như hai nét mực hẹp. “Nghĩ ra, thiên hạ này là của họ Nguyễn, công nữ muốn đi đâu ở đâu thì cứ việc theo ý thích của mình mà thôi.”

“Đúng vậy.” Như Yên đáp lại bằng sự bình thản tương tự. “Ta đường hoàng mà đến, đường đường chính chính xin lỗi các vị, chẳng qua chỉ là muốn hòa giải chuyện xưa. Còn việc ta ở đâu đi đâu, ngoài chúa công, ta không cần phải xin phép bất cứ ai.”

Quảng Phú cau mày. Trong ánh lửa, nét mặt Linh lão đầu sắt lại như đá.

Nàng ta đã quay trở lại, nhưng không còn dưới bộ dáng của cô gái nhỏ khi xưa. Ngay cả trong bộ tang phục, nàng cũng đã bộc lộ tư thái ngạo nghễ cao cao tại thượng, giọng nói nhỏ nhẹ mềm mại mà không hiền dịu, cũng chẳng chút nhún nhường. Đứng nơi đây, trong căn cứ của kẻ thù cũ, nàng ta chẳng hề động một mi mắt e sợ. Đúng hơn, bộ tang phục trên người nàng đang toát ra quyền lực của riêng nó. Bộc lộ thân phận và mối liên hệ của nàng với quyền lực mà không ai có thể xâm phạm đến trên vùng đất này. Bộ áo trắng giản dị, mái tóc xõa dài không trang sức khiến khuôn mặt nàng càng nổi bật hơn với đôi mắt sắc, vẻ xinh đẹp được thời gian mài giũa thành kiêu kỳ cô độc như vầng trăng giữa bầu trời. Như vầng trăng giữa bầu trời, nàng tỏa sáng trong bóng tối vẻ lạnh lẽo gai người mà u uẩn khôn cùng, khiến kẻ đối diện bất giác mà e ngại.

Như vầng trăng, nàng nhìn bọn họ với ánh mắt của kẻ ở một vị trí không ai có thể chạm đến.

Đặt chân tới vùng đất này, nàng đã đến ngay nhà họ Trần. Họ Trần của Cống Quận công, người được thờ phụng như phúc thần trên toàn vùng đất, ở một vị trí mà không kẻ thế tục nào có thể chạm tới.

“Công nữ, rất hân hạnh được đón tiếp ngài.” Cuối cùng, Linh lão đầu nhè nhẹ thở ra, hơi nghiêng người trên ghế. “Công nữ nói đúng, chuyện đã qua thì nên cho qua, nhắc lại chẳng để làm gì. Công nữ vất vả đường dài tới đây, đêm đã khuya, xin mời ngài nghỉ lại tệ xá để chúng tôi được tỏ lòng thành.”

Vừa nói, Linh lão đầu vừa ra dấu gọi người. Một lúc sau, một cô gái trẻ ăn mặc kiểu thiếu phụ bước đến từ cửa sau của gian nhà, cúi đầu nghe chủ nhân ra lệnh. Như Yên cũng chẳng khách khí, nàng nhờ Linh lão đầu thu xếp chỗ ở cho tùy tùng, bản thân cùng Xuân Tử đi theo cô gái nọ về phía dãy nhà dành cho nữ giới.

Khi đã bước qua bậc cửa gian nhà chính, nàng vẫn cảm thấy ánh mắt hai người đàn ông trong nhà bám chặt lấy lưng mình. Ánh mắt với những suy tính mà nàng e rằng mình cũng chẳng thể nào hiểu hết.

“Công nữ, mời đi lối này.” Khi họ đã bước qua hành lang, rời khỏi ánh mắt của người trong nhà chính, cô gái dẫn đường chợt lên tiếng. Giọng nói của cô khiến Như Yên quay đầu nhìn sang, hơi giật mình khi nhận ra người đứng chênh chếch trước mặt.

“Tiểu thư…” Nàng ngập ngừng nói như chào. Cô gái còn rất trẻ nhưng đã mặc áo đoạn huyền kiểu của người già, tóc vấn cao không trâm không lược này, chẳng phải là cô bé trước đây ở Quảng Ngãi? Con gái của Linh lão đầu, người mà nàng đã ‘làm mai’ cho ‘Lê công tử’?

“Lê công tử thế nào rồi, công nữ?” Như thể đọc được ý nghĩ trong ánh mắt nàng, cô gái cười nhẹ, nói khi quay lưng đi. Giọng nói của cô vẫn không khác trước đây, nhỏ và mềm như không đủ hơi, như rụt rè e ngại phải cất thành lời. Đã bao nhiêu năm rồi, nàng nghĩ với cái giật mình nhè nhẹ. Cô bé mười lăm tuổi chỉ chuyên cúi đầu trước đây đã trưởng thành, là vợ là mẹ, giờ đây còn có vẻ bình ổn chín chắn hơn cả nàng.

Cô hỏi, với giọng nói mỏng và nhỏ, như thể không vọng qua được làn sương. Câu hỏi khiến nàng phải im lặng một lúc rất lâu.

“Từ lâu rồi, ta không gặp hắn.” Cuối cùng, Như Yên trả lời. Điều này cũng là sự thật.

Nàng nghe cô gái kia cười khẽ. Tiếng cười cũng mỏng manh như thế, lẫn vào tiếng mưa ồn ã bốn phương rừng. Nhưng cô không nói thêm. Nàng chỉ nhìn thấy ngón tay cô vuốt nhẹ mép áo, cử chỉ vẫn như ngày trước, khi nàng dẫn hắn đến ‘xem mắt’ cô. Trong một hôn lễ do nàng hoạch định từ đầu đến cuối. Và cũng do nàng phá vỡ.

Linh lão đầu gả con gái cho Quảng Phú – Cái tin này, nàng đã nghe được từ lâu, nhưng cũng chẳng mấy để tâm. Con gái, nhất là con của những người như Linh lão đầu, sinh ra để bị sắp đặt và tính toán trở thành món đổi trao của quyền lực. Cái hôn lễ chớp nhoáng do nàng bày ra cũng chỉ là như thế. Cô bị gả cho Quảng Phú, một kẻ xuất thân lục lâm thảo khấu, giờ đây thì nàng lại tự hỏi có phải do hôn lễ bất thành trước đó? Cô gái kia thì sao, hắn đã hỏi, chỉ muốn trốn chạy không chỉ vì bản thân mình. Nhưng nàng đã chẳng để tâm đến hậu quả mình gây ra cho bất cứ ai.

Cô cho đến bây giờ cũng chẳng biết gì hơn về người hôn phu hụt của mình, ngoài một cái tên mơ hồ ‘Lê công tử’, mà nàng đoan chắc, cô cũng đã biết đó không phải là tên thật.

Dẫn hai người Như Yên đến gian nhà dành cho khách, cô gái gọi người sắp xếp giường chiếu, đốt bếp lửa và hương. Cô không nhìn nàng thêm lấy một lần. Chắp tay trước áo, cô nhìn đám thị nữ bận rộn chạy xuôi ngược, ánh mắt như lại rơi vào khoảng không đâu đó giữa mép tường và trần nhà. Cô ngẩn người mà đứng, giật mình khi Xuân Tử lên tiếng gọi. Cho bọn thị nữ vừa xong việc lui ra, cô đến kiểm tra lại chăn màn và bình trà trên bàn, lấy trong tay áo ra một chiếc lược đồi mồi đặt bên gương trang điểm.

“Nếu thiếu vật gì, xin công nữ cho người báo.” Hơi nghiêng đầu, cô gái nói khi bước về phía cửa. Tay cô vừa đặt lên cửa, Như Yên đã chợt gọi lại.

“Tiểu thư…” Nàng gọi, rồi chợt không biết phải nói gì. Lần cuối nàng gặp cô là lúc pháo bắn vào trang trại, cô đưa đoàn sứ giả Chân Lạp đến đường hầm. Tình thế rối loạn, hắn chạy vào trong tìm Tuyết Nhi, nàng cũng không nhớ được thái độ của cô lúc ấy, chỉ vội vã đẩy cô đi theo đoàn sứ giả.

Cô gái hơi quay đầu, liếc nhìn nàng qua đuôi mắt. Nét mềm mại trẻ con của ngày xưa đã hầu như không còn, cô có khuôn mặt thanh tú dễ coi tuy khó gọi là đẹp. Trong bóng tối nhập nhoạng, nàng nhìn rõ gò má cô nổi rõ hai lưỡng quyền lũm sâu.

“Lúc ấy, tôi nghe vô số chuyện về công nữ, nhưng hẳn đều là chuyện bịa đặt nhảm nhí cả.” Quan sát nàng một lúc, cô gái chợt cười. Mất đi vẻ rụt rè e ngại, giọng cô khá cao, gần như hơi nén lại trong lồng ngực. “Như là, công nữ cố tình quyến rũ cha tôi, hay chuyện công nữ liếc mắt đưa mày với tất cả đàn ông xung quanh. Người trong nhà không ai thích công nữ, nên hẳn họ bày đặt những chuyện khó chịu. Tôi nghe mà đều bán tín bán nghi, vì công nữ đối với tôi rất tốt. Tôi là con vợ lẽ, ít ai thân cận với tôi như công nữ.

“Nhưng tôi cũng không ưa thích công nữ.” Tiếng cười bỗng chuyển thành hơi thở rất dài. Cô gái hướng mắt về thớ gỗ trên cánh cửa, lắc đầu. “Hầu như tôi bán tín bán nghi mọi chuyện, trừ một chuyện: Quan hệ của công nữ với ‘Lê công tử’ rất không bình thường. Họ đồn đại đủ chuyện, tôi đều không tin. Nhưng khi công nữ dẫn công tử đến gặp tôi, tôi biết hai người đã quen nhau lâu rồi. Tôi không có thói quen quan sát người khác, tôi chỉ nghe thôi. Trong phòng mình, tôi tập nghe đủ mọi chuyện. Khi cúi đầu, tôi phải tập nghe đủ mọi giọng điệu. Ngữ điệu của hai người, rõ ràng là thân quen lâu rồi.

“Khi pháo bắn vào, trong hầm trú, tôi đã chờ.” Nụ cười chợt biến mất, cô gái nghiêng đầu nhìn vào cái bóng lay động chập chờn trên cánh cửa. “Khi chạy, tôi chẳng sợ pháo, cũng chẳng sợ chết, chỉ sợ mái tóc của mình bị bung ra. Đêm trước ngày cưới, tôi phải chải tóc chín trăm lần, cửu cửu là vĩnh kết. Tôi vừa chạy vừa chỉ sợ tóc mình tuột ra. Lần làm đám cưới thứ hai, tôi không chải tóc nữa.”

“Những chuyện này giờ nói ra thì thật buồn cười.” Chợt cười thành tiếng, cô gái lắc đầu, đẩy cánh cửa mở ra hành lang. Gió mang đầy hơi nước lạnh thổi tạt vào phòng. “Tôi chẳng phải thương nhớ gì một người mà tôi chưa nhìn rõ mặt, chỉ là lúc ấy tôi còn quá khờ dại, vậy thôi.”

Công nữ, nghỉ ngơi sớm. Dịu dàng nở một nụ cười, cô gái cúi mình, trở về với vẻ lễ độ rụt rè trước đó mà chào nàng trước khi quay bước. Cánh cửa khép lại, chỉ để hương giáng hương ẩm lạnh hơi mưa còn quẩn quanh trong phòng.

“Tiểu thư, họ để cả áo cho chúng ta thay.” Xuân Tử nói sau bức bình phong. Cô có vẻ đã nghe thấy câu chuyện họ đã nói nhưng vờ như không để ý. Như Yên gật đầu, cởi áo ngoài, đón lấy khăn trên tay Xuân Tử mà bước lại phía thau đựng nước rửa mặt. Đêm đã khuya, trí óc mệt mỏi của nàng giờ đã trở thành mờ mịt hỗn độn đến không thể suy nghĩ được bất cứ điều gì rõ ràng. Ngồi xuống giường, nàng áp mặt vào tấm khăn ấm nóng, thấy mình trút ra một hơi dài. Nàng nghe tiếng Xuân Tử xếp đặt quần áo vật dụng, diềm lại chăn màn rồi lặng lẽ đi ra nhà ngoài, nơi cô nghỉ ngơi. Nàng muốn gọi cô vào ngủ cùng nhưng lại thôi.

Dù ở nơi này, Linh lão đầu cũng sẽ không dại dột gây chuyện bất lợi với nàng. Ông ta còn cần có thời gian suy nghĩ, bàn tính với kẻ thân cận xung quanh. Cấp bách mời nàng đến đây ngay giữa đêm, dường như ông ta sợ nàng sẽ còn thu hút sự chú ý của nhiều kẻ khác. Mối quan hệ của nàng và Ngụy lão không phải là chuyện ai cũng biết. Và Hoắc Phương cũng đủ khôn ngoan để không tiết lộ điều đó ra.

Hoắc Phương hẳn cũng đã khuyên Linh lão đầu cẩn trọng và bình tĩnh khi nói chuyện với nàng. Không có sự hạch hỏi cũng như giận dữ. Ông ta nhìn ngắm nàng, nghe những lời nàng nói với sự tính toán hiện rõ trong ánh mắt. Tất nhiên, ông ta hiểu rõ, bạn bè và kẻ thù đều chỉ cách một sợi chỉ mỏng. Kể cả những chính sách, hoạch định và dự tính cũng đều sẽ thay đổi theo thời thế, theo kẻ nắm giữ thế cuộc. Dù kẻ bên trên của nàng đã từng dự định tiêu diệt ông ta, thì với thời thế mới này, mọi điều đều có thể đổi thay. Ông ta hẳn đang nghĩ, có thể xoay chuyển sự thay đổi này theo hướng nào.

Sự xuất hiện của nàng ở nơi này đem tới hứa hẹn cùng nguy cơ hệt như nhau. Rồi đến nàng cũng phải thận trọng để không bị giày nát dưới những luồng gió bão.

Hạ tấm khăn, ánh mắt nàng rơi đúng vào chiếc lược nằm trên bàn gương. Mặt đồi mồi khắc rõ một chữ ‘Hỷ’ kết hoa.

Khờ dại, trong lúc ngẩn người nhìn chiếc lược, nàng lại nghĩ. Khờ dại tin vào một giấc mơ, đâu phải chỉ có mỗi mình cô?




Hồi 8: Nước Mặn
Friday, January 20, 2012 Author: Trường An

Khu cảng của phố Nước Mặn nằm bên bờ sông Âm Phủ. Từ cửa Thị Nại, thuyền đi vào sông Côn, qua các nhánh Cây Đa, Âm Phủ để đến khu cảng nằm bên phố, nơi cầu ngói bắc ngang dòng. Phía bên kia chợ, con đường nằm giữa hai dãy nhà chạy dọc bờ sông tấp nập người qua lại. Đúng vào ngày chợ phiên, cư dân trong núi đem sản vật xuống chợ buôn bán, sắc áo sặc sỡ muôn màu trong nắng. Có cả một đàn ngựa thồ nặng hàng, cao lớn vạm vỡ, sắc lông đen bóng[1]. Tiếng lục lạc rung khi chúng vẫy bờm càng thu hút ánh mắt người qua lại.

“Mua một con không?” Đi ngang qua đàn ngựa, cô gái ngồi trong xe vén rèm, chỉ cho người thanh niên ngồi phía đối diện. Y vẫn khoanh tay không nhìn, kềm lại một cái đảo mắt mà lắc đầu. Cô gái liền bĩu môi, vẫy tay bảo người xà ích dừng xe, cho gọi người lái ngựa tới.

“Ngươi mua ngựa làm gì?” Người thanh niên khoác áo màu lục cau mày. Cô gái vẫy quạt, tươi cười.

“Trời nóng thế này, ngồi chung xe với một kẻ lầm lì tối tăm như ngươi thật là bức bối chết người.” Nàng nói, thấy người đối diện gật đầu.

“Cứ việc cưỡi ngựa đến Kẻ Thử[2], đường xá thế này, đến nơi ngươi sẽ không ngồi thẳng lưng nổi nữa.” Y cười. Cô gái hơi ngừng tay vẫy quạt, chớp mắt.

“Ai bảo ta là người cưỡi ngựa?” Nàng ngọt ngào cười. Chiếc quạt giấu nửa vành môi cong lên. Nàng nói tiếp khi thấy ánh mắt y. “Vả lại, chúng ta cũng chưa cần tới Kẻ Thử vội. Nam nữ hữu biệt, ngươi đi chung với ta, ở chung nhà trọ với ta cũng gây điều tiếng chẳng ra sao. Ngươi đem người của mình mà tìm nhà trọ khác.”

Nơi này tai vách mạch rừng, cẩn thận vẫn hơn. Nàng nói tiếp, nhưng y đã sớm gật đầu ra ý hiểu. Bàn bạc mua xong hai con ngựa, y gọi tùy tùng đem đồ đạc đến đầu phố bên kia, cách xa nơi Như Yên định ở.

“Thật là chán.” Buông rèm cửa sổ xe, nàng thở ra trước khi cho xe chạy. Y không buồn châm chọc hay hoạnh họe nàng, cho thấy tâm trạng cũng chẳng mấy tốt đẹp.

Tâm trạng y đã chẳng tốt khi biết có nàng cùng đi đến vùng đất này, Như Yên nghĩ với khóe môi cong nhẹ. Trong những ngày này, tình hình vùng đất cạnh Kẻ Thử đang chộn rộn hơn hẳn vẻ ngoài bình yên của nó. Vijaya, kinh đô cũ của Chiêm Thành quốc, dù đã hàng trăm năm trôi qua, vẫn không thể đừng mà lắng tai nghe biến động đến từ phương Nam. Hải tấn Kẻ Thử, nơi đoàn thuyền chiến của sở tấn Nha Phiên neo đậu, đang tấp nập chuyển lương từ Quảng Nam và Quy Ninh về Bình Khang. Đang mùa gió để thuyền buôn đến Nước Mặn, bóng dáng của các lại thuộc dường như càng đông đúc hơn. Hai bên khu chợ, các dãy hàng san sát nhau bán đủ loại đặc sản của vùng này: trầm, nước mắm, vây cá, đồi mồi, sáp ong, cẩm hoa, thuốc, giấy… Trầu cau được chất thành từng sọt khổng lồ để đem xuống thuyền. Các hàng vải chất từng súc lớn lương, sa, nhiễu, lĩnh, lụa, sại nam… được đem đến từ các làng dệt ở Tuy Viễn. Trái cây đã qua mùa chín rộ hè thu nhưng vẫn còn những rổ xoài to tròn, mít, chuối, dứa, mía, dừa mùa nào cũng sẵn. Củ đậu, lá, tre trúc, rau quả bày la liệt trên đất. Các hàng nhỏ bán thêm thuốc lá, dầu dừa, dầu phụng cho tới đuốc gió, diêm tiêu. Trên đất có gà, chim công, ngựa, trâu, dê, hươu, nai; dưới biển có sứa, mực, vích, sam, sò, cá chình… Khu phố chợ trải dài năm dặm, rộng nửa dặm huyên náo tiếng người, rực rỡ sắc áo, cột buồm lô nhô bên cầu ngói, khói hương nghi ngút trong chùa Bà. Nếu có điều bất thường thì chỉ là hai, ba con voi đứng ở đầu bên kia phố, phía con đường dẫn về dinh trấn Quy Ninh. Đồn lính đầu sông cũng đông đúc hơn lệ thường. Công việc trong phố vẫn được tiến hành bình thường, dưới sự giám sát canh phòng chặt chẽ của quân đội Quy Ninh.

Nhưng quân đội cũng chỉ coi giữ được an ninh trong bề nổi của sinh hoạt con người. Nơi này, nắm giữ kinh tế của khu cảng thị thịnh vượng nhất của Chiêm quốc cổ xưa, là những thành phần khác. Các thương nhân đã đến sớm hơn quân đội, đã nhanh chóng bắt rễ và nắm lấy quyền lực ở địa phương nhanh hơn quân đội. Bằng tiền tài, lợi nhuận, nguồn sống, quyền lợi, thậm chí cả thế lực, bọn họ đã thâm nhập đến cả những vùng đất sâu trong núi, bắt tay với các tù trưởng, liên kết với những địa chủ, dựa vào thời điểm chuyển đổi xáo trộn mà tự tạo cho mình chỗ đứng. Thậm chí, có những đội quân khác - nếu những ‘lão gia’ này muốn, họ có thể tập hợp được đội quân không dưới hàng trăm người trong những bản làng và điền trang.

Khi đưa ba vạn tù binh đến lập nghiệp ở Quy Ninh, chúa Nguyễn đã ra lệnh cho các điền chủ, tài chủ phát cấp lương tiền cho cư dân mới. Điều đó, bên cạnh tính chất thuận tiện của nó, đã tạo ra một hậu quả khác: Kẻ nắm trong tay món nợ của cư dân, cũng chính là nắm giữ cuộc đời của họ. Món nợ truyền đời.

Một trong những kẻ nắm trong tay quyền lực ấy, nắm trong tay quyền lực nhất nhì nơi cảng thị này, là người mà nàng định đến tìm: Ngụy lão gia của Nước Mặn. Như Yên đưa mắt nhìn khu nhà lớn chuyên gia công đồ bạc bên phố, nghĩ thầm. Họ Ngụy còn có nhiều hiệu buôn lớn kéo dọc bên bờ biển và bãi sông, thậm chí núi sâu, của Quy Ninh. Nơi nào có khói là có dân Khách trú, người Nam Hà nói, hẳn nhiên có lý do.

Vì thế, nàng đã đích thân đi cùng Hoắc Phương tới nơi này, chẳng phải chỉ vì chuyện làm ăn riêng của y lẫn nàng. Hiểu Lam muốn đi, nhưng nàng đã cản lại, vì Hội An vẫn cần có một người đại diện coi sóc Hoắc gia – việc mà những kẻ trong Thanh Hải bang vẫn không muốn nàng nhúng tay vào. Đúng hơn, là những kẻ bên kia của Thanh Hải bang. Trong bất kỳ tổ chức nào, không sớm thì muộn, không ít thì nhiều, sẽ chia rẽ thành phe phái và bè nhóm. Huống hồ, từ khi Hồng Thiên hội bị làm cho suy yếu mấy năm trước, người trong hội bỏ về phía bang phái này cũng nhiều. Rồi, theo lẽ tất dĩ ngẫu, những bè phái lại được tạo ra.

Nàng tới nơi này cũng chẳng phải vì để xem xét tình hình, việc ấy, những mật thám trong triều đình, bang hội hay trang viện đủ sức làm tốt hơn. Nàng chỉ là thân gái chân yếu tay mềm, đúng như Hoắc Phương nói, cưỡi ngựa vượt rừng từ Nước Mặn đến Kẻ Thử đã đủ đau lưng, chẳng thể nghĩ đến việc theo dòng sông Côn mà đi sâu vào vùng đất phía Tây hoang dã. Nàng đến, vốn chỉ để gặp một vài người. Những kẻ mà thế lực của họ bao trùm khu vực này. Hoắc Phương đến gặp Linh lão đầu, phe phái bên kia là việc của nàng.

Hạ tấm màn che cửa xe, Như Yên ngả lưng về sau, hơi cau mày. Không thể chối rằng quả thật nàng cũng đang hồi hộp e ngại.

Sự xuất hiện của nàng ở nơi này sẽ được nhận ra sớm thôi. Từ năm, sáu năm trước, nàng chưa một lần đặt chân về Quy Ninh, thậm chí hiếm khi ra mặt xuất hiện ở Hội An. Trước kia, người anh trai quá cố nhất quyết giữ nàng ở lại Phú Xuân có thể cũng vì lý do ấy: Một khi thân phận thật của nàng bị tiết lộ, sẽ nguy hiểm khôn lường. Với những gì nàng đã gây ra ở Quảng Ngãi, nàng có bao nhiêu cái mạng để trả? Ngụy lão có thể tìm tới được nàng cũng chỉ vì một liên lạc từ trong triều, mà nàng e rằng mình biết nguồn gốc của nó.

Lúc ấy, nàng thì biết gì? Mỉm một cái cười nhàn nhạt, tựa vai vào thành xe, Như Yên khép mắt trong cái nắng chói chang hắt qua tấm màn vải. Bây giờ, khi nghĩ lại, nàng cũng có thể nhận biết được gì, trong những điều đã xảy ra, những gì ngài ta đã nghĩ, đã xếp đặt, đã lo toan? Nôn nóng bứt cánh bay đi, bị thúc đẩy bởi những dằn dỗi và tổn thương vô cớ, từ những tình cảm bồng bột, nàng đã quá coi nhẹ chính mình. Do đó, cũng chẳng thể nào nhận ra tấm lòng của người khác. Và đồng thời, để chính mình bị thao túng.

Trở lại nơi này, đương đầu với những nguy cơ, nàng cho rằng đã đến lúc để giải quyết những lỗi lầm mình đã dại dột tạo thành. Quá khứ của nàng. Thắng lão, Ngụy lão, Linh lão, Quảng Phú, Lâm Phi, rồi có thể, cả Oc-nha That. Trước đây nàng chỉ núp sau Hoắc Phương, đẩy cho y tất cả hậu quả và nguy hiểm. Y đã đủ tử tế để gánh vác thay cho nàng. Nhưng nàng hẳn nhiên hiểu rõ, chẳng ai có thể che chở nàng cả đời.

Sự gian ngoan mà nàng cho là thông minh trước đây, thật ra chỉ là cách sống của loài nhuyễn thể. Vẫn cười, Như Yên thầm nghĩ, khi bóng nắng nhảy múa dưới hàng mi khép. Người xung quanh đã quá tử tế với nàng, chỉ có nàng mải oán trách, đòi hỏi và lợi dụng họ. Nàng đã biết gì, về nỗi tàn khốc thực sự của thế gian?

Nàng có thể tới gia trang của Ngụy lão nghỉ ngơi, nhưng lại không tiện cho việc liên lạc gặp gỡ những kẻ khác. Vả lại, nàng hiểu rõ Ngụy lão có địa vị gì nơi này. Ông ta, rốt cuộc, cũng là một phe phái tranh giành quyền lợi cho bản thân mình. Tình cảm hay ơn nghĩa với Thắng lão, như ông ta đã nói, cũng chỉ là một phần nguyên do để ông ta cứu chữa người ‘sư gia’ bí ẩn bên cạnh Linh lão đầu – hay là, người được mang cái tên ấy. Thắng lão không chỉ là kẻ có tiếng nói với một số người. Ông ta là người cất giữ quá nhiều bí mật, những bí mật chỉ có thể được tiết lộ với một trí óc minh mẫn và sáng suốt.

Vậy nên, nàng cũng chẳng vội vàng để cứu chữa cho cái hộp chứa ký ức ấy. Trả Thắng lão trong tình trạng ngây dại nhưng an tĩnh về lại Quy Ninh, nàng đi theo trên một chuyến tàu khác, bí mật nhắn tin cho Ngụy gia. Với cái cớ ấy, nàng tới đây, đem chính mình gieo vào một bàn cờ mới.

Phương Nam, những tháng cuối năm, nắng vàng rời rợi dưới trời xanh nhức mắt. Những đợt nắng nóng mùa hạ vừa qua, để lại cơn giông vần vũ trên ngọn cây. Vùng đất này chỉ dịu đi hơi nóng vào mùa đông, mưa bắt đầu kéo dầm dề xen những thời khắc nắng cháy. Hương giáng hương lại thoang thoảng đâu đây. Trong khoảng sân trước căn nhà trọ nàng đến ở, rặng chuối đã trổ hoa đỏ thẫm hay kết buồng vàng hươm tạo thành một dãy rào chắn với đường lộ. Xuân Tử đã đến trước sửa soạn phòng ốc. Như Yên cho tùy tùng ở gian ngoài, một mình bước theo Xuân Tử vào trong. Nàng đóng cửa, cởi áo đi đường, bên trong vẫn mặc tang phục trắng. Thấy Xuân Tử sửa soạn khăn áo đi tắm, nàng liền lắc đầu.

“Ta còn phải đi thăm vài nơi.” Lấy khăn dấp nước lau mặt, Như Yên nói, chỉ tay về phía hành lý. “Đền thờ Cống Quận công và Lộc Khê hầu vẫn ở đây, ta phải tới thắp nén nhang.”

“Tiểu thư nên nghỉ ngơi một lúc.” Xuân Tử khoanh tay trong áo, nhẹ nhàng nhắc. Cống Quận công Trần Đức Hòa là cha vợ, cũng là ân nhân cất nhắc Lộc Khê hầu Đào Duy Từ, mà Lộc Khê hầu lại là ông ngoại của Chưởng cơ Nguyễn Hữu Oai hiện tại. Như Yên chẳng phải nôn nóng đi làm nghĩa vụ của ‘con cháu trong nhà’ đến thế, khi nàng bí mật không kèn không trống tới đây.

“Người ngoài không biết nhưng người trong cũng sớm biết. Muốn đến gặp người lạ thì ta phải viếng người quen trước đã. Để người ta biết mình tới bằng tin ở nơi khác thì chẳng ra sao.” Như Yên gỡ hoa tai, uể oải vươn vai nằm xuống phản. Tuy nói thế, nàng cũng không vội đi ngay mà có ý đợi cho đến khi nắng dịu. Xuân Tử đem nước đến, thấy nàng lấy trong hà bao ra một hoàn thuốc nhỏ, nhắm mắt nuốt xuống.

“Thì gặp ai cũng chẳng cần vội.” Cô nói, Như Yên chỉ cười, ngả đầu vào gối mà nhắm mắt. Xuân Tử liền ra ngoài, gọi người chuẩn bị xe kiệu sẵn sàng.

Cô biết lý do mà Như Yên gấp gáp muốn đến viếng đền thờ nhà họ Trần. Cống Quận công Trần Đức Hòa, một trong những người hiếm hoi ngoài thân thuộc nhà chúa được phong đến Quận công sau khi mất, được chúa Nguyễn phong làm thần để thờ tự ở Quy Ninh này, xuất thân là một phú ông thế phiệt. Chúa Tiên đến Thuận Hóa, đẩy lui Chiêm Thành lấy Phú Yên, viên Khám lý phủ Quy Ninh không chỉ góp công sức trong việc quản lý trị an mà còn đóng góp tiền tài, trong phủ dụ dân chúng, ngoài cung cấp binh lương. Cống Quận công Trần Đức Hòa được phong phúc thần đời đời hương hỏa, họ Trần ở Quy Ninh cũng đời đời là danh gia thế lực khó ai bì. Trong tình thế hiện tại, mang danh là họ ngoại của Chưởng cơ Phò mã Trấn thủ Bình Khang, họ Trần cùng những thế gia lâu đời của Quy Ninh là tấm chắn vững chắc cho quân đội Nam Hà trong cuộc chiến.

Các thế gia trong vùng đất này, một khi nắm giữ được họ, đủ để tạo thành quyền lực.

Để không bị điều tiếng, trước khi đến gặp Ngụy lão, hẳn nhiên Như Yên phải tới ra mắt nhà họ Trần. Nhưng còn quan trọng hơn thế, nàng phải đến gặp họ trước khi có bất cứ rắc rối nào xảy đến. Ngay khi thân phận nàng bị tiết lộ khi đặt chân xuống bến cảng Thị Nại.

Nắng vừa dịu xuống, Xuân Tử đã vào trong nhà gọi Như Yên trở dậy. Vẫn mang tang, nàng không trang điểm, cũng không trang sức, chỉ quấn một tấm khăn lớn che mặt. Lăng mộ của họ Trần ở phủ Hoài Nhơn cách khá xa nơi này, nhưng ở Nước Mặn vẫn có đền thờ Cống Quận công do người họ Trần coi giữ, cũng như có các hiệu buôn của gia tộc. Cho người đến báo tin trước, Như Yên vào đền thắp nhang rồi đến khu phủ của Trần gia. Nàng tới bất ngờ, không có nhiều người ở Nước Mặn trong thời điểm này ngoài vài viên chưởng quản. Họ cũng không lấy làm mặn mà với người vợ sau của cháu họ, tuy vẫn kính cẩn tiếp đãi. Nói vài ba câu chuyện, Như Yên ngỏ ý tới việc góp tiền hương khói cho đền thờ, thái độ của viên chưởng quản liền tốt lên đôi chút. Đến cuối chiều, nàng khất việc cần phải ở lại cảng để trở về nhà trọ, khước từ lời mời trú tại nhà họ Trần.

“Có vẻ họ cũng không rảnh rỗi.” Khi trở về, Xuân Tử chợt nói. Như Yên chỉ im lặng gật đầu. Người trong họ không ai có mặt tại Nước Mặn, quả thực do bận việc hay còn lý do nào khác? Đang vào lúc họp chợ phiên, lại giữa mùa gió bấc đưa các thương buôn từ phương Bắc đến, lại chẳng có ai ở hiệu buôn. Dẫu rằng hoạt động tại cảng Nước Mặn không mấy phụ thuộc vào các tàu buôn Đường nhân như Hội An, khi các nguồn hàng được thương buôn tại chỗ thu mua để chuyển đi các cảng lớn trong vùng, ngay cả Nam Đảo, Hạ Châu, Mã Lai…

Người họ Nguyễn Hữu chồng nàng cũng không có mặt ở cảng thị này, theo như nàng dò hỏi được viên chưởng quản. Như vậy, chẳng lẽ tất cả bọn họ đều bận chuyển hàng ở Kẻ Thử? Hoặc một lý do đơn giản hơn, là họ muốn tránh mặt nàng. Viên chưởng quản chỉ ra mặt để dò hỏi ý định của nàng tìm đến đây, trong lúc dầu sôi lửa bỏng này. Từ khi cưới, nàng chưa bao giờ thật sự quan tâm hay thân thiết với gia đình nhà chồng. Và địa vị lẫn tai tiếng của một cô công nữ khó chiều dễ khiến người ta mếch lòng.

Như Yên khe khẽ thở ra, chống khuỷu tay lên cửa sổ xe mà nhìn ra ngoài. Hai bên dòng sông, đèn thắp sáng rực chiếu xuống mặt nước. Đang ngày chợ phiên, chợ trên sông họp ngay cả vào đêm. Những người Thượng từ vùng núi xuống đem theo khèn sáo họp thành từng nhóm nhỏ nhảy múa ca hát trong khu đất làm chợ ban sáng. Trời vần vũ mây nhưng có vẻ không đổ mưa, chỉ có gió đêm trở lạnh. Nghĩ chưa ăn tối, nàng gọi mã phu đánh xe đến quán ăn đầu chợ, nơi đã huyên náo tiếng người.

“Để tôi vào mua cơm…” Xuân Tử dợm đứng lên, chợt thấy Như Yên lắc đầu nhíu mày. Ánh mắt nàng hướng đến bóng một người bên cửa quán. Ánh lửa từ chuỗi đèn treo trước quán soi tỏ một người thanh niên có vẻ còn rất trẻ, mặc áo kiểu người Thanh nhưng không cạo tóc.

“Gọi người đó vào cho ta gặp.” Chỉ tay cho Xuân Tử về hướng người thanh niên, Như Yên nói trước khi quấn lại tấm khăn che mặt, bước xuống xe để vào quán. Biết ý, Xuân Tử liền chờ nàng vào cửa rồi mới đến bên người thanh niên, bảo anh ta đi theo. Có vẻ ngạc nhiên, nhưng người thanh niên cũng đi cùng Xuân Tử. Như Yên đã vào một phòng khuất ở góc quán, bốn bên được che bằng liếp mỏng, đủ để người ngoài không nhìn thấy khách bên trong.

“Lê công tử.” Là Như Yên lên tiếng trước, khi người thanh niên vừa bước qua cửa. Xuân Tử lặng lẽ lui ra, đóng cửa lại phía sau. Lê Diệt, qua khoảnh khắc kinh ngạc, chỉ chớp mắt như vừa nhận biết người trước mặt.

“Công nữ cũng ở đây.” Cậu ta cúi mình, nói như một lời chào. Như Yên chỉ cười.

“Ai cũng ở đây mà.” Nàng nhẹ nhàng nói. Như hiểu ý nàng, Lê Diệt ngẩng lên, lắc đầu cười.

“Tôi ở đây vì lý do riêng, không liên quan đến ai cả.” Nhìn thấy ánh mắt của Như Yên, cậu mím môi rồi nói thêm. “Tôi có một người bạn ở gần đây, chiến cuộc phức tạp nên muốn ở lại giúp đỡ.”

“Ai thế?” Nhấc ly rượu vừa được đưa đến, Như Yên mỉm cười, ra dấu cho Lê Diệt ngồi phía đối diện nàng. Ngữ điệu của nàng vẫn tràn ngập nghi ngờ.

“Một cô gái.” Im lặng một lúc, Lê Diệt thở ra. “Người mà công nữ e ngại, nhất định không ở đây.”

“Một cô gái?” Khóe môi chợt cong, Như Yên ra vẻ không nhận thấy ý câu nói sau của Lê Diệt, nàng tự đổi trọng tâm chú ý của mình. “Cô gái nào có thể dính líu đến chiến cuộc ở Bình Khang?”

“Không phải ta tò mò.” Như Yên lắc đầu khi Lê Diệt mím môi im lặng một lúc lâu, ra vẻ không muốn trả lời câu hỏi của nàng. “Nhưng an nguy của công tử không phải chỉ là mối bận tâm của một mình công tử. Công tử nghĩ, khi gặp rắc rối ở đây, sẽ ảnh hưởng đến ai?”

“Tôi cho rằng mình đủ biết nặng nhẹ để không ảnh hưởng đến người khác.” Lê Diệt nhíu mày. “Còn kẻ cứ tự kéo rắc rối vào mình thì ở nơi nào cũng như nhau, e rằng công nữ cũng không thể lo được đâu.”

“Nghe như công tử không phải là người đến khuyên ta từ bỏ ngày ấy.” Như Yên xoay ly rượu trong tay, mỉm cười. Nàng gật đầu. “Ừ thì cuộc đời mỗi người phải tự lo lấy thôi, phải không?”

“Hình như ta đã gặp người trong đoàn thuyền của công tử ở Quảng Nam. Sao ta lại không gặp công tử nhỉ?” Như Yên nói tiếp khi Lê Diệt lại im lặng. “Nghe nói mỗi năm công tử đều đi qua quãng đường ấy, vậy mà lúc ta gọi vào cũng chỉ cử người đến thay.”

“Công nữ nếu đã muốn từ bỏ rồi thì cũng nên dứt khoát đi thôi.” Nhìn ly rượu trong tay Như Yên một lúc, Lê Diệt hạ giọng nói. Như Yên nhíu mày, ngắt lời cậu ta.

“Ta cần biết hắn ở nơi nào cũng không phải là quan tâm.” Mắt nàng tối lại, trong ánh lửa lại chợt sâu không thấy đáy. “Ai biết hắn có thể gây ra chuyện điên khùng gì? Hắn cứ việc chết dấp ở bờ hoang bãi trọc nào chứ đừng dẫn xác đến đây!”

“Cho nên người đó đã không đến, ngay cả bây giờ.” Giọng Lê Diệt vẫn ôn hòa. “Nếu công nữ nghi ngờ, tôi xin lấy đầu bảo đảm rằng sự hiện diện của tôi nơi này vốn chỉ là quyết định riêng của tôi. Nếu không tin, công nữ cứ việc cho người theo dõi.”

“Công tử có thể cho ta địa chỉ nhà trọ và kế hoạch đi lại?” Như Yên cười. Lê Diệt gật đầu, lấy giấy bút từ tay tiểu nhị đưa lại, ghi cho Như Yên những gì nàng cần. Vẫn giữ thái độ lịch sự xa cách, cậu cáo từ ra về ngay.

Còn lại một mình, Như Yên nhìn lại một lượt nữa những dòng chữ mới vừa khô mực. Bốn phía xung quanh, tiếng động từ đám đông huyên náo của quán ăn vọng qua tấm liếp, như đổ vào chỗ trống Lê Diệt vừa bỏ lại.

Đọc được địa phương Lê Diệt trú ở Phú Yên, Như Yên khẽ cau mày.

Cô gái có thể liên quan đến chiến trận ở Bình Khang, lại là cô ta?

 

 

 

Chú thích:

[1] Lê Quý Đôn viết: “Các xứ Cò Đen, Kẻ Dã, phủ Quy Nhơn sản xuất ngựa. Ngựa sinh ra ở trong hang núi thành đàn hàng trăm, hàng ngàn con. Có con cao tới 2,5 thước đến 3 thước trở lên. Người địa phương tập dạy cho thồ chở hàng hóa sang Phú Yên… Đàn ông, đàn bà đi chợ buôn bán hay đi xa cũng cưỡi ngựa là thường.”

[2] Kẻ Thử: Nằm ở phía Bắc của bán đảo Triều Châu, nơi ngã ba ranh giới đất của hai huyện Tuy Phước, Phù Cát và thành phố Quy Nhơn, thuộc tỉnh Bình Định, có một trảng cát dài 8 km nối liền giữa núi Bà ở phía Bắc và núi Đơn (ở Xương Lý) về phía Nam; có bề rộng hơn 2 km từ bờ biển phía Đông đến cửa sông Côn đổ về phía Tây Bắc đầm Thị Nại. Nơi đây là cảng thị sầm uất nhất dưới thời Chiêm Thành, sau này là một hải tấn quân sự của nhà Nguyễn, còn gọi là Nha Phiên. Từ đầu thế kỷ XIX, nhánh sông Côn đổ ra biển nơi này bị lấp. Kẻ Thử cách Nước Mặn 8km về phía Đông.

 





Copyright © Trường An. All rights reserved.