Solitude

Cảnh như thị, nhân như thị

Ngoại truyện: Độc dược
Tuesday, April 17, 2012 Author: Trường An

Mùa xuân năm ấy, bọn y đã gặp cô gái nọ.

Đó là những ngày tháng khó khăn và ác liệt nhất của chiến trận. Thanh triều ban lại lệnh thiên giới, đốt sạch các làng mạc ven biển, thiết lập hàng loạt căn cứ trọng yếu từ Phúc Châu đến Chiêu An. Thời kỳ đầu, Tam phiên thế như chẻ tre, thẳng một đường chiếm cứ đến Hồ Nam, thủ phía Nam sông Trường Giang. Nhưng rồi Cảnh Tinh Trung, Thượng Khả Hỷ hàng Thanh, quân Đài Loan của Trịnh Kinh bị đánh lui về Hạ Môn, quân Thanh dốc toàn lực chiếm lại phương Nam. Quân phản Thanh tại bờ biển Đông Nam tập trung về các quần đảo ngoài khơi Chiết Giang, Lưỡng Quảng, Phúc Kiến. Đến mùa xuân, dưới sự chỉ huy của Duyên Bình quận vương Trịnh Kinh, quân phản Thanh một lần nữa tấn công Giang Đông Kiều. Đó là chiến dịch quân sự cuối cùng của đội thủy quân phản Thanh, và đối chọi với quân chủ lực của Bát Kỳ tràn xuống cũng mang lòng quyết tâm trừ diệt đối thủ không kém, chiến sự ác liệt đã bùng nổ tại Chương Châu, Tuyền Châu.

Mùa xuân năm ấy, đất trời ngập trong khói lửa.

Vùng đất ven bờ biển qua những năm chiến tranh dài đã bị cày nát, nơi nơi chỉ là những bãi đất xới vung vãi lẫn với cỏ. Người ở bờ biển dạt vào trong đất, nhưng ruộng đồng cũng chẳng còn có thể cày cấy sau bấy nhiêu lần đổi chủ, chiến hỏa khắp nơi, người bị hết bên này đến bên kia bắt lính. Hai bên dòng sông không có lấy một mái nhà, chỉ có vài chòi lính dựng tạm. Mưa xuân đang phất phới bay lúc bọn y đặt chân xuống thuyền, chỉ làm cảnh vật thêm đìu hiu thê lương gấp bội. Mặc cho sự ồn ã đang náo loạn cả một góc sông.

“Bảo bọn họ ngừng tay đi chứ.” Vừa nhảy xuống khỏi thang thuyền, hắn đã vội nói, ra dấu về con thuyền phía sau thuyền của bọn y. Chiếc thuyền cắm cờ hiệu của Thanh triều ám màu khói, đã lệch nghiêng về một bên, bị thuyền bọn y kéo theo.

Đó là chiếc thuyền đã đụng độ với bọn y ở đầu sông. Sau một cuộc bắn phá nho nhỏ, y cho thủy thủ đột nhập lên thuyền địch, bắt sống chỉ huy, buộc lấy thuyền kéo về. Chưa biết ai ở trên chiếc thuyền ấy, nhưng đã dùng cờ hiệu Bát Kỳ, danh phận hẳn cũng không nhỏ.

Cho nên, y cũng không ngạc nhiên với sự ồn ào mà đám binh lính đã nhảy lên thuyền trước đó đang gây ra. Y còn có cảm giác, mình sẽ không ngạc nhiên nếu thấy tình trạng của những kẻ chủ thuyền hiện tại.

“Ta nói được sao?” Vì vậy, y chỉ nhỏ giọng trả lời hắn, nhìn một thân người vừa bị ném từ trên sàn thuyền cao vài trượng xuống đất bùn lõng sõng nước bên bờ. Chiến tranh càng ác liệt, những kẻ tham gia nó càng khó giữ bình tĩnh. Những kẻ trên thuyền kia, nếu biết ngoan ngoãn đầu hàng, may ra còn có thể giữ được mạng sống cho đến lúc lên bờ. Bằng không, trong thời gian này, giết người còn dễ hơn là thu nhận tù binh.

“Đưa họ xuống!” Cau mày, hắn quát lên với người đội trưởng trên thuyền, khi thấp thoáng thấy sắc áo đen thêu viền sặc sỡ của Thanh quan lẫn giữa đám đông. Thêm vài cái xác nữa được ném khỏi lan can, trước khi một nhóm phụ nữ được đưa xuống. Chân họ vừa đặt xuống mặt đất, một cái xác nữa đã được ném theo ngay liền. Chính là kẻ mặc áo quan mà hắn vừa thấy.

“Chết rồi.” Y lành lạnh nói khi thấy cái nón lông trật khỏi đầu cái xác nọ. Một người đàn ông khoảng trên tứ tuần, mang đường nét của người phương Nam – Những đường nét rõ ràng bộc lộ xuất thân ông ta hơn cả cái đầu cạo trọc lẫn bộ kỳ bào trên người.

“Tên Hán gian.” Có kẻ nhổ vào cái xác, lầm bầm nguyền rủa. Y không cần phải hỏi cả đến lý do vì sao viên quan này bị giết.

Sự chú ý của y quay trở lại với mấy người đàn bà đang cập rập quỳ trên bùn đất lạnh cóng. Có hai người đàn bà già, hai cô gái trẻ. Trong số đó, qua cách ăn mặc, cô gái trẻ nhất có vẻ là chủ nhân của bọn họ. Tất cả đều cúi đầu, khiến y không nhìn được diện mạo.

“Sao lại chỉ còn chừng này người?” Hắn hỏi, ngẩng nhìn lên thuyền. Gác tay qua lan can, viên đội trưởng lắc đầu nói vọng xuống.

“Ta chỉ hứa tha cho cô ta.” Gã nói, ra dấu về phía cô gái đang quỳ trên đất. “Cô ta chỉ dấu đám người trốn trong khoang, đổi lại, ta cho cô ta sống.”

Hắn quay đầu nhìn lại, vừa lúc cô gái nghe đến mình liền ngẩng lên.

Sau này, qua rất nhiều thời gian, y không còn nhớ rõ gương mặt của cô ta, có lẽ vì không có ấn tượng nào để ghi nhớ. Có lẽ, cô ta cũng không đẹp – Nếu đẹp, ắt hẳn cô ta đã khó sống nổi trong đám quân lính thô bạo nọ. Y chỉ nhớ ấn tượng duy nhất về cô ta là đôi mắt. Mắt cô ta ráo hoảnh. Trong mưa bụi vẫn không ngừng trút xuống và cùng với bộ dáng thảm hại của tù nhân, mắt cô ta khiến y nghĩ tới mặt nước trên dòng sông giữa hai bờ đất đã bị cày nát.

Và điều khiến y ghi nhớ rõ ràng hơn, là cô ta đã sống sót bằng cách chỉ ra những người đang trốn trong khoang thuyền ẩn. Thuyền đi trong chiến loạn đã được thiết kế một khoang nhỏ hẹp trông như thể ván tường để ẩn trốn trong trường hợp nguy hiểm. Những kẻ ở trong ấy, chính là gia đình của cô ta.

Cha, mẹ, hai người em trai, toàn bộ gia đình của cô ta, đã bị đâm xuyên qua ván thuyền khi vẫn còn ẩn nấp trong khoang hẹp. Toàn bộ gia đình, đổi lại là mạng sống của cô ta.

Và mắt cô ta ráo hoảnh. Sợ hãi, có lẽ, nhưng bình thản hơn những người phụ nữ xung quanh, bình thản tới mức y nghĩ rằng cô ta cũng chẳng thương tiếc những người vừa chết – cái xác vừa được ném xuống ngay sau lưng.

Cô ta nhìn lên rồi lại hướng ánh mắt xuống nền đất trước đầu gối, tay khoanh trong áo. Một dáng vẻ nhu thuận đến dường như dửng dưng.

“Tha rồi làm gì với cô ta đây, lão Cẩu?” Một kẻ nữa lại lên tiếng, nheo mắt nhìn mấy người đàn bà, nói với viên đội trưởng vừa vịn thang nhảy xuống. Gã phác tay.

“Một đám đàn bà con gái, sợ cái gì? Cứ bỏ chúng ở đây, ta khởi hành.” Gã vừa nói vừa ra dấu về mấy rương hòm đang được mang khỏi thuyền. “Lấy hết hàng rồi thì cho một mồi đuốc, thế là xong.”

“Đại nhân, xin ngài…” Gã vừa nói dứt câu, phía dưới chân gã đã vọng lên giọng nói con gái run rẩy. Cô gái trẻ vẫn quỳ trên đất, ngước về phía gã mà van xin. “Xin ngài… bỏ ở đây, tôi không sống được…”

“Liên quan gì đến ta?” Chớp mắt, gã đội trưởng được gọi là lão Cẩu nhướn mày, lại tựa như nhăn nhó. “Ta chỉ bảo tha cho cô, đâu có bảo là phải đưa cô đến tận triều đình nhà Thanh mà cầu xin ơn huệ cho công thần chết trận.”

Tiếng cười hô hố tiếp ngay sau lời gã. Cô gái nắm chặt bàn tay trên gối, liếc nhìn những người phụ nữ xung quanh. Nhưng họ đều bất động như tượng. Y nhìn đôi bàn chân nhỏ xíu của cô gái lộ sau riềm váy dài. Những người hầu có thể sống ở bất cứ đâu, còn cô gái này, với bàn chân kia, e thậm chí không lội bộ nổi vào làng gần nhất trong bờ.

Và với hành động vừa rồi, cô ta hẳn cũng nhận ra, không còn ai muốn ở bên cạnh cô.

“Đại nhân, xin thu nhận tôi.” Khi tiếng cười dần lặng xuống, cô gái nói. Từng tiếng nói rành rõ đến ngạc nhiên. Khiến tất cả người quanh đó đều ngạc nhiên.

Thu nhận tôi, hẳn cô ta biết điều đó nghĩa là gì.

“Ta đi đánh nhau chứ không phải đi chơi!” Sau mấy cái chớp mắt, lão Cẩu lại phùng mang trợn mắt quát. Bọn họ đang trên đường tới chiến trường chứ không phải trở về căn cứ để có thể đem theo phụ nữ.

“Ta nhận.” Sau lưng lão Cẩu, hắn chợt lên tiếng. Gã đội trưởng quay phắt lại, thái độ như muốn bóp cổ hắn.

“Nhóc con đừng lắm chuyện!” Gã rít lên. Nhưng gã còn chưa ngậm miệng, hắn đã vỗ vai gã, nở nụ cười vừa ngây thơ vừa ngọt ngào đến gai người.

“Lão Cẩu, bao nhiêu tiền nợ ta, lúc nào trả?” Ngón tay hắn ngoắc trước mũi gã. Nhìn ánh mắt gã, y biết thế là đã thỏa thuận xong.

Cũng như người xung quanh, y chẳng hề ngạc nhiên trước hành động ấy của hắn. Y hệt như khi hắn cứu đứa trẻ câm trên biển, chữa thương cho một con chó bên đường hay thả một đàn vịt về sông. Những loại ý thích bất chợt và không đem lại phiền phức thì cũng vô vàn khó chịu cho người xung quanh. Như lúc này, không thể nhét cô gái vào ở chung với đám lính tráng, hắn nhường chỗ của mình trong khoang chỉ huy cho cô ta, rồi ra sàn thuyền dựng chòi ngủ. Y đáng lẽ cũng không buồn để tâm – Nếu như, chỗ của hắn không phải là phòng của y. Nam nữ thụ thụ bất thân, không thể nằm ngủ cùng một cô gái lạ, y cũng phải nghiến răng ra ngồi ở sàn thuyền.

“Đến nơi nào tốt một chút, ta sẽ thả cô ấy xuống.” Hắn nói như thể an ủi. Y ngẩng lên nhìn bầu trời xam xám, không trả lời. Không biết phải đi đến lúc nào mới tìm được ‘nơi tốt một chút’ trong vạn dặm chiến trường hoang địa này, y nghĩ thầm.

“Tốt với cô ta làm gì?” Nghĩ một lát, y chợt lên tiếng. Y không thích cô gái này. Ánh mắt cô ta, sự im lặng của cô ta, thái độ của cô ta. Đó chẳng phải là thái độ kiên cường hay trầm lặng, thậm chí chẳng có căm ghét. Cô ta lì lợm, trơ cạn và lạnh tanh như một hòn đá. Một cô gái bán đứng cả gia đình để cầu sự sống cho bản thân, y không biết phải nghĩ về cô ta ra sao.

“Con kiến còn có đức hiếu sinh, tính nhiều làm gì?” Hắn cười nói. Gió rung những lớp vải quanh chòi. Không biết nghĩ gì, một lúc, hắn lại chợt cười. “Coi như thay lão Cẩu làm phúc. Tiền gã không trả cho ta được thì đem đi chuộc người.”

“Ngươi…” Y định nói, rồi lại thôi. Ngươi xem cô ta là con kiến? Có lẽ đó là điều y định hỏi.

Như con chó bên đường, đàn vịt dưới ao, những gì bắt lấy sự chú ý của hắn trong thoáng chốc, rồi bị lãng quên ngay sau đó. Thậm chí, ngay cả sự tồn tại, giá trị của chúng về thực thể cũng không được hắn lưu tâm.

Cho nên, đến cuối cùng, y cũng không ngạc nhiên về kết cuộc của cô gái kia.

Sau vài ngày, bọn y đi qua một khúc sông hẹp. Bên trong có làng, người thám thính đi trước báo về. Cũng cần tiếp thêm lương thực, y cho thuyền dừng lại nghỉ ngơi. Hắn liền đi báo cho cô gái nọ vào làng. Không biết hắn đã nói gì, khi tình cờ quay trở lại khoang thuyền để lấy vật dụng, y thấy cô gái cúi đầu ngồi trên giường, má đỏ bừng, trông như có vẻ sắp khóc. Cô ấy sợ, hắn nói sau đó. Một thân một mình đến nơi không biết ra sao, cô ấy sợ.

Thế chẳng lẽ đây lại là nơi quen thuộc của cô ta? Y nghĩ thầm, lại không nói ra.

Đến chiều hôm ấy, y lại bắt gặp cô gái đứng trên sàn thuyền, đăm đăm nhìn về phía đám lính đang bổ củi, hạ trại trong bờ. Đứng giữa bọn họ, hắn đang biểu diễn một trò chơi với những thanh củi rừng rực lửa, tung ném chúng lên không rồi bắt lấy. Trong ánh hoàng hôn đỏ mật, hắn trông như thể một mầm cây vừa bung lên trên nền đất, và chuỗi lửa sáng là những bông hoa.

“Xuống đi.” Khi đi ngang qua, y nói với cô ta. Cô gái vịn lan can, chầm chậm theo y, lảo đảo chông chênh trên hai bàn chân quá nhỏ. Khi cô ta xuống thang, hắn chợt đưa mắt nhìn về phía y, thấy vậy liền nhanh nhảu chạy đến, đưa hai tay đỡ cô ta. Kẻ này vốn không để tâm đến lễ nghĩa, nhưng cô gái cũng chẳng phải dạng tiểu thư khuê các hễ ai đụng đến là giật nảy người. Vịn vào hắn, cô ta lung lay đứng xuống nền đất. Lúc ấy, dưới mạn sông lại có một khóm hoa đang nở. Cô ta nhìn xuống triền đất, mím môi. Thấy vậy, hắn liền nhảy xuống, hái chùm hoa đưa cho cô ta.

Buổi tối hôm ấy, y thấy cô ta cầm chùm hoa trong tay, nâng niu đếm từng cánh. Con gái đều rất thích hoa, sau này thì y biết như thế. Đếm xong chùm hoa, cô ta cau mày, đứng lên mà đi vòng ra sau trại. Kiên nhẫn chờ đến khi hắn xong ván bài với đám lính, cô ta nghiêng người, thì thầm vào tai hắn. Vãn người, y thấy hắn và cô ta đi ra sau bìa rừng.

Đêm ấy, bọn y hạ trại bên bờ sông. Rất khuya, hắn mới trở về lán trại. Y nghe trong không khí dường như có mùi rượu. Dường như, vì hắn ướt từ đầu đến chân. Trong ánh trăng sáng, y chỉ thấy nước đang tong tong nhỏ từ đầu đến chân hắn.

“Ngươi làm gì vậy?” Khi hắn thay quần áo, y hỏi, vẫn nằm trong lán. Ném bộ quần áo vừa cởi sang bên, hắn nhún vai. Giọng nói rõ ràng là say rượu.

“Ta đi tắm.” Hắn nói. Y nhìn lên bầu trời tháng ba mù sương, gió lạnh từng cơn đang thổi, nghĩ đến làn nước lạnh tê chân trên sông. Và kẻ này cũng đang run lên, răng đánh vào nhau đến mức nói không rõ chữ.

“Ngươi muốn chết à?” Ném cho hắn chiếc chăn lông cừu, y hơi nhỏm người dậy, nhìn hắn bước về phía đám lửa giữa lán. Uống rượu say rồi nhảy xuống sông mùa đông, không làm Lý Bạch thì cũng mất hết nhiệt mà chết.

Hắn cười khẽ. Từ bên này đám lửa, y có thể nhìn rõ khuôn mặt hắn. Hơi lạnh và rượu khiến má hắn đỏ bừng. Vừa qua lứa tuổi trẻ con, hắn vẫn có một khuôn mặt vô cùng trong trẻo. Vẫn là khuôn mặt của một đứa trẻ. Chiến trận và vất vả hầu như không thể chạm đến hắn, một điều lạ lùng.

“Ngươi đi với cô ta?” Nằm yên một lúc, y lên tiếng. Vì tò mò đơn thuần.

“Ờ.” Không rời mắt khỏi đám lửa đang sưởi, hắn lơ đãng nói. Những ngón tay hắn vẫn đang run. Y nhìn những ngón tay đưa trên lửa, rồi nhìn khuôn mặt trẻ thơ của hắn.

“Rồi sao?” Y vẫn còn tò mò. Ở lứa tuổi này, mọi đứa trẻ đều tò mò về một số điều. Hắn nhìn lên y, rồi nhìn xuống mấy ngón tay.

“Sáng mai ta đưa cô ấy vào làng.” Ngừng một thoáng, hắn lại nhún vai. “Chứ đưa theo sao được.”

Ngươi cũng nghĩ đến chuyện đưa cô ta theo, y tự hỏi. Rồi cũng tự cho rằng, đừng nên tin những suy nghĩ của hắn. Cái ý thích nhất thời như mây trên trời, sóng trên mặt biển. Khi người đã ấm lên, hắn liền ôm chăn tìm chỗ ngủ. Chỉ một lúc, y đã nghe tiếng thở đều đều.

Sáng hôm sau, bọn y tìm thấy cô gái treo cổ trên một nhánh cây gần bờ.

Cô ta điên rồi, lão Cẩu lầm bầm trong một thái độ nghi hoặc bối rối hoàn toàn. Cái cô gái kia, đã bán cả gia đình để giữ lại mạng sống, vứt bỏ mọi tôn nghiêm sĩ diện để van cầu được sống, cớ sao lại tự tìm cái chết? Thật là một kẻ điên rồ!

Khi bọn y đến, xác cô gái đã được hạ xuống, huyệt mộ đã được đào sẵn bên cạnh. Trong khoảng thời gian này, mọi cái chết cùng hình thức tống táng nó đều trở nên giản đơn. Y nhìn hắn vuốt mắt cô gái, vùi đất lấp huyệt. Mọi cử chỉ đã quen thuộc đến thuần thục. Mọi thái độ đều đông cứng trên khuôn mặt. Khuôn mặt trong trẻo ngây thơ đến mức chẳng bao giờ có thể nhìn ra bất cứ thái độ nào của hắn.

Y tìm thấy chùm hoa cạnh nơi thắt cổ của cô ta, liền đưa lại. Hắn cắm nó trước mộ, rồi ngẩng nhìn trời. Tháng ba, đàn chim tránh rét đã lao xao bay về. Bầu trời mờ hơi sương. Mưa như những đợt gió đầy nước thoảng qua bờ sông. Trên nền đất bị cày xới, cỏ vẫn đang mọc. Mùi cỏ, mùi đất, mùi nước hăng hăng trong không khí.

“Có chuyện gì vậy?” Câu hỏi này không đến từ y. Ngẩn người bên ngôi mộ mới một lúc, hắn chợt hỏi. Như vừa sực tỉnh ra mà hỏi.

“Cô ta không muốn sống nữa, vậy thôi.” Y trả lời, cái ý nghĩ mà y cho rằng đúng đắn nhất lúc này. Rồi y lại nghĩ rằng nên nói điều gì có lợi hơn. “Từ ý nghĩ đến sự thực xa nhau lắm. Có thể cô ta giả can đảm nhưng đến lúc phải tự lực đương đầu thì lại sợ, đến lúc phải đối mặt rồi mới hoảng hốt nghĩ quẩn.”

“Người như cô ta, nhìn tưởng là nhẫn tâm sắt đá, thật ra là nhát sợ kinh hoảng, chỉ biết làm theo bản năng bảo vệ mình. Lúng túng rối rắm, nghĩ quẩn đâu phải lạ.” Y nói thêm, vỗ vai hắn. “Đi thôi.”

Theo cái kéo của y, hắn đi. Đó là mùa xuân cuối cùng của bọn y trên đất Giang Nam. Cuối mùa thu năm ấy, bị Thanh triều cắt đứt nguồn kinh tế ven biển, Trịnh Kinh bắt buộc phải lui về Đài Loan. Và mùa đông, một cơn bão đã đập tan đoàn thuyền Long Môn trên biển.

Rồi sau đó, hắn không bao giờ nhắc lại về cô ta. Còn y, mãi về sau này, lại có đôi chút hối hận về những gì đã nói với hắn.

Y biết, đó không phải là sự lãng quên. Một lần nữa, lại y như với đứa bé nọ, hắn đã đưa thêm một sinh mạng về nơi đáng ra họ không nên đến. Chỉ là, lần này, có lẽ hắn không hiểu được lý do. Hoặc, không lường được lý do.

Đó là sự nhận biết đầu tiên của y về hắn khi bước vào tuổi thành niên. Bên dưới lớp vỏ vô ưu hoang đàng, bên dưới cả những mâu thuẫn và phản nghịch, bên dưới sự thông minh hoang đường lẫn tinh tế khó tin, hắn là một liều thuốc độc. Giết chết tất cả những ai chạm vào hắn. Những kẻ truy cầu quá nhiều và đã bước quá xa, đánh mất bản thân mình.

Và rồi, họ mất tất cả.

Một liều độc dược trong trẻo dịu dàng. Như hương mai của sáng mùa xuân nọ, trên nền đất mới của ngôi mộ vừa đắp. Ngươi giết cô ta, đó mới là điều y thực sự nghĩ. Đó là điều y chỉ mơ hồ cảm thấy, bằng linh tính nhiều hơn nhận biết.

Những điều này, y không có cơ hội để nói với Như Yên. Đứa bé ngày xưa vì ngươi mà chết, y nói với hắn, nhưng hắn không hiểu, hoặc không muốn hiểu. Để rồi, khi nhìn bóng nàng rời xa trong ánh trăng bàng bạc đêm ấy, ý nghĩ kia trở lại, trở thành như một xác tín.

Nàng không hận y, nàng đã nói. Nhưng nàng cũng không tha thứ cho y. Nàng chỉ muốn biết, trong cuộc chơi này, ai là người thất bại.

Nàng cần một lý do, như y cần một lý do. Khi những gì nắm được trong tay đã trở thành cát bay trong hoang mạc.

Khi đã bước quá xa, nếm đến giọt cuối cùng của liều độc dược thiêu cháy tâm can.

Những kẻ đã bước quá xa, vào hoang mạc.




Hồi 18: Trăng mờ
Saturday, April 14, 2012 Author: Trường An

Trong những năm tháng này, nàng đã học quen với một chuyện: Sự việc xảy ra luôn có điểm nằm ngoài dự tính của nàng. Ví dụ như hiện tại.

Y chưa đến tìm nàng thì phủ đệ của nữ chúa người Chiêm đã đón một vị khách vào lúc chiều tối. Dắt ngựa từ cửa đến thẳng trước nhà lớn, người thanh niên trẻ nhưng hai bên mép đã mờ nếp nhăn, để tóc dài nhưng mặc kỳ bào cổ cao bước vào phủ đệ như thể nó là nhà riêng của cậu ta. Nô tài xung quanh cũng không ai chạy vào báo trước. Đang ngồi trong hiên ăn bữa tối sớm của ngày tết đầu năm, nàng ngẩng đầu lên, vừa đúng lúc cậu ta quay lại nhìn.

Nhưng sự kinh ngạc của cậu ta có lẽ lớn hơn nàng. Nàng chỉ chớp mắt, bỏ miếng dê luộc đang gắp về chén, mỉm cười với cậu thanh niên như người quen cũ lâu ngày gặp lại. Nụ cười của nàng có lẽ còn quá bừng sáng, khiến cô gái Chiêm Thành bên cạnh chẳng thể nào không nhận ra. Mà chẳng ai quanh sân lúc ấy không để ý cho được khi cậu thanh niên trừng trừng dõi mắt về phía nàng.

Nàng khẽ thở ra, chan tô canh gà luộc lá me[1] vào chén, dùng nó thay cho trà cuối bữa. Khi nàng đặt chén xuống thì cũng vừa lúc cậu thanh niên bước lên hàng hiên.

“Lê công tử, ta lại gặp nhau.” Chiếc khăn nhỏ che nửa nụ cười khi nàng lên tiếng, nhận ra ánh mắt cậu thanh niên đảo quanh khu nhà. Vẫn muốn đùa dai thêm một lúc, nàng cười nói. “Ngày trước công tử ghi nơi chốn cho ta, hẳn có lúc tái kiến.”

“Sao công… tiểu thư lại ở đây?” Mím môi, Lê Diệt bất chấp khách khí mà hỏi nàng. Cậu ta thậm chí vẫn chưa chào nữ chủ nhân của khu nhà. Nàng đưa mắt về phía cô gái mang vẻ nửa ngạc nhiên nửa giận, cười trong cổ.

“Nơi nào náo nhiệt thì ắt hẳn có ta, sao công tử trông lại sợ hãi đến thế?” Hẳn nhiên, nàng hiểu thái độ của Lê Diệt. Địa vị của cô nữ chúa này cùng liên hệ của nàng ta với triều đình Panduranga, cả những gì mà nàng ta đang làm hiện tại đều vô cùng nguy hiểm nếu bị triều đình Nam Hà phát giác ra. Sự có mặt của nàng nơi này như thể tiếng quạ kêu mang theo đàn diều hâu tới. Nàng cười với cô nữ chúa mà gương mặt đang sắt lại. “Do nữ chúa mời ta tới đấy chứ.”

“Lê công tử, xin ngồi xuống đã.” Cô gái Chiêm Thành cau mày, giọng điệu đã thoáng vẻ gắt gỏng. Lê Diệt liếc nhìn nàng lần cuối, im lặng mà ngồi xuống chiếu trải trên hiên. Sau chiếc khăn, nàng âm thầm cười trộm. Ném cho Lê Diệt một cái nhìn sắc như dao, nữ chúa Chiêm Thành quay về phía Như Yên, lại mang vẻ tươi cười gần như nàng. “Tiểu thư và Lê công tử quen biết nhau?”

“Rất quen. Ngày trước ta bị cầm chân ở Phú Xuân, công tử bất chấp gian nguy đến tìm ta.” Điềm nhiên gật đầu, nàng chờ cho nụ cười của cô gái kia tối đi. Bên kia, Lê Diệt như ngồi phải lửa, vội vàng lắc đầu.

“Tiểu thư là bạn của người quen, tôi đến chuyển lời hộ.” Nói rồi như biết không ai tin, cậu thanh niên liền hạ giọng như thanh minh với cô gái Chiêm Thành. “Việc an nguy của thiếu gia, không thể không làm.”

“Mạc thiếu gia?” Nữ chúa chớp mắt. Như Yên thấy sự nhận biết sáng lên trong mắt nàng ta khi quay lại về phía nàng. Rồi một nụ cười cũng mờ ám chẳng kém nàng đến thay thế trên khuôn mặt nàng ta. “Hóa ra cái túi đêm đó con hầu của ta lấy trên giường thiếu gia là của tiểu thư? Cái túi có hai miếng ngãi một đỏ một trắng?”

“Xapatan!” Lần này, không đợi Như Yên trả lời, Lê Diệt lại vội lên tiếng. Đảo mắt, nữ chúa Chiêm Thành chỉnh thế ngồi, cúi xuống ra vẻ sửa riềm váy. Bắt gặp ánh mắt Như Yên, Lê Diệt liền thở dài. “Năm ấy, chúng tôi trọ ở đây…”

“Chuyện qua rồi, nhắc làm gì?” Như Yên uể oải phác tay, ngắt ngang lời Lê Diệt. “Ta đến đây vì nữ chúa có lời mời. Công tử có vẻ đi đường mệt mỏi, cứ nghỉ ngơi ăn uống trước đã.”

“Anh ăn gì chưa, hay đi tắm đã?” Như thể vừa được lời nàng nhắc cho, Xapatan chớp mắt, vội đứng lên, kéo tay áo Lê Diệt. “Để ta gọi người nấu nước, chuẩn bị thêm nhiều đồ ăn một chút.”

Tiểu thư cứ thong thả dùng bữa, nữ chúa trẻ của Chiêm Thành còn nhớ ngoái đầu dặn dò nàng trước khi kéo phăng cậu thanh niên về phía nhà sau. Đã ăn xong bữa, gõ ngón tay lên lan can một lúc, không biết làm gì, nàng đứng dậy đi về phòng. Vẫn còn kịp thấy hai người kia sau một khúc quanh, đang mải mê nói chuyện với nhau. Không muốn chạm mặt họ, nàng liền vòng con đường khác. Khuôn viên nhà ở của người Chiêm không trồng cây lớn, nàng phải đi qua dãy nhà phía bên kia.

Khi biết bị đưa đến đây, nàng biết sẽ có thể gặp phải Lê Diệt, nếu cậu ta vẫn còn có mặt ở nơi này. Đã đến mùa gió nồm để thuyền đi về phương Bắc, nhưng hẳn cậu ta không kịp đi nhanh chóng đến thế nếu khởi hành từ Đại Thành. Chỉ có khả năng rằng cậu thanh niên đã có mặt ở đây suốt từ mùa gió bấc – từ lúc nàng bắt gặp cậu ta ở Nước Mặn.

Cùng với sự có mặt của y nơi này – liệu có phải là trùng hợp? Nàng sẽ nghi ngờ điều đó. Nàng được đưa đến đây, không chỉ vì Hoắc Phương yêu cầu, cũng không phải vì nữ chúa Xapatan này là thân tín của Panduranga. Nữ chúa – thông qua Lê Diệt – có vẻ còn có mối liên hệ phức tạp hơn thế, ví dụ như quan hệ với y. Thậm chí, với hắn.

Hắn đã từng đến đây vì yêu cầu của nàng. Trương lão, lại là một cái tên trong những bí mật đen tối nhất của nàng. Trước đây, Xapatan không rõ nàng là ai. Bây giờ, sau khi truy hỏi Lê Diệt, một cô gái thông minh như nàng ta lẽ nào không nhận ra chút gì?

Chầm chậm bước mà ngẩng đầu nhìn ngôi sao Hôm đang tắt dần cuối chân trời, nàng đi vòng qua gian nhà cánh đến vườn hoa đang tỏa nức hương. Chẳng cần phải đợi lâu, nàng nghe tiếng ồn ào trong gian nhà chính, rồi có ánh lửa tiến về phía nàng. Khoanh tay, nàng đứng đợi cho đến khi nhìn rõ người đang tới. Xapatan – cùng với Lê Diệt – xăm xăm bước về phía nàng đang đứng. Vẻ ôn hòa thường trực của nữ chúa này đã mất, nàng ta đang có vẻ nghiêm trang đến dường như là giận dữ.

“Tiểu thư,” Là Lê Diệt lên tiếng, Như Yên nhìn thấy bàn tay cậu ta kéo khẽ tay áo Xapatan. “Nữ chúa có chuyện muốn hỏi người.”

“Trương lão quan hệ gì với cô?” Giật tay áo khỏi cái nắm của Lê Diệt, Xapatan nóng nảy nói. Như Yên chỉ đáp lại bằng cái nhướn mày. “Trương lão được phái đến Rạch Năn quan hệ gì với cô?”

“Trên đời có bao nhiêu người họ Trương?” Như Yên vẫn giữ thái độ lãnh đạm trầm tĩnh mà hỏi lại. Dù biết câu chuyện này đang hướng về đâu, thừa nhận thẳng thắn không phải là bản tính của nàng.

“Người họ Trương quê ở Bắc Kinh, từng cung cấp tài vật cho quân Long Môn thì chỉ có một.” Xapatan nghiến răng. Như Yên nhíu mày. Nhưng nàng chưa kịp lên tiếng hỏi, cô nữ chúa đã chỉ tay. “Kẻ mạo danh thân phận như vậy xuất hiện ở Rạch Năn, là do kẻ nào cử tới? Kẻ nào biết rõ có một người như thế? Kẻ nào liên lạc được tới tận Bắc Kinh mà dò la ra ông ta?”

“Dường như nữ chúa đã quên, rằng triều đình có thể làm tất cả những điều đó. Và chính triều đình phá lũy Rạch Năn, dĩ nhiên.” Nhún vai, Như Yên nhàn nhạt trả lời. Nhìn lên những vì sao trên mái nhà lớn, nàng mỉm cười. “Ý nữ chúa hẳn muốn hỏi, kẻ nào đã nắm được tất cả thông tin và sử dụng nó?”

“Là ta.” Chầm chậm buông từng lời, nàng lắng tai nghe tiếng gió xạc xào trong khu rừng xa. Nàng không nhìn đến vẻ kinh ngạc của Lê Diệt lẫn ánh mắt phẫn nộ của Xapatan. Ngay cả tiếng va chạm lạnh người của kim khí và thanh âm gió rít đến, nàng cũng không ngạc nhiên khi nghe thấy.

Nhưng thanh dao ngắn của Xapatan dừng lại trước cổ nàng. Ở khoảng cách này, nàng dường như thấy được tia máu vằn đỏ trong mắt nữ chúa.

“Xapatan!” Lê Diệt hoảng hốt níu tay cô gái đang giận dữ cực độ về. Đáp lại cậu ta là tiếng quát nghèn nghẹn của Xapatan.

“Ả giết chết Tuyết Nhi! Tại sao các anh còn để ả sống đến giờ này?” Mũi dao vẫn rung động cách cổ nàng một quãng đầy nguy hiểm khi Xapatan cố vùng khỏi tay Lê Diệt. Như Yên nhìn lưỡi dao rồi nhìn lên chủ nhân của nó, ánh mắt vẫn lạnh băng như lời nói.

“Nếu ta chết bây giờ, sẽ có rất nhiều người phải chết theo đấy.” Giọng nói của nàng còn thoáng vẻ uể oải. “Cô vốn biết ta đâu phải tự nhiên mà bị bắt đến đây.”

Mũi dao trước cổ nàng rung động. Nhận thấy thoáng chùng lòng của Xapatan, Lê Diệt liền kéo hẳn tay nàng ta xuống, cẩn thận tước đi con dao. Trừng trừng nhìn nàng một hồi lâu, môi Xapatan run lên.

“Ngày mai dẫn cô ta đi! Ta không cho phép kẻ này ở đây.” Nữ chúa quát trước khi quay người bỏ đi, chẳng rõ là nói với ai trong số họ. Bối rối nhìn nàng rồi Lê Diệt cũng vội bước theo sau Xapatan.

Khi nàng ngẩng đầu lên lần nữa, sao Hôm đã biến mất tự lúc nào.

Thầm nghĩ có nên trở về phòng, rồi nàng lại nhún vai. Đồ đạc của nàng vốn không được đem đến đây, tất cả đều sắm sửa mới. Nếu có rời đi, thiếu gì thì sắm lại là được. Mà lúc này, Xapatan làm ầm ĩ thu hút sự chú ý của mọi người, nàng không muốn bị phiền hà hơn. Nghĩ thế, nàng liền đi về phía mỏm đất cao sau phủ đệ, nơi có thể quan sát mảnh đất phía dưới mà vẫn được bóng tầng nhà cao che chắn. Nơi này vốn dành cho Xapatan hóng gió, trong ngày lễ tết đã được dựng một cái chòi nhỏ, nàng cứ thế đi vào, ngồi xuống chiếc chiếu trải sẵn, lấy bọc kẹo đường mà Hoắc Phương vừa đưa sáng này mà lắt nhắt ăn. Ở xóm làng phía dưới, lửa đã được thắp sáng trong các bữa ăn mừng lễ. Tiếng kèn trống vang vọng cả ngày đã tạm ngớt. Nàng có thể nhìn thấy gió cuốn lật mảnh vải trắng phủ trên nhà lễ trống bay lật phật. Vẫn còn vài bóng người nép dưới các lùm cây rậm. Nàng nghe giọng hát khe khẽ theo gió thoảng tới tiếng được tiếng mất.

  “Pakei đik limưn trun nau
Dahlak thauw di aw pacei oh nit
Limưn tơl takai darak
Riyak pauh klak gơm ngauk Pakei
Limưn trun takai tathik
Riyak ppok balik pauh Xah Pakei”

“Hôm nay sao lại hát những bài thế này chứ?” Nhíu mày, khoanh tay trên gối, nàng nghiêng người về phía tiếng hát mà lẩm bẩm. Dù nàng nghe không rõ, âm điệu não nề của bài hát thì chẳng thể là những bài tụng ca cho ngày lễ.

“Nghe hiểu?” Phía sau lưng nàng chợt vang lên tiếng nói. Không biết từ lúc nào, y đã đến sau chòi. Thậm chí, với vẻ bất động của y khi tựa lưng vào cột chống lớn của chòi, nơi đã bị che khuất bởi tấm chiếu mây che nắng, nàng có cảm giác như y đã tới nơi này còn trước cả nàng.

Không biết từ lúc nào, nàng thầm nghĩ. Như thể y đã học được cách giấu mình đi trên thế gian.

“Không nghe rõ nên không hiểu lắm.” Tuy vậy, nàng vẫn bình đạm trả lời câu y vừa hỏi. Tiếng nói nghe lạ lùng ngay cả với nàng. Trong bóng tối lờ mờ, nàng vẫn còn thấy được mắt y nhìn về phía mình. Hai năm này, nàng đã học tiếng Chiêm Thành, tuy không phải là chuyên tâm cho lắm, đủ để hiểu được câu chuyện giao tiếp thông thường.

“Ariya Xah Pakei[2].” Sau hồi lâu im lặng, y chợt lên tiếng. Giọng điệu của y gần giống hệt như nàng. “Lời của đoạn này là: ‘Chàng cưỡi voi xuống biển. Tôi vịn áo, chàng không thương. Voi xuống bờ biển, sóng biển vỗ úp lên Xah Pakei. Voi xuống bờ biển, sóng biển vỗ cuộn lấy Xah Pakei.’ Mô tả cái chết của Xah Pakei.”

Ồ, nàng chỉ thốt khẽ trong lồng ngực, như thể chờ đợi y nói tiếp. Cuộc trò chuyện có vẻ lạ kỳ này lại phảng phất giống hệt như ngày xưa, khi y dỗ dành nàng bằng những câu chuyện, bài hát lạ lùng từ mọi vùng đất y đã đi qua. Y không bao giờ nói về bản thân, những câu chuyện y kể luôn là của những người xa lạ. Và nàng đã luôn kiên nhẫn chờ đợi lắng nghe.

“Truyện này kể về hai người là Xah Pakei và Mưh Rat.” Vẫn bằng giọng đều đều lành lạnh có phần cứng nhắc, y nói khi hướng ánh mắt đến rừng núi đen thẫm phía xa. “Xah Pakei đi trên đường, thấy Mưh Rat dưới ruộng liền ngỏ ý muốn xin nắm gạo. Mưh Rat bảo, anh xuống ruộng mà lấy. Xah Pakei nghe thế thì cưỡi voi bỏ đi, Mưh Rat vội chạy theo. Một người cưỡi voi, một người đi bộ, người đi người đuổi khắp Panduranga, ròng rã vài năm dài. Lần cuối Mưh Rat tìm thấy Xah Pakei, được Xah mời vào nhà thiết cơm, rồi Xah lại bỏ đi. Khi Mưh Rat đuổi theo, voi đưa Xah Pakei thẳng xuống biển, vĩnh viễn không trở lại.”

Ồ, lần này thì tiếng nói bật ra trong tâm trí nàng, khi sự im lặng đã trùm xuống y. Vẫn khoanh tay như nhập làm một với bóng tối, y như đã quên cả sự có mặt của nàng, ngay khi tiếng vang cuối cùng của âm thanh đã bị gió cuốn đi.

Quả thật, y đã học được cách biến mất khỏi thế gian. Nàng nghĩ thầm, trong tiếng rì rào của gió núi tràn đến thay thế.

Nàng không định hỏi thêm về câu chuyện y vừa kể, như nàng đã luôn luôn không để tâm. Nàng không biết phải nói gì về nó, bây giờ.

Cũng như y, có lẽ nàng đã học được cách để biến mất. Biến mất khỏi chính bản thân. Đến mức nói về quá khứ cũng chỉ tựa như một giấc mơ xa lắc. Nàng cảm thấy mình chẳng có gì để nói về , hiện tại.

Y không nhìn nàng, nàng cũng chẳng nhìn y. Phía bên kia là biển, nàng nghĩ khi hướng mắt về bóng đêm ken dày phía chân trời xa. Nàng nghĩ về những gì nàng dự tính sẽ nói với y, dự định của nàng, với sự bình tĩnh lạ lùng. Cô gái ở dưới làng vẫn đang hát, lần này nàng nghe rõ.

Tóc đứt vướng cây rừng, mảnh áo rách trên mình.

Y vẫn im lặng. Và nàng có cảm giác mình không bao giờ là đối thủ của y trong trò chơi này. Sự im lặng của y có thể đánh bẫy kẻ khác hơn cả trăm vạn lời nói.

“Định đưa ta đi đâu?” Cuối cùng, nàng bỏ cuộc. Trò chơi này không có một chút nghĩa lý. “Đến Phan Rang?”

“Không.” Y chỉ ngắn gọn trả lời. Y không định đưa nàng về trung tâm xáo trộn bây giờ là Panduranga, nhưng cũng không định báo trước cho nàng biết nơi đến. Dù ở đây chỉ là người của y, y cũng không tin nàng. Nàng và Hoắc Phương. Chiêm Dao Luật đã quá liều lĩnh khi cho rằng có thể sử dụng được hai kẻ này. Và sự dâng nộp lẫn ngoan ngoãn chấp nhận dễ dàng của Hoắc Phương và nàng đều không hề là một điềm lành. Đến lượt mình, Hoắc Phương – và cả nàng – biết con bài trong tay mình là gì, để chẳng ai trong hai kẻ ấy tỏ ý lo sợ. Tính mạng nàng không hề quan trọng, cái chết của nàng là hoàn toàn vô dụng – Chỉ có thể sử dụng nàng trong sự sống.

Như y đã từng đưa nàng qua con lạch băng rừng đi về Phú Xuân.

Và nàng đang hoàn toàn bình thản nói về điều đó, bây giờ. Nàng đối mặt với y, như thể đêm ấy chưa từng xảy ra bất cứ chuyện gì. Như thể bọn y chỉ là hai người quen cũ lâu ngày không gặp, mà tình cảm lẫn oán giận trước đây đã hóa thành khói tan vào quá khứ.

Sau này, y biết điều đó có thể xảy ra – sự tan biến của yêu thương và oán giận. Dẫu có đau đớn mỗi khi nhớ lại, cũng chỉ là cảm xúc cho một thứ ký ức đã hoàn toàn cách rời với hiện tại, không liên quan tới con người hiện tại. Thứ khiến người ta đau đớn, cuối cùng cũng chỉ là nỗi đau của chính bản thân mình.

Nhưng nàng đang nói một cách hoàn toàn dửng dưng. Y đã nghe thấy điều đó, nàng nhắc về quá khứ, về những gì mình đã làm, hoàn toàn dửng dưng. Nàng có thể thanh minh, có thể kể lể hay đổ lỗi, nhưng nàng chỉ đơn giản là thừa nhận. Rồi y không biết mình có nên oán hận nàng vì điều đó.

Đáng lẽ y nên oán hận nàng. Như xưa kia. Như khi y còn chưa nghe chính miệng nàng thừa nhận. Như y đã oán hận nàng trước đó và sau này.

Nghe câu trả lời cụt ngủn của y, Như Yên nhíu mày. Nàng quay nhìn y, chợt mỉm cười.

“Ngươi đưa ta đi?” Nàng hỏi, nói tiếp ngay sau đó. “Còn Lê Diệt kia ở đây làm gì vậy?”

“Xapatan chủ trương ôn hòa, không định tham chiến, triều đình Nam Hà cũng không nghi ngờ cô ta, chúng ta chỉ nhờ được vài việc nhỏ.” Hiểu ý nàng, y trả lời. Biết sự qua lại của Lê Diệt với nữ chúa này, y cũng không định kéo cậu ta lún sâu vào. Một đoàn thương buôn nho nhỏ ở tận Đại Thành thì cũng làm được gì nơi đây? Lê Diệt ở lại chỉ vì Xapatan, lo việc lặt vặt trong phủ đệ và vùng đất của nàng ta, âu chỉ vì tình cảm cá nhân.

Bên kia, nụ cười của Như Yên chợt thoáng mấy phần kỳ lạ.

“Thật à?” Nàng hỏi lại. Nhưng rồi cũng không định nói thêm. “Vậy thì chúng ta cũng nên nói rõ với nhau vài điều trước khi làm bạn đường chứ?”

“Đã nghe câu chuyện hồi chiều rồi, phải không?” Xapatan làm ầm ĩ đến thế, nàng sẽ cực kỳ ngạc nhiên nếu y không để ý. Gạt tóc trên vai sang bên, nàng đứng dậy, xoay người về phía y. Trong một khoảng thời gian dài, y đã không cử động dù chỉ một ngón tay. “Dù sao, ngươi hẳn chẳng cần nghe ta giải thích, cũng như ta sẽ không yêu cầu ngươi giải thích bất cứ điều gì. Một người của ngươi, một người của ta hay hai người của ngươi, hai người của ta; thậm chí, tương lai của ngươi hay tương lai của ta; tất cả đều đã trao đổi xong hết cả rồi.

“Nói như thế hẳn là nhẫn tâm, phải không? Chắc chắn.” Nhẹ mỉm cười, nàng sửa lại lọn tóc mai trong gió ào ạt thổi lên từ dưới đồi. “Nhưng ta cũng cần lý do để giải thích tại sao lại không oán hận ngươi.

“Chẳng phải vì ngươi, không đâu, cũng chẳng phải vì những người mà ngươi đã giết. Anh trai ta hay Thanh không đáng để ta đem làm lý do cho sự oán hận một ai đó. Trong khi, suy cho cùng, tất cả là lỗi của ta.

“Ha, phải rồi, ta đau lòng chết đi được.” Ngẩng đầu, nàng cười với vành trăng non đang lên ngang trời. “Phải rồi, ngươi hẳn cũng đã từng như vậy. Có phải là cảm giác gần như muốn phát điên? Có phải là ý nghĩ thà mình là người chết đi cho rồi? Nhưng ta vẫn cứ sống, mặt trời vẫn cứ mọc. Rồi dường như, trong đau đớn cùng cực nhất, ta tưởng như ta đã tha thứ cho ngươi.

“Tưởng như, chỉ thế thôi, người ta thường lầm tưởng những điều tốt đẹp, như là ta có thể thông cảm cho ngươi để tha thứ, chẳng hạn. Nỗi đau của chúng ta đều như nhau, sai lầm, oán hận của chúng ta đều như nhau, vậy thì ta lại không phải là kẻ hiểu nhau nhất thế gian?” Khi nàng nghiêng đầu, y không thấy được đôi mắt nàng trong bóng tối mà trăng tạo thành. Nàng không lắc đầu, y chỉ thấy những sợi tóc mảnh bay qua những ngón tay nàng. Những ngón tay mỏng mềm như ngọn cỏ. “Nhưng ta không tha thứ cho ngươi, rồi ta nhận ra điều đó. ‘Tha thứ’ là một thái độ khác hơn ‘bỏ mặc’. Từ bé đến giờ, ta chưa từng biết tha thứ cho bất cứ ai, chẳng qua ta cứ coi sự tồi tệ xảy ra với mình là đương nhiên. Chẳng ai có nghĩa vụ phải tốt với ta, tại sao ta lại có thể oán trách khi họ làm điều xấu cho ta? Phải, ta cũng rất ít khi oán hận. Người duy nhất mà ta oán hận, cho đến lúc này, là ngươi.

“Dù có phá nát hết tất cả, phá cả bản thân mình, ta cũng bắt ngươi phải trả giá. Ta đã nghĩ như vậy, vẫn luôn nghĩ như vậy. Chỉ có điều, ta quên đi thôi.” Giọng nàng chợt hạ xuống mềm nhẹ như nước, y nghe như có tiếng cười quẩn quanh trong bóng tối. “Rồi khi đã phá cuộc đời mình đến tận cùng, ngươi nghĩ, ta còn lại cái gì?”

Lại chỉ có bóng tối cùng sự lặng yên vằng vặc của trăng trả lời nàng. Y đang nhìn nàng. Nhìn nàng giữ mái tóc bay rối trong gió cuộn. Nhìn nàng sửa lại mép váy đã cuốn lên trước khi quay người rời khỏi chòi. Nàng đến đứng dưới ánh trăng lam bạc nhưng nhức mắt, nhìn thẳng vào y với đôi mắt trong suốt điềm nhiên đến mức y cảm thấy cơn lạnh ẩn ẩn dâng lên trong lồng ngực.

Ánh mắt nàng, trong một cái giật mình âm thầm, đã khiến y nhớ đến một đôi mắt khác. Vẻ trong suốt dửng dưng bình lặng như bầu trời trên mặt biển, thứ ánh sáng chiếu qua bầu trời trên mặt biển.

“Thôi vậy, chúng ta cứ thử thi với Trời xem sao.” Nàng cười. Nụ cười mềm mại, rạng rỡ và gần như dịu dàng. Dịu dàng như thanh âm của nàng. Như những ngón tay và bờ môi mềm lướt qua nhau. “Ta thật lòng rất muốn được thấy Trời diệt ngươi như thế nào.”

 

 

 

Chú thích:

[1] Me là một loại “rau” chủ yếu của người Chăm, hầu như nhà nào cũng trồng một cây để ăn suốt 4 mùa. Họ dùng lá, trái me để nấu canh, luộc súp…

[2] Ariya Xah Pakei là trường ca Chăm có thể được viết vào thế kỷ XVII, gồm 149 câu. Trường ca này kể về cuộc truy đuổi của cô gái là Mưh Rat với chàng trai Xah Pakei qua khắp các nẻo đường Panduranga, kết thúc bằng cái chết của Xah Pakei ở Ia Trang (Nha Trang).




Hồi 17: Con tin
Tuesday, April 10, 2012 Author: Trường An

“Hỡi Yang Apuy, Yang Atitiak, Yang Tanah Riaya, đã ban sự sống cho muôn loài. [1]
Cái gì tối tăm mù mịt nhất? Đó là tâm các người còn u tối.
Trên trần gian cái gì cao nhất? Đó là chính tâm các người được soi sáng.
Trên trần gian cái gì hèn hạ nhất? Đó chính là tâm các người chứa đầy gian ác, dối trá.
Trên trần gian cái gì bén nhất? Đó là lưỡi các người nếu nói sai, có thể hủy diệt hàng loạt hay cả một thế hệ.”

Cô gái vén tấm màn che cửa, nheo mắt nhìn ra ánh nắng bên ngoài, miệng lẩm nhẩm hát theo điệu nhạc vẳng tới từ nhà lễ kajang đầu thôn. Nhưng vẫn với âm điệu ấy, cô gái mặc trang phục Chiêm Thành hát bằng thứ tiếng Kinh rất sõi. Giọng hát trong vắt, thậm chí còn thoáng vẻ trẻ thơ khiến bài tụng mang một sắc thái kỳ lạ.

“Họ đang làm lễ mừng năm mới Rija Nưgar, cô có muốn ra xem không?” Giắt riềm tấm màn vào bên cửa, cô gái Chiêm Thành nói mà không quay nhìn. Đáp lời cô là tiếng cười khẽ vọng ra từ góc phòng. Người quấn tròn trong chăn xoay lưng về phía ánh sáng vừa hắt vào qua khe cửa, hất chăn lên đầu có vẻ như định tiếp tục ngủ. Thở dài, cô gái kia đến, đưa chân gạt tấm chăn sang bên. “Ban đêm cô làm gì mà ngủ đến giờ này?”

“Còn hỏi ta, đám người nào khuân gỗ rồi tụng kinh ỏm tỏi suốt đêm?” Giằng cái chăn lại, cô gái đang nằm ló mái tóc rối ra mà hầm hừ. “Lễ tiệc của cô, cô không ra lại ở đây làm gì?”

“À, ta vốn định vào báo…” Chớp mắt, cô gái Chiêm Thành kia vỗ gáy như thể sực nhớ ra. “Có người đến tìm cô.”

“Chính là người đưa cô đến đây.” Chỉ tay ra phía cửa trước, nơi tiếng đàn hát vẫn vang vọng, cô gái nói. Đúng như cô chờ đợi, người đang nằm lập tức ngẩng đầu, đôi mắt ngái ngủ chợt tỉnh như sáo.

Nhưng đợi đến khi nàng ta ra khỏi cửa phòng thì phải đến cả canh giờ sau. Thẩn thơ rửa mặt, chải tóc cho đủ trăm lần, ăn xong bữa sáng của ngày tết, tìm cho được đôi hài đã đá vào góc phòng đêm trước, nàng ta mới chịu đứng dậy theo cô ra ngoài. Có vẻ đã lâu không được tiếp xúc ánh nắng, nàng ta phải chớp mắt vài lần để làm quen với sự chói chang của đất trời phương Nam.

Đang là ngày lễ mừng năm mới của người Chiêm Thành, nhà lễ đầu thôn được dựng ngay ngoài khuôn viên khu phủ điện của chúa đất. Người trong palei hầu như đã tụ tập đầy đủ trong khoảng đất rộng, xung quanh người đàn ông mặc áo đỏ đang múa lễ theo nhịp trống kèn của các thầy cúng. Không đến gần đám đông, cô gái dẫn nàng ra khỏi cửa rồi lại rẽ ngoặt men theo bức tường ngoài phủ điện tới đồi đất cạnh làng. Bàng biển[2] mọc thành dãy che bóng rậm, cùng với đồi cát hợp thành bức tường thiên nhiên ngăn gió từ biển thổi vào. Đi qua dãy bàng biển đến đỉnh đồi, thấy triền đất thoai thoải dốc xuống khoảng đất rộng thênh dẫn ra biển. Từ nơi này nhìn ra, thấy biển chỉ là một mảng xanh ngút trong nắng chói.

Vì nắng, mất một lúc nàng mới thấy hình dáng người đứng dưới bóng của rừng bàng biển, ngược với nắng đang hắt vào từ rìa đất biên Đông. Áo khoác của y nhạt hơn màu trời, giữa bóng râm lại ngả sắc như khói. Cùng với dáng vẻ mảnh khảnh gầy gò, y trông như có thể bị gió thổi tan.

“Vịt ốm!” Chân vừa đặt lên sườn đồi, nàng đã lên tiếng gọi. Y quay đầu, nheo mắt như thể phân biệt nàng với cô gái bên cạnh. Ở nơi này, nàng đã đổi thành trang phục Chiêm Thành, tuy sợi dây talei tabak không được vắt lên vai mà buộc vòng xuống quanh hông cùng váy mở aban dành cho người già. Khi nàng lại gần, y nghe tiếng xủng xoẻng vang cùng từng bước chân nàng, tuy có vẻ không phải từ đồ trang sức.

“Chúng đối xử với ta thế này này.” Thấy ánh mắt y nhìn xuống, Như Yên liền đưa chân ra trước, cho y thấy sợi xích nhỏ khóa quanh hai cổ chân nàng. Bĩu môi, nàng hất cằm về phía cô gái đã đứng lại ở khoảng cách vừa đủ xa. “Theo ta từng bước không rời, thế mà còn sợ ta mọc cánh ở chân trốn mất.”

“Ngươi kiên nhẫn chịu đựng một chút.” Y lành lạnh nói, nhận được cái quắc mắt trừng trộ của cô gái trước mặt.

“Chịu đựng để qua được đận này, ta thề sẽ đào Hoắc gia trang của ngươi lên.” Khoanh tay trước ngực, nàng cười mà như rít qua kẽ răng. “Ngươi giỏi lắm, dám đem ta đi tế thần để giữ cái mạng vịt này.”

“Ta không đàm phán để ngươi ở đây, ngươi có thể đã bị đem tới Phan Rang cho Oc-nha That chọc mù một mắt trả thù rồi. Ngươi nghĩ người ở Phan Rang sẽ đón ngươi ra sao?” Vẫn giữ thái độ không nóng không lạnh, y lắc đầu. “Ngươi quá khinh địch hay ngươi quá ngốc vậy? Ngươi nghĩ Linh lão đầu là ai, Oc-nha That là ai, vùng đất này là nơi nào để ngươi mặc sức chạy lung tung khắp nơi?”

“Ai gọi ta tới Phú Yên đấy nhỉ?” Hất cằm nhìn ra phía biển, Như Yên cười nhạt. “Ngươi thông đồng với đám người Chiêm Thành, mà Linh lão cũng cần cái cớ để đá ta ra khỏi nhà, ta có ‘mất tích’ thì cũng chẳng kẻ nào phải chịu trách nhiệm, hay thật. Bây giờ hóa ra là lỗi của ta đã bị các ngươi lừa?”

“Ngươi bị lừa?” Khóe môi mơ hồ cong, y tựa vai vào thân bàng biển bên cạnh mà cười hỏi. Như Yên liếc mắt qua y rồi nhún vai quay đi, không trả lời.

“Có vẻ ngươi còn muốn tới tận Phan Rang.” Một lúc không thấy nàng lên tiếng, Hoắc Phương liền nói, hơi ngẩng đầu nhìn mặt trời đang lên cao. Gió khiến những cái bóng của các tán cây lay động trên khuôn mặt y, càng làm đôi mắt vốn thanh lãnh của y sâu tối. “Ta nhắc lần cuối, đừng làm chuyện điên rồ. Chuyện quốc gia đại sự của đàn ông, không cần ngươi nhúng tay vào.”

“Đừng có tự nghĩ tự suy rồi tự biên tự diễn thế.” Khinh mạn đưa mắt nhìn ra màu biển xanh ngọc bích sau cồn cát, Như Yên cười khẽ. “Ta ở đây là tù nhân của các người, các người muốn làm gì thì làm, lại còn giở giọng bảo ta muốn thế này thế nọ. Ta ở đây chỉ có cô nàng kia dò xét từng bước, còn bảo giở mánh mung được với ai?”

“Ta chỉ nhắc trước, để khi ta rời khỏi đây, không biết việc gì sẽ xảy ra.” Thở ra rất khẽ và ngắn, y lành lạnh nói. Như Yên quay đầu, nhướn mày nhìn y.

Y có thể đoan chắc, trong khoảnh khắc, mắt nàng ta đã sáng lên với điều mà y vừa nói.

“Kể ra ngươi đã rời khỏi Hội An cũng lâu rồi nhỉ.” Như Yên gật gật đầu, ngón tay điểm lên cằm. “Thôi về đi, kẻo Hiểu Lam kết hôn bái đường với người ta mất rồi.”

“Ngươi cứ dùng dằng ở đây, có việc lớn xảy ra thì ngươi chẳng có hai cái đầu để mất đâu.” Hạ giọng, sự cợt nhạo đột ngột mất rất nhanh, nàng nheo mắt. “Dù rằng thì chuyến này ngươi đi đâu về đâu cũng lành ít dữ nhiều.

“Ta đã bảo rồi, phải không? Ngươi nên mua một chức quan trong Tàu ty cục rồi rút chân ra đi. Lần này có ta ở đây để ngươi bán đứng, chứ lúc nhúng chàm thật rồi thì không ai gột tẩy cho ngươi được đâu. Vả lại…”

Như Yên nói, rồi đột ngột im lặng. Nàng lại nhìn về phía biển nơi chân trời xa. Bên cạnh nàng, Hoắc Phương chỉ nhẹ cau mày, không tỏ một thái độ nào trước điều nàng vừa nói.

Phía bên kia đồi đất, nhóm người Chiêm Thành vẫn múa hát trong lễ mừng năm mới của họ. Tiếng hát của đôi nam nữ đối đáp nhau vọng lại xào xạc trong những tán bàng biển.

“Cò bay trong buổi sáng tinh mơ,
Cò bay cò đậu trên đồng phù sa.
Cò bay trong đêm tối mịt mù,
Cò bay cò đậu trên đồng lúa xanh.”[3]

Như Yên cúi đầu, bất chợt để thoát ra một tiếng cười rất khẽ.

“Rốt cuộc thì ta cũng chẳng có tư cách hay khả năng gì để khuyên can ngươi. Ngươi còn giấu gì trong hồ lô, ta cũng không biết.” Nàng bĩu môi, đưa tay vỗ vai Hoắc Phương. “Thôi thì cố lên, đừng chết.”

“Ngươi khuyên ta hay trù ẻo ta đấy?” Hoắc Phương vẫn chỉ lành lạnh mỉm cười. “Ta để Xuân Tử ở…”

“Thôi, dẫn chị ta về Thương Trúc trang đi, đánh thuốc mê hay trói lại cứ việc. Để chị ta ở đây phiền phức lắm, chỉ sợ ta chưa mất sợi tóc nào mà chị ấy đã bị chém làm mấy khúc rồi.” Như Yên lắc đầu nói nhanh. “Ở đây ta vẫn còn có giá trị lợi dụng, chẳng ai làm gì được đâu. Vả lại… ta vẫn còn người.”

Câu nói cuối, nàng hạ giọng rất nhỏ. Hoắc Phương khe khẽ thở ra, ngoảnh nhìn đến biển rồi trở lại phía nàng. Tay y chợt đưa vỗ lên tóc nàng.

“Ta đã nói rồi, đừng ngỗ nghịch bày trò, biết không?” Y cười trước ánh mắt quắc lên của cô gái trước mặt. “Đến bây giờ, chỉ còn có ta lo cho ngươi…”

“Tốt thật, ta biết ơn quá luôn.” Như Yên rùng vai hất bàn tay y xuống. Nàng phẩy tay. “Nếu đến để từ biệt thì nói xong rồi, đi đi, đừng nhắc đi nhắc lại như ông già lẩm cẩm thế.”

“Ta với ngươi đều phải cố gắng mới được.” Như vẫn còn điều định nói, y mím môi nhưng rồi lại thôi. Thay vào đó, y lắc đầu nhè nhẹ. “Dù sao, vẫn có điều ta phải cho ngươi biết.”

“Ngươi từng nghe đến Gia Định?” Hoắc Phương hỏi, thấy Như Yên chớp mắt. Nàng nghiêng nghiêng đầu, cau mày như thể tìm lại ký ức. Một lúc, y liền lắc đầu, khẽ cười. “Đúng như ta nghĩ, chuyện gì y cũng kể cho ngươi, ngoại trừ nơi đó. Ngươi biết cả Trịnh Chi Long mà lại không biết Gia Định?”

“Ở Giang Nam?” Vẫn cau mày, Như Yên hỏi lại với đôi chút phật lòng. Trịnh Chi Long – và hầu hết những hiểu biết của nàng về biến động tại phương Bắc – đều do kẻ ấy kể lại, cung cấp cho nàng những thông tin chắc chắn là đầy đủ phong phú hơn hẳn tin đồn bên ngoài. Rồi có thể nàng đã quá ỷ y tin vào y mà không muốn tìm hiểu thêm – nói cho cùng, đó cũng chỉ là những mẩu chuyện xưa không quan trọng đối với nàng.

Nhưng Hoắc Phương đang ra vẻ như nàng là một kẻ mù chữ khi chưa hề nghe đến cái tên mà y vừa nhắc đến kia.

“Gia Định là một vùng đất ở Tô Châu, gần Côn Sơn[4], sơn lam thủy tú, phồn hoa đô hội, vốn là một vùng đất văn vật hưng thịnh, giàu có đông đúc, danh tiếng lan xa. Năm mươi năm trước, Thanh triều đánh Nam Kinh, Hoằng Quang đế phải Nam đào. Lệnh bắt cạo tóc phát ra, dân chúng Gia Định thành phẫn nộ đứng lên phản kháng, tất cả ba lần, huyết tẩy xương trắng thành, nổi danh ‘Gia Định tam đồ’ trong chúng dân Minh Hương không ai không biết.” Ánh mắt trong trẻo lạnh lùng của y dõi vào nàng như nhìn xuyên qua. “Khi Nam Kinh thất thủ, Huyện lệnh Nam Minh trốn theo vua, Thanh triều cử một viên quan khác tới, Tổng binh Ngô Chí Quỳ của Gia Định liền đem đội quân hơn trăm người, ban ngày thì phục ngoài cửa, ban đêm đốt đuốc truy lùng viên quan này, khiến hắn phải trốn đi. Thanh triều phát lệnh cạo tóc, hai chí sĩ là Hoàng Thuần Diệu, Hầu Động Tằng treo cờ ‘Gia Định khôi tiễu nghĩa sư’, kêu gọi dân chúng thủ thành. Nam nữ già trẻ toàn thành nhập quân kháng Thanh, các chí sĩ lãnh đạo phân trận mà giữ thành, phá bỏ tất cả cầu đường, lấy đá tảng lấp cửa. Thanh quân đến bao vây bốn mặt, tướng Thanh là Lý Thành Đống ra lệnh nã pháo vào thành, tấn công dồn dập. Dân chúng Gia Định ngoan cường phản kháng, chỗ nào thành sập thì lấy vải lót gỗ mà bịt, người nào thương vong lập tức bổ sung. Đánh đến hoàng hôn, đột nhiên mưa bão như trút, cuồng phong tối mịt khiến thành không thể thắp đèn, Lý Thành Đống cho quân xuống ẩn dưới kênh huyệt thành. Đến khi mưa bão ngừng, dân chúng ba ngày thủ thành chống bão đã sức cùng lực kiệt, Lý Thành Đống liền cho phát pháo công thành. Pháo động đất trời, nhà cửa tan nát, đá rơi như mưa. Rốt cuộc, Thanh quân phá được một góc thành, chen nhau mà vào. Hầu Động Tằng tự sát ở phía Đông thành, Hoàng Thuần Diệu tự sát ở cánh Tây, các đầu lĩnh đều chết hết. Thanh binh vào thành, như lối ở Nam Kinh, Dương Châu, tàn sát không ngơi tay, không kể lớn bé. Khắp thành xương thịt rơi rụng, tử thi nát bấy, nữ nhân có kẻ bị đóng đinh vào hai tay mà đem đi cưỡng bức. Ba ngày sau, xác chết ngập sông Tô Châu, thuyền đi không qua được, máu ngập dòng nước.

“Nhưng dân chúng Gia Định tiếp tục phản kháng. Nửa tháng sau, Thanh triều một lần nữa công thành. Nhân lúc sáng sớm, có kẻ Hán gian mở cổng thành, đưa quân vào tàn sát dân chúng thậm chí chưa ngủ dậy. Một lần nữa, thây phơi trắng thành.

“Một tháng sau, Tổng binh Ngô Chi Phiên đưa quân phản công chiếm lại Gia Định. Dân chúng lại tập trung trước Ngô quân, nhưng đội quân ô hợp chống không được quân Thanh. Lần thứ ba, huyết tẩy Gia Định thành – Trong thành không còn một mạng.”

Vẫn tựa vai vào thân bàng biển, y chầm chậm nói, thấy ánh nắng lưu chuyển trong mắt nàng. Khi im lặng, y dường như đã thấy một cảm xúc khó mà gọi tên ra thoáng qua gương mặt nàng.

“Chuyện này ta đã hỏi Oc-nha That, Oc-nha That hình như biết thông qua thân tín của kẻ đó, mà hình như cũng chỉ là kẻ xung quanh nghe ngóng hóng hớt được. Ông ta không rõ nội tình, chỉ nghe tai này qua tai kia, biết vậy thôi.” Ngừng một hồi lâu rồi y trầm lặng nói tiếp bằng giọng lành lạnh không rõ cảm thái. “Gia Định năm ấy là một cự trấn, khi Nam Kinh thất thủ, hơn mười vạn quân từ các trấn xung quanh cũng tập trung về. Nhiều thế gia bị diệt môn không còn lại gì trong thời gian đó, kể cũng khó mà biết ai với ai. Một chữ ‘Ngô’ không chắc đã phải là họ[5], ‘Lãng’ cũng không phải là tên.

“Ngươi… nhiều lúc ương ngạnh lại hóa ra nhẫn tâm, biết không hả? Mà quá đoan chắc vào mình để bày mưu tính kế có khi hóa ra là chọc vào tổ ong.” Hơi cúi người để nhìn thẳng vào mắt nàng, y nhẹ lắc đầu. “Bao nhiêu năm, cuối cùng thì đã hiểu chưa?”

“À… Cám ơn ngươi.” Cảm xúc mà y đã thấy trên gương mặt nàng rất nhanh biến mất, Như Yên cười lớn, vỗ tay lên má y. “Vũ khí lợi hại nhất của ngươi là nói dối, bây giờ không sử dụng được, nên ngươi đang dùng cách nói-thật đấy phải không?”

“Thôi, ta lại chẳng rõ tên vịt ốm nhà ngươi. Nếu không tin, ta để cho ngươi đem đến đây sao?” Hạ giọng, nàng thì thầm. “Lúc trước ta cũng chưa hề nghĩ, cuối cùng, người bên cạnh ta chỉ là tên bạn sẵn sàng bán đứng mình như ngươi.”

Ngươi lại chẳng từng bán đứng ta? Có thể, y muốn nói, rồi lại thấy hoàn toàn không cần thiết.

Khi từ giã nàng đi xuống triền đồi rào rạt gió, cát bay ran rát qua làn da, y dường như vẫn còn cảm thấy những ngón tay lành lạnh đặt trên má. Sự lo lắng trong y biến thành gần như là khắc khoải.

Ánh nắng ngút ngát trên biển xanh mờ như khói, trong một khoảnh khắc, đã gợi nhắc y về một giấc mộng cũ xưa. Tiếng cười vọng những lối trúc dày. Nắng xuân xanh nhàn nhạt len qua tầng tầng lá mỏng. Và những cơn gió lạc lối giữa muôn bức tường trúc chẳng tìm lại được lối ra nữa bao giờ. Và những giấc mộng đã lạc giữa thời gian, chỉ để lại tiếng thở dài hút hắt.

Y đã từng nghĩ nàng luôn ở đó, sau những lối trúc quanh co. Như một giấc mộng mà y vừa mơ ước vừa sợ hãi. Như một giấc mộng lúc qua đêm, nhớ lại cũng chỉ đủ để mỉm cười. Không ai thương tiếc một giấc mơ.

Trong cuộc đời vẫn trôi đi với muôn cơn gió giật lốc gào. Như thể mỗi lần đi qua đều là cuối cùng, mỗi ngày đều là khoảnh khắc của kết thúc.

Rồi y lại nghĩ, trong một khoảnh khắc hoang đường trơ trọi, rằng khi chạm đến cái kết thúc tận cùng kia, biết đâu, thứ y nhớ lại là một giấc mơ?

“Hoắc bang chủ bảo tôi chú ý giữ sức khỏe cho cô nương để chuẩn bị đi xa.” Khi dẫn nàng về palei, cô gái Chiêm Thành chợt lên tiếng. Nhíu mày, tay khoanh trước ngực, cô ta nói mà không nhìn nàng. “Sự tình ở Panduranga hẳn đang rối ren, Hoắc bang chủ lại rời đi về Hội An, họ còn định đưa cô nương đi đâu?”

“Ta là con tin để tên vịt ốm ấy rời khỏi nơi này được.” Nhếch môi, Như Yên nói trong cổ họng. Cô gái liếc nhìn nàng, sự thông hiểu chợt thoáng qua ánh mắt.

“Nếu Panduranga biến loạn, cô nương khó có thể giữ mạng.” Cô trầm giọng nói, gần như ngần ngừ. Nếu chiến loạn xảy ra, liệu cô công nữ này có thể trở thành lá chắn được đến bao giờ? Ngay cả Bia Ut Ngọc Khoa cũng đã bị bức tự sát khi Nam Hà chiếm lấy Phú Yên. Mạng sống – dù là của một người mang dòng máu tôn quý – cũng chẳng mấy đáng giá khi so với mưu đồ và tính toán của mọi kẻ.

Một lần nữa, Như Yên cười. Nàng đá lăn tròn một hòn sỏi nhỏ dưới chân.

“Đã ở trong tay người, ta còn có thể tính toán sao?” Nàng nói với giọng điệu mà không ai có thể đoán định là giả hay thật. Tiếng xích ở chân nàng rung động, hướng ánh mắt cô gái nhìn xuống. Thấy thế, Như Yên liền cười. “Chìa mở khóa không ở trong tay nữ chúa, cũng nên ít quan tâm ta thôi.”

“Mà người mở khóa không lâu nữa sẽ tới thôi.” Nhún vai, Như Yên nói. Chưa hết câu, ánh mắt nàng đã đứng sựng về phía cửa ngách phủ đệ. Dưới bóng của tàng cây cổ thụ rậm rạp, kẻ vừa quay đầu lại cũng vô cùng quen thuộc với nàng.

Vịt ốm lừa ta, cả hai đến cùng với nhau, nàng còn kịp lầm bầm trước khi bị cô gái Chiêm Thành kéo về phía người thanh niên mặc áo xám. Y nhìn về phía họ, nhưng mái tóc xõa đã che đi nửa khuôn mặt khiến nàng chẳng thể nhìn ra thái độ của y trước khi đến gần.

Nàng không đến gần. Nàng gạt tay cô gái đang kéo, đứng lại cách y chừng mười bước chân. Cử động đột ngột của nàng khiến tiếng xích rung lên to rõ ngay cả trong sự ồn ào của ngày hội.

Y cũng không nhìn về phía nàng. Trao đổi với cô gái kia vài câu, y quay người đi vào phủ đệ. Cô gái nhìn Như Yên, ra dấu cho nàng đi theo. Nàng liền chầm chậm đi theo họ, giữ nguyên khoảng cách. Đến khi y ngồi xuống hàng hiên trước một tòa nhà lớn, nàng dừng bước dưới bậc thang, tự hỏi nên đợi họ gọi lên hay bỏ đi về phòng.

Ngừng một bước, không thấy ai trong hai người kia cất tiếng, nàng liền chọn cách thứ hai. Có vẻ như cô gái kia đã hỏi, nhưng y lắc đầu. Chiếc xích trên mặt đất bằng phẳng cạ xuống gây ra tiếng động kèn kẹt ồn ĩ với mỗi bước đi. Thấy nhói trong chân, nàng liền tuột giày, hất bỏ viên sỏi không biết đã rơi vào từ lúc nào.

Sau gáy nàng vẫn nhột nhạt nong nóng có vẻ không bởi vì nắng. Bấy nhiêu năm, nàng dường như vẫn còn cảm thấy sự hiện diện hay thái độ của y mà chẳng cần quay nhìn.

Để Hoắc Phương đến trước dặn dò nàng rồi mới xuất hiện, là y cẩn trọng hay thật ra không muốn đối mặt với nàng?

Nhưng nếu y không muốn mở lời, nàng có thể đợi. Nói cho cùng, nàng có vô số thời gian.

 

 

 

Chú thích:

[1] Yang Apuy: Thần lửa. Yang Atitiak: Thần mặt trời. Yang Tanah Riya: Thần đất.

 

[2] Bàng biển hay còn gọi là cây bồng bồng, cây lá hen, cây phong ba, Nam tỳ bà, cốc may.

[3] Đây là bài hát về thần Mẹ xứ sở Po Nưgar của người Chiêm Thành. Nguyên văn:

“Sa bok kuak par mưng page,
lek di hamu ak
Sa bok kauk mưng klam,
Klek di dam hamu tanưh.”

[4] Nay vùng này tên là Gia Định khu, ở phía Tây Bắc Thượng Hải. “Gia Định tam đồ” cùng với “Dương Châu thập nhật” đều là những cuộc tàn sát nổi tiếng thời Thanh sơ. Nhưng cuộc tàn sát Dương Châu nằm trong cuộc thanh trừng triều đình Nam Minh, còn sự phản kháng của Gia Định xuất phát từ lệnh ‘cạo tóc’ của Đa Nhĩ Cổn.

Quân Thanh vào Bắc Kinh, đánh Nam Kinh, thu nạp quan nhà Minh vốn không bắt cạo tóc, vẫn cho mặc y quan cũ. Nhưng có một tiến sĩ Minh triều tên là Tôn Chi Giải, nhân phẩm tài năng thấp, thấy quân Thanh vào liền chạy ra hàng đầu tiên, được cất nhắc làm Lễ bộ thị lang. Tôn cạo tóc mặc áo Mãn xu nịnh, bị quan quân của cả hai bên cười chê. Xấu hổ, Tôn Chi Giải liền viết tấu chương cho Thuận Trị lúc đó mới 7 tuổi, bày kế ‘phá văn hóa Hán’. Nhiếp chính Đa Nhĩ Cổn nghe lời.

Ngày 28 tháng 6 năm 1645, Thanh triều truyền “Nơi gần trong 1 tháng, nơi xa 3 tháng, tất cả phải thuận cạo đầu”. Toàn Giang Nam phản kháng, bắt đầu từ Tô Châu. Quân Thanh trấn áp Giang Nam máu chảy thành sông. Giang Âm cùng vùng phụ cận, 20 vạn người bị giết. Côn Sơn bị tàn sát trong 3 ngày liền. Gia Định, trong lần tàn sát thứ nhất, 3 vạn người bị giết; lần thứ 3, 2 vạn loạn dân mới đến cũng bị giết sạch.

Sự kiện Gia Định tam đồ, sau này thường được nhắc đến như một biểu trưng cho sĩ khí bất khuất của người Minh. Lệnh ‘thế phát’ của nhà Thanh chỉ có thể thực hiện trên một thành toàn xác chết.  

[5] Vùng đất phía Nam Trung Quốc thường được gọi là Ngô Việt, mà vùng phía Đông Bắc là Ngô, Tây Nam là Việt.




Hồi 16: Tử Mi hoa
Monday, April 2, 2012 Author: Trường An

Tháng ba năm Quý Dậu, tại Bình Khang, Thống binh Nguyễn Hữu Kính phá tan quân Chiêm, bắt được nhà vua Chiêm Thành là Bà Tranh cùng Tả trà viên, Kế Bà Tử, vương phi Bà Ân.

Lệnh đổi Panduranga làm trấn Thuận Thành.

Ngày Ất Mão, triều đình Nam Hà mở lễ đoạn tang vị chúa trước, tấn tôn chúa Minh Nguyễn Phúc Chu làm Thái phó Quốc công, tôn hiệu Quốc chúa.

Chúa mở đàn dâng lễ, tự mình đến thắp hương trước lăng tiên chúa. Từ sáng sớm, đội quân đội mão đỏ đi trước dẹp đường, bắt dân chúng lùi ra xa một, hai dặm. Đội lễ nhạc đi đầu, nối tiếp bằng hai hàng quân hầu tả hữu cầm kim đao, kim thương. Chúa ngồi trong cỗ kiệu mười sáu người khiêng, đội mũ xung thiên, mặc áo lễ màu huyền, mang hài nhung[1]. Dâng lễ xong ở Thái miếu, đoàn kiệu trở về chính điện. Kiệu chúa đến cửa đại cung, bắn bảy phát súng lệnh. Quan nội giám cho người đưa lỗ bộ, nghi trượng, tán xướng và nhã nhạc bày hàng chờ trước điện.

Trong sân điện thị triều, ngai vàng đặt ở giữa điện, bảo án phía Đông, giường ngự phía tả. Hương án đặt quay về hướng Nam, đẳng gỗ đọc chiếu hướng về phía Tây. Các vương thân bưng sách, ấn, biểu tâu cùng các quan văn võ được chọn chấp lễ đứng chờ ở chái Đông viện. Các quan văn võ mặc phẩm phục chờ trong sân. Các công tử, ngoại tộc đứng ở ngoài ban.

Chúa nhận biểu tấn tôn của các quan rồi mặc long bào, đai ngọc, đội mũ xung thiên, lên kiệu đến chính điện. Đến giờ làm lễ, chúa đứng vào bái vị. Hoàng thân và các quan theo tiếng xướng “Bài ban” mà sắp hàng theo ban thứ, cùng chúa lạy năm lạy. Quan phủng chiếu khiến tự ban đưa bảo án cùng tàn vàng để giữa ngự đạo. Quan tuyên sách, quan bộ sách quỳ trước án, quay mặt về phía Bắc, mở sách tuyên đọc, đọc xong liền để vào hòm. Hai vương thân bưng hòm ấn sách, ngọc tỷ dâng lên ngai vàng. Chúa và các quan lại làm lễ năm lạy. Vương thân dâng các hòm ấn sách cho chúa, chúa tiếp nhận, đưa ngang trán, chuyển cho một vương thân khác đứng ở phía Tây đưa lại về ngai vàng. Các quan làm lễ khánh hạ. Chúa đứng ở bái vị cho các quan cùng họ hàng thân tộc bày hàng làm lễ năm lạy mừng rồi đi ra kiệu. Theo nghi thức đến cửa đại cung, bắn ba phát lệnh.

Trong cung, các cung tần, phu nhân, công nữ, phủ thiếp, mệnh phụ lần lượt vào làm lễ. Quan nội giám mặc sắc phục đưa các hòm ấn sách vào cung. Chúa cho lệnh thiết yến ở phủ điện.

Nhã nhạc nổi, các cung nữ đội mũ hoa, mặc áo xanh cầm đèn ra múa hát. Khắp thành cờ xí muôn sắc, nhạc cử khắp chốn, nghiễm nhiên trở thành một ngày hội.

Khi người vương thân Nguyễn Phúc Nhuận cùng viên nội giám đưa hòm ấn sách vào cung, vị chúa ngồi sau rèm cho gọi người anh em họ ở lại. Ở nhà ngoài, một mệnh phụ được đưa vào làm lễ liền đứng lại, được vị chúa cho tiếp tục.

“Không biết bao giờ mới hết.” Ngả hẳn lưng vào thành ghế phía sau, chúa Nguyễn Phúc Chu nhỏ giọng nói với Nguyễn Phúc Nhuận ngay khi người thanh niên vừa vén màn đi vào. Vị chúa trẻ uể oải đưa ngón tay ra dấu về phía người phụ nữ đang làm lễ ba lạy sáu vái ở ngoài. “Ta vốn tự cho rằng mình biết nhiều người, trong những dịp thế này mới nhận ra là ta chỉ biết chưa đến một nửa trong số họ.”

“Thê thiếp, con cái của các quan vẫn thêm luôn, ngài không biết đâu có gì lạ.” Nguyễn Phúc Nhuận chỉ cười, ngồi xuống chiếc sập thấp kê bên ngai sau khi vị chúa cho phép. Nguyễn Phúc Chu nhàn nhạt trả lời chúc phúc cho vị phu nhân, trong lúc bà ta quay ra mà ngoảnh lại phía viên Chưởng cơ họ hàng, vẫy ngón tay trước mặt.

“Không, là mẫu hậu ta nhất quyết gọi tất cả bọn họ đến đấy.” Nhấn mạnh mấy chữ cuối, Nguyễn Phúc Chu mỉm cười trước vẻ chợt hiểu của người anh họ. “Nhưng đến mặt bọn họ ta còn không kịp nhìn.”

“Quốc mẫu đã định gửi ý vào đâu?” Nguyễn Phúc Nhuận chỉ cười. Con gái của các quan tuy nhiều, nhưng gia tộc có thể gả con cho chúa làm vương phi chẳng có bao nhiêu, đồng tuổi với vị chúa trẻ lại càng ít. Nếu muốn con trai kết hôn trong dịp này, hẳn quốc mẫu cũng đã có ý lựa chọn trước.

“Cháu gái của Quốc sư Hồ Quang Đại, năm nay mười bốn tuổi.” Búng ngón tay vào lòng bàn tay, hơi sửa lại tư thế ngồi khi người phu nhân tiếp theo dẫn con cái vào điện, Nguyễn Phúc Chu trả lời. Rồi vị chúa lại đột ngột đổi trọng tâm câu chuyện. “Bên ngoài có tin gì không?”

“Chúa công muốn hỏi về tin tức gì?” Hạ giọng nói khi vị phu nhân làm lễ mừng, Nguyễn Phúc Nhuận cũng không ra ý muốn hỏi thêm về chuyện nhà chúa. Hồ Quang Đại, người đã bằng văn học mà thi đậu thủ khoa, làm đến chức Thị giảng đời chúa Hiền, sau khi mất được tặng chức Quốc sư. Nhưng cháu ông, người có con gái sắp được tuyển vào cung, lại chỉ là một Tri bạ nho nhỏ. Cả về danh thế gia tộc lẫn quyền lực, đều không cách nào so được với những dòng họ thân thuộc của nhà chúa, chưa nói đến Tứ trụ đại thần[2].

Là vị chúa trẻ hay mẹ cậu ta chọn, thật khó phân.

“Quế có tin gì không?” Đưa mắt nhìn Nguyễn Phúc Nhuận, vị chúa trẻ cau mày. Viên Chưởng cơ trẻ tuổi cũng chỉ mỉm cười.

“Hiện thời nơi nơi hỗn loạn, chúa công muốn biết về sự việc nào trước?” Anh ta nói, rồi lường trước được thái độ không bằng lòng của vị chúa mà nói tiếp ngay. “Mọi kẻ bây giờ đang còn án binh bất động chờ hành động của chúng ta, không dại gì mà có kẻ ra mặt gây rối, cũng khó cho ta dò la tình hình. Ngay cả việc điều tra tìm chứng cứ cũng khó mà làm. Ta động, kẻ địch mới động, tình hình mới có chuyển biến.”

“Chúng nhất quyết không đòi lại nhà vua vẫn bị giam ở Bình Khang, hả?” Nguyễn Phúc Chu nhàn nhạt mỉm cười. “Đã cử một kẻ nào đó tên là Po Chongchan lên làm vua?”

“Tả trà viên là con trưởng của Bà Tranh, Kế Bà Tử là em trai nhà vua, Bà Ân là hoàng hậu. Tất cả ở trong tay ta, người có quyền kế vị Bà Tranh ở Phan Rang coi như đã không còn.” Ra vẻ không nhận thấy thái độ của vị chúa khi nhắc đến cái tên Po Chongchan, Nguyễn Phúc Nhuận vẫn mềm mỏng trả lời. “Po Chongchan có chấp chính, cũng là hợp lẽ.”

“Tội chết có thể tha, tội sống có thể sao?” Vẫn hướng mắt về phía tấm màn mỏng mà nắng đang hắt vào tạo thành những cái bóng lờ mờ chuyển động, Nguyễn Phúc Chu nhẹ cười. “Từ khi tiên phụ ta mất, Chiêm Thành đã không nộp cống, đến bây giờ cộng với khoản chuộc tội là bao nhiêu?”

“Chúa công, tình thế căng thẳng, ép quá mức có khi sẽ vỡ.” Nguyễn Phúc Nhuận nhíu mày, nghiêng người tới mà lắc đầu. “Ta phế quyền của Panduranga, lập trấn Thuận Thành, đã không phải là việc hợp lòng người. Nay thân quyến của Bà Tranh đều đã nằm trong tay ta, lại ép họ đến đường cùng, e sẽ gây biến loạn.”

“Biến loạn? Còn có thể biến loạn đến mức nào?” Nghe thế, Nguyễn Phúc Chu cười thành tiếng. Tiếng cười nhỏ và ngắn lọt qua đôi môi cậu ta nghe khàn khàn. “Nhà vua thân chinh cử đại binh đến tấn công ta, thì còn có thể ‘biến loạn’ được đến mức nào hơn nữa?”

“Mà muốn nổi loạn, thì cứ việc mà nổi loạn đi.” Nhún vai, lại tựa người ra sau ghế, Nguyễn Phúc Chu giữ nguyên nụ cười trên môi mà nói với những cái bóng trên màn. “Còn kẻ nào muốn nổi loạn thì cứ ra mặt, để ta từ từ triệt hạ cho bằng hết.

“Đừng nghĩ rằng nếu ta bất động thì địch bất động chứ.” Nguyễn Phúc Nhuận vừa mở miệng, vị chúa đã liếc mắt nhìn sang, ngắt lời viên Chưởng cơ. “Chúng không định chờ ta ngồi cho vững cái ghế này rồi mới hành động đâu. Thời gian, chúng chẳng có bao nhiêu thời gian để mà đợi. Ta cũng chẳng có bao nhiêu thời gian mà du di chờ đợi chúng. Nếu muốn có một lý do, thì ta chủ động vẫn hơn.

“Chiến trường, là thứ ta có thể tự tạo cho mình.” Cuốn tay áo rộng giữa những ngón tay, mắt Nguyễn Phúc Chu nheo hẹp dài nhìn ra vệt nắng. “Bàn cờ của ta, kẻ nào muốn nhảy vào, sẽ phải chơi theo luật của ta.”

Gió tháng ba vẫn còn hơi âm ẩm lạnh luồn qua những khe cửa, hành lang và cột chống phả vào phòng. Vị chúa trẻ không cho đốt lò sưởi trong phòng, và vị khách ngồi cùng đã cảm thấy hơi lạnh len vào gáy.

Hiếu thắng, háo danh, bốc đồng, hung hãn, rất nhiều, rất nhiều lời nhận xét đã được nói ra với những hành động của vị chúa còn chưa đến tuổi đôi mươi này. Tự xưng quốc chúa, tự nhận quốc gia, phế truất quyền lực của triều đình Chiêm Thành, tất cả đều là việc mà không ai trước ngài ta dám làm trước đó. Chúa Hiền, sau khi đánh vào Nghệ An ép Trịnh ký hòa ước, sau khi phá tan quân đội của vua Bà Tấm lấn đến Phan Rang, cũng không thể làm như ngài ta – trong hàng chục năm dài sau đó. Ngay cả cha ngài ta cũng không thể - không dám – hành động. Lên ngôi quốc chúa và phế Panduranga thành trấn Thuận Thành, ngài ta, trong cùng một lúc, gây nên cơn sóng ở cả hai đầu Nam Bắc.

Trịnh có thể phản ứng, có thể không, khi vùng đất phương Nam này luôn luôn chỉ là một nơi không đáng quan tâm với triều đình phương Bắc. Nhưng ngay cả ở vùng đất phương Nam này, không phải kẻ nào cũng muốn ở trong triều đình của-ngài-ta, đất nước của-ngài-ta. Phù Lê diệt Trịnh, cái chiêu bài ngày xưa của quân đội Nam Hà, đã từng lôi cuốn được không ít kẻ. Quay lưng với triều đình phương Bắc, mất đi sự ủng hộ của ngay chính dân Việt, ngài ta sẽ chẳng còn gì.

Và triều đình Panduranga, cái triều đình nhỏ trong mảnh đất cũng rất nhỏ, cũng mang sức ảnh hưởng to lớn hơn hẳn vẻ bề ngoài. Tất cả đất đai bọn họ đang đứng đây đều đã từng thuộc về nó. Đất nước – cái đất nước mà vị chúa trẻ này muốn dựng xây đây – chính là nó. Hoàn toàn. Từng tấc đất con sông. Ngài ta không phế truất triều đình của một phiên thuộc. Ngài ta làm biến mất cả một đất nước. Từng tấc đất con sông. Từng con người.

Một hành động có thể khiến ngài ta – bọn họ - mất tất cả.

Và rồi, ngay trong triều đình này, ngài ta làm gì? Thu nạp con gái một Tri bạ nho nhỏ không thân không thế làm vương phi. Ngài ta đã quên, rằng cha ngài chỉ là con thứ dòng thứ mà sự nối ngôi cũng gây ra sóng gió?

Đối đầu, ngài ta nói. Nhưng ngài ta có sức mạnh nào để đối đầu? Dựa vào cái gì?

Có cảm thấy phản ứng của người bên cạnh hay không, vị chúa trẻ Nguyễn Phúc Chu vẫn chỉ ngồi im, hai bàn tay đan nhau trước ngực. Đã đến lúc xế trưa, sau khi tiễn một vị phu nhân ra cửa, tổng quản nội giám đem vào phòng trong một khay trà, kính dâng cho vị chúa cùng người khách. Nguyễn Phúc Nhuận nghiêng người định rót trà hầu, vị chúa đã xua tay, lấy khăn lụa lót mà nhấc siêu nước tráng ấm, châm trà, rót ra hai chén nhỏ.

“Đây là nước tuyết trên đỉnh Thiên Sơn, hứng tuyết đọng trên hoa mai đầu xuân nở sớm, lấy vào bình gốm đã nung mười lửa, cả ngọn núi chỉ lấy được chừng năm bình. Chuyên chở đến đây thì giá đã là trăm lạng vàng. Có phải mùi hương rất trong trẻo, lại thoang thoảng vị hoa mai?” Đưa chén trà cho Nguyễn Phúc Nhuận, Nguyễn Phúc Chu cười nói, không vội nâng chén của mình lên. “Trà này là Tử Mi hoa mọc trên núi cao vạn trượng, ở vách đá cheo leo, mười năm nở hoa một lần, phải phơi sương lúc hoa còn chưa héo mới có thể đem làm trà, giá cũng là trăm lạng hoàng kim. Chén uống trà phải tráng qua nước suối Ngọc Trản nấu sôi, rửa lại bằng nước khe Mai Đàn. Than đun phải là than quế than lim, nhất quyết không phải loại củi muội nhiều khói lắm. Trà này uống một hớp như uống cả đại giang Nam Bắc, trời đất muôn trượng vào lòng. Hôm nay là ngày khánh hỷ, khanh thật là có phúc.”

“Đa tạ chúa công.” Đón chén trà từ tay vị chúa, Nguyễn Phúc Nhuận kính cẩn bình đạm xoay chén trà trong tay, dùng đúng nghi thức mà uống. Khi nhấp môi, ngẩng đầu nhìn lên, anh ta thấy Nguyễn Phúc Chu vẫn nhìn mình, chưa hề chạm tới ly trà trước mặt.

“Sao vậy, trà không ngon sao?” Thấy thái độ của Nguyễn Phúc Nhuận, vị chúa trẻ chỉ cười. Ngần ngừ một thoáng, viên Chưởng cơ cúi đầu thở dài.

“Có vẻ thần là kẻ phàm phu tục tử, không đủ tinh tế để cảm nhận được hương vị loại trà cực phẩm này.” Lời còn chưa nói hết, Nguyễn Phúc Nhuận đã nghe tiếng cười. Ngả lưng về sau, Nguyễn Phúc Chu bật cười ha hả, ném đi tất cả vẻ trịnh trọng mệt mỏi từ khi người anh họ bước vào. Không nói không rằng, vị chúa chỉ ngửa đầu mà cười.

Dứt cơn cười, Nguyễn Phúc Chu nheo mắt nhìn Nguyễn Phúc Nhuận, xua ngón tay trước mặt.

“Đây là trà ta ban yến cho quần thần. Nước – là nước giếng sau phủ của ta. Trà – là trà hạng nhất ta mua của thương nhân Tàu. Ấm chén là thứ đồ thượng hạng ta đặt mua ở Quảng Châu, cung nhân vừa đem ra giếng rửa hôm trước.” Chầm chậm nói với khóe môi càng lúc càng nhếch cao, Nguyễn Phúc Chu có vẻ như lại sắp phá ra cười trước thái độ của người anh họ. “Tử Mi hoa? Trên đời này không có loại gì tên là Tử Mi hoa hết. Nó chỉ là giống cây thuốc hiếm được những người trồng thuốc đem về trồng, pha trộn với trà bình thường khiến nó có màu tim tím. Tử Mi hoa chỉ là một trò đùa, thế thôi.”

“Nhưng nếu ta nói rằng đây là nước trên hoa mai Thiên Sơn, Tử Mi hoa trên núi cao vạn trượng, củi quế củi trầm, thể nào cũng có kẻ vục đầu mà uống, mà khen nào là mùi mai mùi quế, nào là hương tuyết hương trầm. Không, cũng chẳng phải là họ xu nịnh dối gạt ta. Họ cảm thấy thế thật đấy. Nhưng trên đời này, ta hỏi thật, hương hoa mai Thiên Sơn là thế nào, Tử Mi hoa hình dáng ra sao, kẻ nào đã từng ở trên đỉnh cao vạn trượng, chìm xuống lòng suối trăm nơi mà tả?” Nhấc chén trà bằng một tay, ngắm nghía sắc xanh của men lam trên sứ, Nguyễn Phúc Chu nhè nhẹ cười. “Tất cả chỉ là cảm giác của người ta thôi, có phải?

“Đã từng có kẻ hỏi ta như thế - Rằng, ta muốn gì? Lúc ấy, ta còn quá non dại lẫn kiêu ngạo vô lối để đưa ra đáp án. Y không bảo ta đưa ra đáp án, y chỉ kể chuyện. Rằng, trà trong mọi nơi đều khác nhau. Mỗi kẻ theo đuổi lý tưởng khác nhau rồi sẽ có lựa chọn và đáp án khác nhau.

“Vậy thì ta có bịa ra nước tuyết Thiên Sơn, Tử Mi hoa trên vực, cũng có gì là không được? Như người hái búp trà ngon phải là trinh nữ, nước pha trà phải tinh khiết tuyệt đối – lấy gì kiểm chứng? Như những kẻ học đòi chữ nghĩa rởm đời cứ nhất định rượu bồ đào phải uống với chén dạ quang, rượu xanh phải ở trong chén ngọc – chỉ cần có kẻ đề xướng, lời lẽ thật hay thật đẹp, thế là muôn ngàn kẻ rởm đời khác cứ tin là thế thật. Đến ngày có kẻ nói rằng nước giếng đem pha trà mới là hảo hạng, ta thề cũng sẽ có muôn kẻ tin răm rắp.

“Nếu khanh vĩnh viễn không biết sự thật, thì trà này có phải là Tử Mi hoa, tuyết Thiên Sơn hay không, có ý nghĩa gì? - Ngoại trừ, nó không ngon như khanh tưởng.”

“Điều quan trọng là ở chỗ - nó không ngon như thần tưởng.” Nhũn nhặn mỉm cười, Nguyễn Phúc Nhuận nhẹ nhàng đáp lời khi vị chúa đã im lặng. Đôi mắt Nguyễn Phúc Chu càng nheo lại, bắt lấy ánh nắng hắt vào như nước tỏa sáng nhàn nhạt.

“Trà ngon là thế nào? Kẻ đó cũng hỏi ta như thế. Khanh có thể nói, nó cũng thuộc về khẩu vị, hả? Nhưng không phải. Uống trà cũng là một thói quen và phong tục – nơi thích trà đắng, nơi thích trà thơm, nơi cầu kỳ trịnh trọng, nơi đơn sơ mộc mạc. Rốt cuộc, người muốn nói trà ngon là thế nào?” Nhấp môi trên thành chén sứ mỏng, đôi mắt sáng bị khói mờ phủ, ánh mắt Nguyễn Phúc Chu không rời khỏi gương mặt người đối diện như thể đang dò xét từng phản ứng. “Cái mà khanh gọi là khẩu vị, là cảm giác, là tất cả tiêu chuẩn của bản thân, cũng là thứ thói quen, thứ tập tính nằm trong chính khanh mà thôi. Chẳng có thứ gì là của khanh cả.”

“Thứ mà Phật gia gọi là ‘Bát chính đạo’, Nho gia kêu gọi ‘cố dục hồn tâm chính tính’, cũng là thế thôi, mà trên đời có mấy kẻ hiểu?” Thổi lớp khói bềnh bồng trước mặt, ánh mắt Nguyễn Phúc Chu lại lơ đãng nhìn theo màn khói tan vào nắng nhập nhoạng giữa bóng tối. “Thế gian này, tất cả mọi thứ ta nhìn thấy, cảm thấy, đều là giả cả. Mà tất cả, tất cả thế gian này, ta đều có thể tự tạo ra được.

“Chẳng phải là Mãn Hán đánh nhau, chỉ là một bọn đi buôn thiên hạ - kẻ đó đã từng nói với ta như thế. Tất cả chỉ là bọn con buôn, đem lời đường mật đi bán lý tưởng, hy vọng và tương lai. Bọn con buôn đi bán những giấc mơ, và bắt khách hàng phải trả bằng cả cuộc đời. Rốt cuộc, tất cả chỉ trôi ra Hoàng Hà, đi ra biển. Ngay cả bọn con buôn ấy, có thể chúng cũng bị lừa mị bởi giấc mơ của riêng mình, biết đâu?” Mơ hồ nhún vai, cậu thanh niên còn rất trẻ cười khẽ trong cổ. “Tám trăm năm trước, không có Đại Thanh, cũng không có Minh triều. Tám ngàn năm trước, không có Hoa Hạ hay thứ gọi là Hán tộc, hay Đại Việt. Tám vạn năm trước, không có gì hết. Tất cả mọi thứ trên trái đất hiện tại, đều là do con người tự tạo ra đấy thôi.

“Tần Thủy Hoàng thâu lục quốc, Hán Cao Tổ lập nhà Hán, người Tàu mới biết thế nào là ‘cùng một đất nước’. Phân tranh chiếm đóng, lấn xuống phương Nam phương Tây, mới tạo thành cộng đồng gọi là Hán tộc hiện tại. Cả Đại Thành, Miến Điện, Ai Lao. Tất cả mọi nơi trên thế giới. Người ta tự tạo ra mọi thứ để tôn thờ đấy thôi, rồi cứ coi nó là sự thật duy nhất, như đương nhiên phải thế. Ngay cả những kẻ đang loay hoay bối rối hay đang chống đối ta hiện tại, cũng chỉ thế thôi.” Đôi mày thanh hơi cau, vị chúa trẻ lắc đầu với cái bóng mờ ảo sau làn khói. “Hãy đem bán cho họ một giấc mơ, thật nhiều giấc mơ. Hãy thải loại những giấc mơ cũ đi, những thứ không còn đem lại lợi ích hay chút ít sự thật nào. Khanh nghĩ, ở phương Bắc, người ta quả thật vẫn còn tin vào lòng trung thành của họ Trịnh hay cơ đồ nhà Lê? Chắc hẳn chỉ có những kẻ thấp cổ bé họng bị lừa gạt là tin thế thật – nhưng những kẻ ấy chẳng có sức lực để làm bất cứ cái gì. Những kẻ còn lại, gắn bó với Trịnh từ những ngày trong quân đội phù Lê, từ những ngày triều đình được lập ở Đông Kinh, từ muôn vàn quan hệ và lợi ích. Cứ thế, chúng dính lại với nhau. Và rồi dối gạt cũng trở thành sự thật. Chúng ta ở ngoài này, chúng ta bảo rằng ‘không phải thế’ – nhưng chúng ta trở thành kẻ bội phản và dối trá. Một khi không chấp nhận, chúng ta sẽ bị tiêu diệt.

“Mà thôi, cứ để giấc mơ ngai vàng ấy lại cho họ Trịnh, ta không quan tâm đến nữa. Giấc mơ ấy cũng đã cũ rồi, đã chẳng ai ở nơi này tin nữa. Vậy thì, ta sẽ cho bọn họ một giấc mơ khác. Một đất nước khác. Một nơi có thể dung chứa tất cả, tất cả chúng ta lẫn bọn họ. Tất cả mọi thứ trên thế gian này đều do con người tạo ra mà thôi. Tất cả chỉ là vấn đề thời điểm. Nếu cứ đứng yên một chỗ, chúng ta sẽ bị hủy hoại. Nếu cứ chùng chình mà ôm lấy những giấc mơ lỗi thời rách nát, chúng ta sẽ tự hủy hoại chính mình. Mảnh đất này có quá nhiều loại người, quá nhiều những giấc mơ rách nát, những loại lý tưởng mục ruỗng điêu tàn, cũng quá nhiều những kẻ ngông cuồng tham vọng. Nếu không muốn cả chúng ta lẫn bọn họ đánh nhau, đánh lẫn nhau cho đến chết, thì phải có một giấc mơ thật lớn – Cho chúng ta, cho bọn họ.”

“Ý định của chúa công là…” Nguyễn Phúc Nhuận thận trọng ướm lời. Nguyễn Phúc Chu đặt ly trà đã uống cạn xuống khay, vẫy tay ra hiệu cho quan nội giám gọi người vào tiếp theo. Ánh mắt vị chúa trẻ lại trở nên lơ đễnh khi nhìn ra vệt nắng sau tấm màn lụa mỏng.

“Trà hôm nay, ai cũng khen ngon.” Người thanh niên trẻ nói khẽ, rồi mỉm cười với lời chúc phúc của cô gái vừa vào. Nguyễn Phúc Nhuận nhìn xuống chiếc chén đang cầm, thấy sợi trà nhàn nhạt một màu xanh thẫm. Không phải là sắc tím.

Viên Chưởng cơ quyết định không hỏi lại rằng, có phải chúa công đã nói với bọn họ, đây là Tử Mi hoa?

Rốt cuộc, Tử Mi hoa, đó là một trò đùa.

 

 

 

Chú thích:

[1] Nghi thức của chúa Nguyễn Phúc Chu đã được Thích Đại Sán ghi lại trong Hải ngoại ký sự. Mũ xung thiên trong thời Lê Trung Hưng vốn được dùng cho cả vua và chúa, chúa Trịnh cũng đội mũ xung thiên, áo tía trong lễ Nam Giao và tiến tôn. Quân đội chúa Nguyễn, trong các ghi chép và hình ảnh, đều đội mũ (hoặc khăn) màu đỏ. Sắc đỏ cũng là sắc binh phục chính (cùng màu lục, lam) của quân đội nhà Nguyễn sau này.

[2] Hồ Quang Đại là người Thừa Thiên. Cháu gái của Hồ Quang Đại sau khi vào cung được ban họ Tống, dòng họ này sau đó mang họ Tống Phúc, hoặc Tống Hồ, không liên quan đến họ Tống Phúc quê ở Thanh Hóa thân quyến của nhà Nguyễn. Cha của vương phi tên là Hồ Văn Mai, sau này đổi thành Tống Phúc Đào, trước 1706 chỉ là Tri bạ.

 




Hồi 15: Cái bẫy
Thursday, March 29, 2012 Author: Trường An

“Xuân giang triều thuỷ liên hải bình, Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh. Diễm diễm tuỳ ba thiên vạn lý, Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh.”

“Giang thiên nhất sắc vô tiêm trần, Hạo hạo không trung cô nguyệt luân. Giang bạn hà nhân sơ kiến nguyệt? Giang nguyệt hà niên sơ chiếu nhân?”

Áo thanh cát sắc vi minh nhàn nhạt được viền những đường thủy ba sặc sỡ bay lất phất theo từng bước chân. Khăn nhiễu buộc quanh trán thả đuôi về sau lẫn vào tóc. Làn da tai tái một sắc xanh có phần kỳ dị dưới ánh trăng. Y vừa đi vừa hát, chân như lướt trên cỏ, tiếng ca như gió xạc xào giữa những tán lá dày. Thấy ánh lửa, y liền nheo mắt.

Dưới triền đồi, khu phố nhỏ gần như một ngôi làng nằm bên dòng sông, những mái gỗ chen cùng ngói nhấp nhô đã gần như chìm vào bóng đêm, chỉ có lửa vẫn còn sáng trên tháp canh hai đầu con đường cắt ngang qua phố. Đêm sáng trăng, những chiếc thuyền đậu thành dãy bên bến không thắp đèn, nghe tiếng sóng nước vỗ ì oạp vào kè đá. Dòng sông đổ từ trên dãy núi cao xiên ngang qua khoảng đất rộng, dưới chân núi dường vẫn còn nghe tiếng nước ồ ồ. Bên kia bờ sông, qua khoảng đất ruộng, bóng vài ngôi nhà của dân trong vùng còn giữ nguyên lối dựng sàn cao mái lớn hiện rõ trong ánh trăng.

Phất tay áo, y chọn ngồi lên một thân cây hơi nghiêng trên triền đồi, thả chân xuống khoảng không sâu hút tràn đầy bóng tối bên dưới. Ngẩng đầu nhìn trăng vằng vặc trên cao, y lại nghêu ngao hát tuy đã hạ tông giọng xuống.

“Tạc dạ nhàn đàm mộng lạc hoa, Khả liên xuân bán bất hoàn gia. Giang thuỷ lưu xuân khứ dục tận, Giang đàm lạc nguyệt phục tây tà.” Lấy ngón tay gõ xuống thân cây thô ráp làm nhịp, y gục gặc đầu. “Tà nguyệt trầm trầm tàng hải vụ, Kiệt Thạch, Tiêu Tương vô hạn lộ. Bất tri thừa nguyệt kỷ nhân quy, Lạc nguyệt dao tình mãn giang thụ.”[1]

Khả liên lâu thượng nguyệt bồi hồi.” Câu hát mang âm điệu gần giống lại không phát ra từ y. Bóng cây ngay dưới chân y lay động, trước khi người bên dưới nói vọng lên bằng một giọng không lấy làm vui vẻ cho lắm. “Ngươi định báo cho cả người lẫn thú quanh đây biết mình có mặt?”

“Ngươi cũng biết bài này à?” Kẻ đang vắt vẻo trên cây ra vẻ không để tâm đến câu hỏi gắt gỏng của người vừa tới. Cười khanh khách trong cổ, y nghiêng đầu nhìn xuống, hỏi với sự hứng thú không che giấu. “À, mà có lẽ Tư Tư cô nương vẫn thường hát.”

Kẻ vừa tới ‘hừ’ khẽ, nhưng tiếng vang trong đêm không nhỏ. Ánh trăng soi tỏ nửa khuôn mặt đang ngẩng lên của gã cùng vết sẹo dài khiến sắc diện thêm vài phần hung tợn. Gã đã tuốt đao cầm tay, ánh thép lòe lòe sáng trong trăng hắt vào mắt y. Tặc lưỡi, biết không phải lúc để trêu chọc Lâm Phi thêm, y nhún vai. Chỉ thấy tà áo xanh phất phới như lá, y buông người rơi xuống bên Lâm Phi nhẹ đến mức gã cảm thấy như có một làn gió vừa tạt qua.

“Ta đường hoàng mà đi, có gì phải che giấu?” Quay lưng đi về phía con đường xuống đồi hướng tới khu nhà nhỏ nọ, y cười nói. “Ta chờ ngươi cả đêm, chỉ sợ ngươi trốn mất… hay đưa người trốn mất.”

“Vớ vẩn.” Như thể hiểu ý y, Lâm Phi gầm gừ trong cổ. Y hơi liếc mắt về phía sau, cười nhạt.

“Tiểu thư tin ngươi, nhưng ta không tin ngươi. Chưa nói đến chuyện đám người hành động dựa vào tình cảm thì chẳng đáng tin chút nào, ngươi lại…” Gẩy hai cái móng tay dài khác thường trước mặt, y nói mà không nhìn đến kẻ phía sau lẫn con đường đang đi. “Tình cảm với Quảng Phú cũng không tệ, nhỉ?”

“À, Quảng Phú… Tiểu thư lại nhặt được cái loại gì về? Tiểu thư quả là có biệt tài nhặt về toàn những thứ khó dạy.” Y khùng khục cười. “Gã có nói cho ngươi, gã kể cũng coi như là dân gộc ở xứ này không?

“Từ xưa lắm rồi. Gã cứ bảo mình cùng quê với ngươi hay Linh lão đầu, thật ra cũng chẳng phải. Từ mấy trăm năm trước, tổ tiên gã đến đây, tên tuổi vẫn còn được lưu trong sổ - mà là sổ ở Đông Kinh cơ.” Liếc mắt qua mấy rặng cây rậm bên đường, y nhếch môi. “Đám tù nhân của Minh triều bị đày đến vùng này.[2] Cùng nguồn gốc với Linh lão đầu, quả thế thật. Toàn những kẻ chống đối từ trong máu.”

“Sao ngươi biết?” Sau một lúc im lặng, Lâm Phi không thể ngăn được tò mò mà hỏi. Gốc gác của Linh lão đầu thì họ có thể tra ra, nhưng Quảng Phú có vẻ là kẻ mà ngay cả cha mẹ là ai gã cũng không biết.

“Ngươi nghĩ Linh lão đầu có thể gả con gái cho một kẻ không rõ gốc gác sao?” Dường như chỉ chờ đợi câu hỏi, y cười dài. “Chỉ cần gã nhớ mình lớn lên ở xó xỉnh nào, sẽ tra ra ngay được nguồn gốc. Đó là sức mạnh của các thủ lĩnh vùng này. Họ kiểm soát tất cả.”

“Từ lâu, lâu lắm rồi, trước cả người Việt, trước cả Chiêm Thành.” Đánh lưỡi, giọng y lại hơi ngân nga. “Ta không thích xứ sở này.”

Quảng Phú cũng thường nói thế, Lâm Phi thầm nghĩ, nhưng nhớ đến thân phận của kẻ đi trước mà im lặng. Ta không thích xứ sở này, Quảng Phú thường nói, nhưng có lẽ với một ý nghĩa hơi khác với điều gã đã nghĩ.

“Chẳng biết là kẻ nào đang lợi dụng kẻ nào.” Như thể đọc được ý nghĩ của Lâm Phi, Diêu khoanh tay cười nhạt. Y lim dim mắt nhìn về phía đầu dòng sông. “Mà như vậy, ta chẳng thể tin được bất cứ ai trong các ngươi. Ái tình đáng sợ, nhưng thứ mang tên ái tình còn đáng sợ hơn nhiều lần.”

Lâm Phi cau mày, nhưng không lên tiếng. Bọn gã đã xuống tới chân đồi. Và trăng sáng đang soi tỏ những cái bóng xuất hiện không một thanh âm ở phía đầu dòng sông. Tất cả đang đi về khu phố nhỏ dưới chân núi. Không cần phải đoán, gã đã có thể hình dung ra rằng trong tay mỗi kẻ đều cầm theo một mồi lửa.

Ở vùng đất này, người Thượng vẫn thường tràn xuống đốt phá cướp lấy của cải của dân buôn – tương tự như người vùng thấp tấn công vào buôn làng cướp voi, trâu ngựa… Những xung đột vẫn xảy ra luôn luôn, mà đôi khi – hay thường xuyên – chỉ nhờ vào quyền lực đôi ba người thủ lĩnh của bọn họ mới có thể dẹp yên.

Vậy thì, một cuộc tấn công vào đêm trăng như thế này, có gì là lạ?

Diêu đưa hai ngón tay vào miệng, huýt lên một tiếng lảnh lót. Trong đêm vắng lặng, tiếng huýt như vang đến cả những ngọn núi xa. Nhận được tín hiệu, những kẻ mai phục đầu dòng sông nhanh như cắt tràn đến khu phố. Chỉ trong một cái chớp mắt, ánh lửa đã lóe lên trong tay bọn chúng, trước khi mồi lửa được ném vào ngôi nhà gần nhất, bắt lấy mảnh gỗ mùa khô cong giòn mà cháy rừng rực.

Lửa bốc cao cùng với tiếng động bùng phát lan qua các ngôi nhà. Nhiều bóng người xông ra, đao kiếm trong tay, bắt đầu loạn đả với bọn người tấn công bôi hắc ín từ đầu đến chân. Nhiều kẻ khác, xao xác hơn và hoảng hốt hơn, tìm cách cứu lấy những thứ nằm trong các ngôi nhà đang bốc cháy. Đôi kẻ tấn công đã nhảy lên thuyền, chặt dây cột mà chèo ra giữa sông, kéo cuộc chiến loang ra cả khoảng sông rộng.

Trong lúc hỗn loạn, êm nhẹ như một cái bóng, y men theo bìa rừng mà tới ngôi nhà ở đầu bên kia khu phố, nơi ngọn lửa vẫn chưa kịp lan tới. Cửa ngôi nhà đã mở, nhưng chỉ có bóng vài người ăn mặc theo lối gia nhân đứng trước nhà, nháo nhác báo vào trong. Đợi thêm một lúc, y thấy thêm chừng chục kẻ từ gian nhà bên cạnh chạy sang, đao kiếm trong tay sáng loáng, tạo thành một vòng vây bảo vệ trước cửa nhà.

Bằng một cái lắc mình nhẹ như lông hồng, y đạp vào hàng rào phía sau nhà, tung người lên lan can tầng trên. Người trong nhà có vẻ cũng đã bị hút sự chú ý về phía đám cháy đầu phố, cửa lan can he hé mở nhưng không ai phát hiện ra cái bóng của y đã chắn ánh trăng hắt vào phòng.

Phòng trên không có người. Căn nhà xây theo lối nửa Chiêm nửa Tàu, chống trên bốn chân thấp, chiều ngang khá dài để phân làm nhiều phòng, nhưng phần trên thay vì xây mái dốc lớn lại thiết kế thành một căn gác nho nhỏ gồm ba phòng cạnh nhau, nối bởi hai dãy lan can trước sau. Đẩy hé cửa nhìn ra lan can trước, y nhận ra đôi ba người trang phục vẫn chưa tề chỉnh. Ánh mắt y dừng ở một cô gái mặc áo màu lục.

Tặc lưỡi một cái không thanh âm, y rút thanh liễu diệp kiếm từ trong thắt lưng, lùi về phía sau, cắt đôi khóa trên cánh cửa. Tiếng động trong phòng khiến những kẻ ngoài lan can giật mình. Y nghe tiếng người gọi nhau, liền lùi hẳn về lan can sau nhà.

Khi đám người ngoài cửa – gồm cả những bảo vệ được gọi lên – tông cửa vào phòng, họ không nhìn thấy gì ngoài cái khóa đã bị chém làm đôi.

Bên ngoài, bỗng nhiên nghe tiếng vun vút như roi quật, những bảo vệ vừa mới chạy tới vây ngoài căn nhà kêu thét lên được vài tiếng ngắn ngủi. Khi cô gái áo lục ngoái đầu nhìn lại, vừa kịp thấy bóng của một mũi tên nhỏ ngắn chỉ bằng nửa bàn tay lao vút qua từ trên mái nhà.

“Đứng lại!” Khi kẻ đầu tiên vừa kịp qua cơn ngơ ngác định phóng ra ngoài phòng xem xét tình hình, cô gái áo lục vội vàng gọi giật lại. Vừa đúng lúc một mũi tên nhỏ bắn xuyên qua mái nhà, cắm phập xuống đầu mũi chân kẻ vừa định lao ra.

Liền sau đó, một tiếng cười ngắn thanh thúy vọng vào. Lẫn trong tiếng ồn ã của người và lửa, tiếng cười có âm vực cao bất thường trở nên kỳ dị đến rợn gáy.

“Tư Tư cô nương, lâu không gặp. Cô vẫn tinh như thế.” Kẻ ở trên mái nhà nói, kèm với vài tiếng lắc xắc nho nhỏ như kim loại chà xát nhau. Ngừng một thoáng, y lại cười. “Còn có cả Lưu tiêu chủ, lâu ngày không gặp. À, ta lại gặp nhau, Vinh trưởng lão, Mai Điềm tiêu chủ, Trình lão lão, à, Mặc Huyền lão gia dạo này thế nào? A, có cả người quen ta đã gặp ở đâu rồi, có phải ở trong nhà Triệu lão gia?”

Y cứ nhẩn nha đọc tên từng người trong nhà, mỗi cái tên kèm theo một tiếng cười lạnh sắc như dao. Đến chừng tất cả đã phải ngẩng đầu nhìn lên mái, nơi tiếng nói phát ra, y lại khúc khích cười.

“Tư Tư cô nương quả là mỹ nhân đáng sợ, bao nhiêu người phải vượt ngàn dặm đến gặp cô nương. Do mãnh lực mỹ nhân quá lớn hay còn lý do nào khác, nếu có người hỏi đến, quý vị trả lời làm sao?” Tiếng lách cách đều đặn vẫn vang trên mái thành một vòng tròn, như thể y vừa nói vừa di chuyển quanh mái nhà. Cô gái được gọi là Tư Tư sau một thoáng ngạc nhiên liền đưa tay ra hiệu cho những người trong phòng im lặng, ngẩng đầu lên mà cao giọng.

“Vị cao nhân nào trên mái, nếu có chuyện muốn gặp, sao lại không ra mặt?” Nàng vừa dứt lời, được tiếp ngay bằng một tiếng cười chẳng khác trước.

“Ta không có ý định gặp cô nương, cũng không có ý định gặp ai trong các vị. Chỉ là…” Mấy cái tặc lưỡi nữa vang xuống từ mái nhà, y đập mũi chân lên mái gỗ, nhìn về phía chòi canh bên kia sông. “Họ đốt phong hỏa rồi.”

Quả thật, lửa cũng đã chiếu sáng trên đỉnh chòi canh của lính tuần phòng – Một hành động thậm chí không cần thiết khi lửa đã nuốt chửng chừng chục ngôi nhà đầu phố. Đám người tấn công đang tăng lên khi vài nhóm lại chợt đột ngột xuất hiện từ trong bóng tối, ép đám người của khu phố dạt về một góc. Nếu nheo mắt nhìn kỹ, có thể đã loáng thoáng thấy bóng của thuyền lính từ đầu sông đang đến.

Những kẻ trong phòng nhìn nhau. Kẻ tấn công đã tỏ rõ ý định của mình: Lợi dụng cuộc đột kích ầm ĩ này lôi kéo đám quân canh – có thể cả quan coi sóc vùng – của triều đình tới. Và họ quả là sẽ khó mà giải thích cho sự tập hợp của mình nơi đây – hoặc là, sự có mặt của họ nơi đây sẽ khó thoát khỏi cặp mắt nghi kỵ của một số người.

“Hừ!” Gã trung niên vốn có tên Mai Điềm tiêu chủ là kẻ đầu tiên phản ứng. Đại đao trên tay gã đâm xuyên lên mái nhà, nơi tiếng nói vừa phát ra. Đao đâm ngọt qua thớ gỗ dày, đem một lớp phấn bột hăng hắc bay qua kẽ hở. Mai Điềm vội vàng thu đao nhảy tránh lớp bột tung xuống, cuống quýt phủi bụi bám trên áo, nhắm mắt thở hắt ra mấy lần.

Tiếng cười lại khe khẽ vọng, lần này cùng với tiếng búng tay.

“Không có tật thì không giật mình, ta làm hại gì các vị mà phải phản ứng như thế?” Y nhẩn nha nói, tiếp ngay khi nghe tiếng động trong phòng. “Đừng nghĩ đến chuyện đồng loạt nhảy lên mái nhà, mà cũng đừng nghĩ đến chuyện rời khỏi. Các vị không biết cái gì đang chờ đợi mình bên ngoài đâu.”

Cùng lúc với tiếng nói cuối cùng của y, một chiếc thuyền trong bến bất chợt nổ tung. Tiếng nổ kinh thiên động địa mang theo tia lửa bắn tung bốn hướng, chẳng mấy chốc khiến những chiếc thuyền bên cạnh bắt cháy theo.

Y nhịp chân nhìn ngọn lửa rừng rực trên mặt sông tối đen được trăng phủ lên lớp ánh bạc mờ nhạt. Lời nói của y không phải là đe dọa, khi những kẻ bao vây khu nhà này sẽ sẵn sàng triệt hạ bất cứ ai ló mặt ra khỏi cửa mà không cần đến sự cho phép của y. Mạng sống của bất cứ kẻ nào ở đây cũng không quan trọng – bằng ý nghĩa mà sự hiện diện của chúng đem tới. Một cuộc vây bắt thật đơn giản và nhanh chóng.

Hay ít nhất, đó là những gì y đã nghĩ.

Ngay trong khoảnh khắc y nhìn rõ đoàn thuyền quân canh phòng đang đổ tới dưới bóng của rừng cây rậm, y cảm thấy gáy mình bị đánh mạnh bởi một cú thôi sơn. Khoảnh khắc tiếp theo, thứ y thấy chỉ là bóng tối.

Những kẻ dưới nhà đều nghe rõ tiếng động lớn trên mái. Nhưng không để họ kịp đoán việc đang xảy ra, lửa đã tràn từ trên mái nhà xuống, bắt lấy những tấm gỗ giòn cùng rơm rạ mà bùng lên như một tấm màn dày vây kín căn nhà.

“Chúng đốt nhà!” Có ai đó trong phòng gào lên. Nhưng khói cuồn cuộn xô vào phòng đem theo mùi hăng hắc tràn đặc phổi quật ngã gã. Những thân người lần lượt ngã xuống trong lúc tìm cách tháo chạy ra cửa. Lửa, cùng lúc, bùng lên từ phía dưới lầu.

“Tư Tư!” Cô gái áo lục lấy tay áo che kín mặt, nghe tiếng gọi tên mình liền quay đầu. Qua làn khói, nàng chỉ thấy bóng dáng lực lưỡng như thể một con gấu đã choán gần hết khung cửa sổ. Một thân người bị ném vào phòng thông qua cửa, trong khi bàn tay to lớn chụp ngang vai nàng. “Rời khỏi đây!”

Nàng thấy mình bị ném tung theo cái giật thô bạo của bàn tay nọ, thân mình bắn qua cửa, lăn trên mái nhà mà rơi xuống khoảng đất phía dưới. Thân hình to lớn của kẻ nọ vẫn đỡ ở dưới cho nàng, gã rên lên khi rơi xuống đất tựa như trái mít rụng.

“Lâm Phi?” Chớp đôi mắt đã bị khói hun nhòe nhoẹt, Tư Tư nghi hoặc cất tiếng. Đáp lời nàng chỉ là tiếng hừ cộc cằn.

“Không phải ta thì là ai?” Gã vừa nói vừa xoa đôi vai tê buốt. “Nàng nghĩ đã ra lệnh cho ai đưa tên này tới?”

“Vất vả cho anh rồi.” Tư Tư liền mỉm cười, đưa tay lau mắt, lau cả vết bẩn trên mặt kẻ vừa đỡ nàng. “Nhưng lần này anh lập công lớn đấy.”

“Không có y, làm sao màn kịch này diễn được.” Nàng khe khẽ cười, tiếng cười gần giống như kẻ trên mái nhà khi nãy, đưa tay sửa lại chiếc trâm bên gáy. “Các vị khách của ta, đáng tiếc, phải hy sinh vài người đi vậy.”

***

“Tiểu thư, vượt qua nơi này là địa phận Phú Yên.”

Nghe tiếng nói của Xuân Tử, Như Yên chỉ gật đầu. Nhưng Xuân Tử vẫn đứng sau nàng, cau mày mà nói tiếp.

“Xin tiểu thư vào trong khoang. Vùng đất này rất phức tạp.” Cô kiên nhẫn mềm mỏng nói. Chủ nhân của cô đang ngồi dưới chiếc ô lớn trên đầu thuyền, đem theo một bức màn che nắng dày. Dù thuyền này chỉ theo lối thuyền buôn bình thường, phô trương như thế, ai cũng biết có phụ nữ trên thuyền.

Họ đang đi qua ranh giới của Quy Ninh và Phú Yên, con sông cắt qua vùng rừng núi hoang vu. Quãng sông không lớn, có thể nhìn rõ cảnh sắc hai bên bờ. Chiều đang buông, tuy chưa tối hẳn nhưng đã nhá nhem, là lúc bọn cướp ưa thích lộng hành.

“Chẳng lẽ chị sợ vài kẻ sơn tặc?” Như Yên chỉ cười.

“Không phải là vài kẻ…” Xuân Tử cau mày. Cô chưa kịp nói hết câu, chiếc thuyền của họ đã rung động như thể va phải đá. ‘Uỳnh’ một tiếng vang động, chiếc thuyền rung chuyển từ đầu cho đến từng tấm ván, hất vài thủy thủ đứng trên sàn ngã lăn xuống sông.

“Có đá… Không phải, là cọc.” Viên thuyền trưởng đang lái hốt hoảng thông báo. Trong lúc quẫn trí, lời nói của ông ta cũng không chính xác. Thứ đang chắn đầu thuyền của họ, sừng sững như ngọn núi nổi lên từ dòng sông, là một bức tường gạch đỏ gần như cắt ngang qua con sông. Triều hạ, đem bức tường đỏ nổi rõ trong bóng tối, trên lớp sóng đục ngầu, như một bóng ma thình lình xuất hiện.

Như những bóng ma, những bàn tay ướt nước với lên mạn thuyền trong lúc mọi ánh mắt đều hướng về phía bức tường đỏ. Không một thanh âm, những kẻ xuất hiện từ lòng sông nhảy phắt đến hạ sát thủy thủ đứng gần mình nhất. Như nhận được ám hiệu, tiếng reo hò vang lên từ trong bờ sông, khi hơn chục chiếc bè lao ra từ trong đám cây rậm.

“Quả là không chỉ có vài kẻ.” Như Yên khoanh tay nói với Xuân Tử. Nàng đã đứng dậy, nép vào bóng tấm màn che xung quanh. Nhưng đường trở về khoang thuyền đã bị chắn lối. Cuộc chiến giữa các thủy thủ và kẻ cướp thuyền đang diễn ra không hoàn toàn cân sức. Bị tấn công bất ngờ, hộ vệ của nàng lúng túng thấy rõ, và càng bị áp đảo bởi số lượng kẻ địch đông đúc đang nhảy lên. “Đông thế này mà là cướp đường sao?”

“Tiểu thư lo tránh đi…” Xuân Tử vội vàng nói. Như Yên nhướn mày.

‘Tránh đi đâu?’, nàng chưa kịp hỏi, Xuân Tử đã hét lên một tiếng nhỏ, lao sang chắn đường kẻ vừa nhảy lên khoang. Cô chém ngã gã, nhưng cùng lúc, ba bốn kẻ từ xung quanh nhảy lại. Như Yên cảm thấy ngay tia thép lành lạnh đặt lên gáy nàng, cùng hơi thở tanh tanh mùi nước.

“Đừng thô bạo thế.” Nàng nhíu mày, gạt bàn tay ướt nước đã nắm lấy vai mình. Xuân Tử đã chém ngã gã còn lại, quay đầu trừng trừng nhìn kẻ đang khống chế nàng. Như Yên nhún vai, quay đầu mỉm cười với gã. “Ta không biết võ công, mất công khống chế ta làm gì?”

“Nếu muốn giết người, đừng có chần chừ.” Nụ cười trên môi nàng vẫn ngọt ngào, khi trong tay áo rộng phát ra tiếng ‘tách’ nho nhỏ. Mũi tên chỉ bằng ngón tay lao cắm thẳng mặt kẻ đang kề dao vào cổ nàng. Giật mình, gã vội nghiêng đầu tránh, liền cảm thấy cơn đau dội đến từ trong cổ. Như Yên xoay người, con dao nhỏ trong tay trái của nàng nhằm đúng cổ gã mà lia tới.

Gã ngã xuống mà không kịp nhìn máu bắn thành vòi ngang qua khoang.

“Tiểu thư!” Xuân Tử hoảng hốt kêu lên, cùng lúc với tiếng gầm phẫn nộ vọng đến từ khoang sau thuyền. Thấy cảnh tượng cô gái ra tay giết đồng bọn, đám người tấn công liền chuyển hướng đánh thẳng về phía nàng. Đồng loạt, thêm chục kẻ nữa lao đến. Chưa kịp chạm đến tay áo Như Yên, Xuân Tử đã lại bị hất văng sang bên.

“Tiểu thư!” Cô hoảng hốt gọi khi bóng áo trắng bị che khuất bởi một đám người quần áo chằng đụp, to lớn lừng lững.

Như Yên lùi về sau, hẫng chân ngã xuống sàn thuyền thấp bên dưới, lăn tròn trên sàn thuyền đang nghiêng đi. Thuyền có vẻ đã bị đục vỡ, đang chìm dần trong một chiều nghiêng đầy nguy hiểm, gần như cắm thẳng đầu xuống nước.

Thế này mà là cướp sao? Nàng vẫn còn kịp nghĩ khi lưng va phải một tấm gỗ, thấy đau tê dại gần nửa thân người.

Mấy thân người còn hoặc không còn cử động cũng đang lăn trượt qua nàng. Nàng vội vàng bám lấy mạn lan can gần mình nhất, nghe tiếng chân đang sầm sập chạy đến cùng tiếng kim loại đầy đe dọa.

Nhưng tiếng chân dừng lại trước nàng. Nhưng thay vì một cú đánh mà nàng đã chờ đợi, nàng thấy cổ áo mình được kéo lên, ngăn nàng buông bàn tay đã tê cứng mà rơi xuống sông.

“Ngươi…” Nàng nghe tiếng Xuân Tử kêu lên, nửa ngạc nhiên nửa phẫn nộ. Nàng muốn ngẩng đầu nhìn, nhưng mái tóc dài đã xõa xuống che gần hết tầm nhìn của nàng.

Cúi đầu, dùng mái tóc để phủ che, khóe môi nàng chỉ cong nhè nhẹ.

 

 

 

Chú thích:

[1] Bài Xuân giang hoa nguyệt dạ của Trương Nhược Hư. Dịch nghĩa: “Sông xuân nước triều như mặt biển, Trên biển trăng sáng cùng triều lên. Vời vợi theo sóng ngàn vạn dặm, Nơi nào sông xuân chẳng sáng trăng./ Trời sông một sắc không hạt bụi, Vằng vặc không trung trăng lẻ soi. Ai đã từng bên sông gặp gỡ trăng? Trăng năm nào đã từng soi sáng người?”

“Tràn đêm nhẹ kể mộng hoa rơi, Thương đã nửa xuân chẳng về nhà. Sông nước đưa xuân đi mải miết, Sông cạn trăng tàn nghiêng trời tây./ Trăng tàn trầm khuất giữa mù khơi, Kiệt Thạch, Tiêu Tương xa tít tắp. Nào biết theo trăng mấy kẻ về, Trăng lặn xác xao ngàn cây lá.”

[2] Sau khi đánh đuổi quân Minh, lập nên triều Lê, Lê Thái Tổ đã ra lệnh đưa tù nhân người Minh đến ‘vùng biên giới’ – chính là khu vực Quảng Nam – Bình Định – Phú Yên sau này để lưu đày.

 




Hồi 14: Cam kết
Friday, March 16, 2012 Author: Trường An

“Đã nghe tiếng.” Sau một thoáng im lặng ngắn, Hoắc Phương chỉ mỉm cười. Vẻ lành lạnh nhàn nhạt thường trực trên khuôn mặt đã che giấu tất cả phản ứng của y với cái tên vừa được thốt ra.

Chiêm Dao Luật, nữ sứ giả đã một mình chặn đứng đoàn quân Nam Hà, khiến hai viên Thống binh danh cao vọng trọng của Nam Hà bị phế truất trong nhục nhã. Chiêm Dao Luật, nữ sứ giả của Đại vương Chân Lạp, cô gái Chiêm Thành làm việc cho nhà vua Chân Lạp.

Nàng ta là người Chiêm Thành, Hoắc Phương thầm nghĩ. Điều đó giải thích một phần cho sự có mặt của nàng ta ở đây. Phần lý do còn lại, có lẽ nằm ở vùng đất phía Nam Panduranga.

Bề ngoài, Đại vương Chân Lạp đã rút lui khỏi trận chiến, e ngại một hậu quả có thể xảy ra nếu ra mặt giúp đỡ Chiêm Thành, nhưng ai có thể biết điều gì được che giấu đằng sau đó? Đại vương Chân Lạp hẳn cũng đã nhận ra – từ cuộc chiến vài năm trước, hoặc từ nhóm người được cấy vào vùng đất Thủy Chân Lạp – rằng tham vọng của Nam Hà sẽ không dừng lại ở Panduranga. Panduranga thất thủ sẽ chẳng có ích lợi cho Chân Lạp, sẽ chỉ mở toang con đường cho đội quân đến từ phương Bắc. Và như một vị vương khôn ngoan, nhà vua Chân Lạp hẳn đã lường trước hậu quả để ngăn ngừa nó, hay ít nhất là kéo dài cuộc chiến này, kéo dài sự tồn tại của bức bình phong án ngữ vùng đất phương Bắc.

Sự chú tâm của Linh lão đầu, Quảng Phú và Oc-nha That cho vùng Thượng phía Tây Nam bỗng trở nên sáng rõ hơn bao giờ. Nam Hà có thể xâm lấn vùng đất ven biển Chiêm Thành, nhưng chưa bao giờ có thể thực sự kiểm soát được những vùng đất sâu trong núi – nơi vẫn còn ghi đậm dấu ấn của vương quốc Chiêm Thành[1]. Những vùng đất hoang vu trong núi, những tộc người đa dạng và xa lạ ở ranh giới của bốn quốc gia, lại là nơi cất giấu nhiều sức mạnh hơn cái vẻ bề ngoài của họ. Voi, ngựa, nơi ẩn nấp, đường đi, lương thực, con người… Chiêm quốc đã bị tiêu diệt rồi phục sinh bao nhiêu lần từ trong rừng núi.

“Tôi được Đại vương Chân Lạp phái tới.” Thấy thái độ của Hoắc Phương, Chiêm Dao Luật cũng chỉ lạnh nhạt nhún vai, nhưng mắt không rời khỏi gương mặt y một mảy may. Nàng chậm rãi nói từng chữ như để tăng thêm sức mạnh cho lời của mình. “Tôi đến đây để thay mặt Đại vương chuyển lời cho bang chủ.”

“Tôi chỉ là kẻ bố y nhỏ bé, Đại vương sao lại có thể nghe tiếng phiền lòng như vậy?” Hoắc Phương cười, lời nói chẳng phải không có chút thật lòng. Y cũng chỉ là một thương buôn nắm giữ bang hội trong một cảng biển nho nhỏ của Biển Đông, trong bao nhiêu cảng biển trải dài khắp đại dương; với vùng đất xa xôi như Đại Thành đã ít ghé tới, chẳng mấy liên hệ với nhóm người ở Đông Phố hơn vài quan hệ công việc, càng chẳng bao giờ đặt chân đến Vũng Long đã bị phong tỏa sau nhiều cuộc chiến dài. Đại vương Chân Lạp chỉ đích danh y? Hẳn chẳng qua chỉ là lời của viên nữ sứ này khi nàng ta đại diện cho chủ nhân mình giải quyết việc nơi đây.

Nhưng Chiêm Dao Luật đã nhẹ lắc đầu.

“Ngài quả tình muốn Dao Luật chuyển lời đến cho Hoắc bang chủ.” Nàng vẫn ôn hòa nói, nhìn y không chớp mắt. “Bốn bể mênh mông, không biết nơi đâu là nhà, thì đừng tuyệt đường sống của chính mình. Thỏ khôn hết thì chó săn cũng chẳng còn, e rằng người thiệt thòi cuối cùng sẽ là bang chủ.

“Nam Hà một mình đến phương Nam, dùng sức mạnh ép người quy phục, gây hấn với nơi nơi, âu cũng là việc của kẻ mang thân phận cao quý, có thể bức người mà không e ngại người chán ghét. Nhưng bang chủ là kẻ dưới, thân phận thế nào, địa vị thế nào, công việc thế nào, cuộc đời thế nào? Cho đến ngày hôm nay, bang chủ vẫn không tuyệt tình với Hữu trà viên chẳng phải vì hiểu rõ chẳng thể phụ người mà không sợ người oán hận? Triều đình Nam Hà làm bao nhiêu việc, nhưng tướng quân thì có sĩ tốt, vua chúa thì có quan lại, bang chủ có được gì? Đến ngày Nam Hà công thành việc đạt, bang chủ phải ngoảnh mặt quay lưng với không chỉ một đôi người trong thiên hạ, chẳng phải là kẻ gánh tất cả oán ghét giận dữ thù hận? Kẻ dùng sức mạnh có thể khuất phục người, nhưng không phải là kẻ đúng, càng không phải là kẻ có thể thay thế cho cả thiên hạ. Bang chủ xem, phương Nam này, người An Nam đông hay các giống dân khác đông? Kẻ ở trên chỉ cần đếm số dân đinh đóng thuế, chứ người phải nhận lãnh hậu quả trước mắt của tình người thế đời nào phải là bọn họ.” Giọng nói của Dao Luật rất trầm, gần như mềm mại. Tay chắp trên gối, mắt nàng sâu đen không thấy đáy khi khuôn mặt nàng mang một biểu cảm gần giống Hoắc Phương. “Đánh thắng một trận thì dễ, đánh thắng một thành, một đất nước, cũng không hẳn là chuyện khó làm, nhưng chỉ có trẻ con ấu trĩ mới tin rằng có thể dùng sức mạnh giải quyết tất cả. Chúa của Nam Hà hiện thời chỉ là một đứa trẻ, liệu có thể ngồi vững được bao lâu? Nam Hà thắng, phần lợi chưa chắc đã thuộc về bang chủ, Nam Hà thua, bang chủ cũng chưa chắc đã chịu thiệt. Nhưng Nam Hà toàn thắng, bức đối thủ đến đường cùng, thì tử lộ của bang chủ cũng bắt đầu từ đó. Bang chủ đi lại trong giang hồ, là người của giang hồ, rõ lòng thiên hạ, hẳn nhiên hiểu rõ.”

“Cám ơn tiểu thư đã có lòng nhắc nhở quan tâm.” Hai khóe môi của Hoắc Phương chỉ nhè nhẹ cong, y nói khi Dao Luật ngừng lời. “Nhưng tôi vẫn chưa rõ, tại sao vận mệnh của một thương nhân nho nhỏ như tôi lại khiến Đại vương Chân Lạp phải bận lòng?”

“Bởi vì hiện tại việc của Chiêm Thành không phải chỉ là việc của Chiêm Thành, mà liên quan đến tất cả các quốc gia lân cận. Ai Lao, Chân Lạp, Nam Hà, thậm chí cả Đại Thành.” Dao Luật trả lời, Hoắc Phương nghe trong lời nàng như có sự thận trọng đầy cảnh giác. “Mà việc của Nam Hà cũng không phải chỉ là chuyện của triều đình Phú Xuân. Mảnh đất này do rất nhiều vùng ghép lại, mà Quảng Nam quốc là một phần mắt xích trọng yếu nhất.”

Dao Luật nói rồi im lặng. Hoắc Phương cũng không lên tiếng, ra vẻ như đang chờ đợi nàng. Y nghĩ mình biết ý được nói ra tiếp theo, nhưng lại cho rằng điều đó quá phiêu lưu để bọn họ nói với y. Bọn họ biết quan hệ khác thường của y và triều đình Nam Hà, biết rất rõ.

Mắt xích trọng yếu nhất, nàng ta nói, và y không khó khăn để biết cái ý nghĩa ẩn sau lời nói đó. Ý định của nhà vua Chân Lạp không chỉ nằm ở phương Nam, ở vùng đất hiện đang tranh chấp. Ngài ta hướng tới vùng đất đang được Nam Hà kiểm soát, địa phận của Nam Hà, thậm chí, triều đình của nó. Quảng Nam, nơi hết lần này đến lần khác bị nhiều nhóm phiến loạn chiếm giữ, âm mưu đoạt lấy Thuận Hóa.

“Tất nhiên, tôi không định bảo bang chủ bội phản.” Bất chợt, Dao Luật cười. Ngón tay nàng sửa lại mép váy trên gối trong một cử chỉ duyên dáng là lạ. “Tình thế ngày hôm nay, ta không diệt người thì người sẽ diệt ta, đều là chuyện đáng buồn cả. Sao ta lại không thử tìm kiếm phương cách để hòa hoãn, cho mọi người một đường sống?”

“Nếu có thể thì đã không có ngày hôm nay.” Nụ cười vẫn ở trên môi Hoắc Phương thoáng nét chế giễu nho nhỏ. Việc của ngày hôm nay tuyệt nhiên chẳng phải là ý muốn của một hai kẻ, càng chẳng phải chỉ là ý thích hay thứ gọi là ‘tham vọng’ nhất thời. Chẳng qua, tất cả đều quá phức tạp để phân tích hay giải thích rạch ròi.

Đường sống, trong tình cảnh này, chỉ là biện pháp hòa hoãn cho kẻ đang thua trận. Ta không diệt người thì người diệt ta, cô gái này nói, hẳn nàng ta cũng hiểu ý nghĩa lời của mình. Nếu vị chúa Nam Hà và triều đình của cậu ta không phản ứng kịp thời hay có đủ sức mạnh để đẩy lui đội quân tấn công của Chiêm Thành, e rằng kẻ phải bỏ chạy hay đối đầu với án tử bây giờ chính là bọn họ. Hàng ngàn năm, hai quốc gia này đã đánh nhau hàng ngàn năm. Y còn có thể hiểu, chẳng lẽ bọn họ lại không hiểu?

“Ta chỉ có thể lo việc của hiện tại, không phải là quá khứ, chẳng phải là tương lai. Bang chủ nghĩ, khi Nam Hà chiến thắng, bành trướng xuống phương Nam, thì có lợi cho ai?” Lời Dao Luật vẫn trầm tĩnh. “Bang chủ không có lợi, chúng sinh cũng không có lợi, chúng tôi không có lợi, Nam Hà cũng chưa chắc đã được lợi. Tranh chiếm kéo dài, hận thù chồng chất, đến ngày tất cả gom góp hội tụ đủ để thành một ngọn lửa lớn có thể hất cả Nam Hà xuống biển. Sự đời biến chuyển khôn lường, nếu ta có thể ngăn được chiến tranh một lúc, cũng đã cứu được muôn vạn sinh linh một thưở, nếu ta có thể đem thân mình làm lá chắn dù chỉ một thời, cũng là giúp được chính chúng ta cùng thân nhân bên cạnh. Nếu bảo rằng kết quả không thể thay đổi, thì lịch sử hàng ngàn năm có lúc nào yên bình? Cũng như nói rằng tất cả sinh vật đều phải chết, thế thì sao phải cố gắng sống còn? Việc không có lợi cho bất cứ ai, tại sao lại phải cố chấp mà không dám thử thay đổi một lần?”

“À…” Im lặng hồi lâu, Hoắc Phương cười. Quả là đệ nhất sứ giả của nhà vua Chân Lạp, tranh luận với nàng ta chẳng thể dẫn tới đâu. “Như vậy, Đại vương nhờ tiểu thư nhắn với tôi về việc gì?”

“Về việc này…” Dao Luật liếc nhìn Lê Anh rồi mới quay về phía Hoắc Phương, ánh mắt chợt lạnh thêm vài phần. “Chúng tôi cần sự khẳng định chắc chắn của bang chủ, vì đây là chuyện liên quan đến sống chết.

“Sống chết của chính Hoắc bang chủ.” Lần này, ra vẻ như không nhận thấy Lê Anh cũng đã quay nhìn mình, Dao Luật lạnh lẽo buông từng lời như dao chém. “Ngay tại đây, vào lúc này.”

***

“Hoắc Phương gọi tôi tới?” Nhướn mày, Như Yên nhìn Linh lão mà hỏi lại như thể không hiểu điều ông ta vừa nói. “Y đang ở tận Phú Yên, sắp đến vùng Thượng rồi, có phải?”

“Quảng Phú đem thuyền đi một mình, Hoắc bang chủ ở lại một ngôi làng để giải quyết công việc.” Đặt lá thư Hoắc Phương vừa gửi tới trước mặt Như Yên, Linh lão ngồi xuống chiếc ghế kê phía bên kia bàn. Ông ta cũng nhẹ cau mày. “Chưởng cơ Phò mã có liên hệ với công nữ?”

“Cũng vừa gửi thư tới.” Như Yên khẽ gật đầu. Linh lão hỏi điều này hẳn chẳng phải vì biết Nguyễn Hữu Oai vừa cho người đưa tin về trang viện. Chiến cuộc tại Bình Khang vừa kết thúc, nhà vua Bà Tranh đã lọt vào tay quân của Thống binh Nguyễn Hữu Kính. Chồng nàng gửi thư về không chỉ để báo tin vui, quan trọng hơn, ông có vài điều cần thăm dò trước về thái độ của triều đình với chiến thắng này, xem có thể tiến được đến đâu. Kinh nghiệm của những vị tướng bị vị chúa trước trừng phạt khiến các quan tướng buộc phải thận trọng. Tự tiện đàm phán hay hòa hoãn với Chiêm Thành, dù chỉ một ngày, cũng dễ dàng gây ra điều tiếng khiến trọng tội giáng xuống.

Nhà vua Bà Tranh bị bắt tại Aya Tră, nhưng triều đình cùng phần quân đội còn lại của Chiêm Thành vẫn đang cố thủ Parik. Thúc quân tiến đánh tiêu diệt toàn bộ hay dừng lại kêu gọi địch thủ đầu hàng, cho đối phương một cơ hội đàm phán – đó không phải là điều tướng quân tại chiến trường có thể quyết định được. Ngay cả lệnh của vị chúa cũng không phải là điều quyết định, nếu như triều đình Nam Hà không đồng tình với ý kiến ấy. Khi tình thế có thể thay đổi bất cứ lúc nào khiến lệnh của vị chúa hóa ra sai lầm, sự phản đối trong triều không thể hướng về ngài ta, mà là kẻ cầm quân chịu trách nhiệm trước trận.

Nguyễn Hữu Oai tính tình cẩn trọng, hẳn ông đã không thăm dò hỏi ý kiến từ chỉ một mình nàng.

“Mà Chiêm Thành cũng không định đàm phán.” Bên kia bàn, Linh lão chợt mỉm cười. Đôi mắt hẹp của ông ta nhìn xuống những ngón tay nàng đặt trên lá thư Hoắc Phương vừa gửi. “Bọn họ đã cử sứ giả đến tạ tội, định cống nộp những thành viên chủ chiến ủng hộ nhà vua cho Nam Hà tùy nghi phân xử.”

“Phú Yên lúc này hẳn đang rất rối ren.” Như Yên lơ đãng nói, dường như không trả lời vào trọng tâm ý của Linh lão. Phản ứng này của Chiêm Thành, nàng đã nghe phong thanh từ trước nên chẳng hề ngạc nhiên. Ý nghĩ của nàng quay lại về lá thư trên tay. Trong thời điểm thế này, Hoắc Phương gọi nàng tới làm gì?

Hơn trăm năm trước, nhà vua Po Klong Hlau chấn chỉnh Panduranga, lấy lại Thành Hồ ở Phú Yên. Mười năm sau, khi Chân Lạp và Chiêm Thành xung đột ở mạn Nam, chúa Tiên sai Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh tấn công chiếm lấy Thành Hồ, khai khẩn đất hoang, đưa dân thành xóm lập làng từ Cù Mông đến Bà Nông. Chỉ mười bốn năm sau, Phù Nghĩa hầu không còn, cư dân Phú Yên nổi dậy khiến Nam Hà phải cử Lưu thủ Văn Phong đến dẹp loạn. Rồi cũng vị Lưu thủ này bị buộc tội ‘dùng người Chiêm Thành làm phản’ chỉ mười tám năm sau đó, để chúa Sãi đưa vị phò mã họ Mạc được ban quốc tính của mình tới[2]. Vùng đất đã yên ổn được hơn bốn mươi năm, cho đến khi nhà vua Chiêm Thành đánh vào. Nam Hà mở rộng đất đai đến miền Đông Phan Rang, Phú Yên đã thoát khỏi số phận làm biên giới tranh chấp được hai mươi năm, cho đến hiện tại.

Hai mươi năm, chẳng đủ khiến cho một thế hệ kịp mất đi, dấu ấn tranh chấp cũ bị xóa nhòa. Đứng trước nguy cơ diệt vong của triều đình cuối cùng của đất nước đã tồn tại ngàn năm Chiêm Thành quốc, sự xáo trộn trên đất Phú Yên là điều hoàn toàn có thể dễ mường tượng thấy. Sự xáo trộn mà nàng có thể linh cảm ngay tại nơi đây.

Như Yên đưa mắt nhìn Linh lão dưới hàng mi dài, qua mép giấy bức thư. Quảng Phú đã đưa chuyến hàng của ‘bọn họ’ đến vùng Thượng, ông ta vẫn không ngớt vẻ bận rộn lo toan. Trong vùng này cho đến Phú Yên, người Hroi là một cộng đồng đông đúc, ông ta lại có đủ ảnh hưởng với họ để lo sợ bất cứ sự xáo trộn nào ảnh hưởng đến mình. Vẻ bồn chồn của Linh lão hiện tại hẳn chẳng phải vì lo sợ.

Ông ta cũng không tỏ vẻ muốn ngăn cản nàng đến Phú Yên. Đưa lá thư của Hoắc Phương cho nàng, ông ta hẳn muốn dùng những gì Hoắc Phương kể trong thư thuyết phục nàng.

Chuyến hàng bình thường, y nói. Cuộc chiến ở Bình Khang đã được dẹp yên, quân Nam Hà cũng có phần nào nới lỏng những chốt canh về vùng Thượng. Nhưng y đã gặp người quen cũ của ‘Phương tiểu thư’, muốn nàng tới bàn bạc đôi chuyện.

Lý do này khiến nàng phải cau mày. Linh lão vẫn chăm chú nhìn như muốn dò xét phản ứng của nàng. ‘Người quen’, Hoắc Phương viết cho ông ta, như thể nhắc nhở về ‘người quen’ cũ của nàng ngày xưa đã từng từ nơi nào tới.

Ý nghĩ ấy khiến tim nàng cũng phãi đập hụt một nhịp rất nhỏ.

Nhưng hẳn là không phải, Như Yên nghĩ thầm khi lật phong thư đọc địa chỉ nơi gửi tới. Y đang ở gần Bà Nông, gần một nơi mà nàng nghĩ rằng mình cũng đã từng nghe qua.

“Phiền phức quá!” Cuối cùng, nàng thở ra, xếp lá thư lại, gật đầu với ánh mắt của Linh lão. “Để tôi đi xem con vịt ốm này định giở trò gì, nhân tiện – nếu Phò mã có đi qua, tôi cũng đón tiếp ngài được sớm hơn.”

“Chưởng cơ Phò mã ở dinh Bình Khang, hẳn chỉ có Lễ Thành hầu trở về…” Nghe câu nói sau của nàng, Linh lão nhíu mày. Như Yên hơi mỉm cười, sửa lại ngọn tóc mai bên má.

“Nếu chúa cho người mang thư quà tới ủy lạo, tướng quân hẳn cũng có phần. Tôi ở gần cũng giúp ngài tự hào được ít nhiều.” Ngón tay nàng lướt qua đôi môi đỏ, làm một cử chỉ như cân nhắc. “Nếu Phò mã quả thật được cử làm Lưu thủ như những Phù Nghĩa hầu, Thành Lộc hầu, thì tôi cũng phải nghĩ tới việc đi theo ngài ấy thôi. Nay công lao lớn đến thế, ngài có muốn hay không thì ấn son cũng đã được đặt vào tay rồi. Dù sao, trước kia cũng đã có một công nữ đi về nơi ấy, tôi nay lại chê xa thì hóa ra làm người ta cười trách.”

“Khi Phò mã Thành Lộc hầu đến, đất đai ấy yên ổn hơn bây giờ. Vả lại…” Linh lão nói, rồi bất chợt im lặng như thể lỡ lời. Như Yên vẫn chỉ cười, ra vẻ như không nhận thấy.

“Thành sâu hào cao, còn cách xa cả một quãng đường dài mới tới nơi chiến địa, cũng không đáng lo. Từ dạo lấy được Thành Hồ, Phú Yên cũng đã bớt hoang dã, so với nơi này không khác bao nhiêu.” Đưa mắt nhìn Linh lão, nàng ngọt ngào cười. “Vì Hoắc Phương gọi đến, tôi nhân tiện đi xem xét một thể.”

Vì ông ta muốn mượn cớ Hoắc Phương đẩy nàng đến Phú Yên, Như Yên thầm bĩu môi khi thấy sắc mặt Linh lão tối lại. Lý do thì cho tới hiện tại nàng cũng đã lờ mờ đoán ra. Vua Bà Tranh thua cuộc, bị chính triều thần của mình dâng cho Nam Hà, những kẻ viếng thăm khu điền trang này sẽ không lúc nào ngớt, nàng ở lại chẳng hề tiện. Nhân có Hoắc Phương gọi, ông ta liền bảo nàng đi. Không nghĩ nàng định đi hẳn về Phú Yên.

“Buồn thật, tôi rất hợp với Giang Hồng, cũng rất thích trang trại này.” Đưa lại lá thư cho Linh lão, nàng để ngón tay mình chạm nhẹ vào tay áo rộng của ông ta. “Nhờ lão gia gọi người chuẩn bị xe thuyền, ta sắp xếp xong thì có thể đi sớm.”

Cầm lấy lá thư, Linh lão im lặng một lúc rồi gật đầu đứng lên. Lần chần thêm mấy cái mím môi, ông ta chào nàng, quay người đi về phía cửa.

Nói cho cùng, ông ta vẫn là người coi trọng đại sự hơn hết thảy. Nhìn nắng hắt bóng Linh lão trượt qua sàn, Như Yên nhịp ngón tay lên môi mà nhủ thầm. Ông ta cũng không đủ liều lĩnh để làm bất cứ việc gì chưa rõ ràng kết quả. Trò chơi của nàng, đáng tiếc, lại kết thúc hơi sớm hơn dự định. Nhưng dù sao nàng đã muốn rời khỏi nơi này đến Phú Yên từ lâu. Sự chậm trễ của Hoắc Phương khiến nàng bị buộc chân ở gia trang này, nhưng y cũng đã cho nàng lý do để đến nơi ấy. Như thể y luôn rõ ý muốn của nàng từ lâu. Y cũng rõ để mặc nàng ở đây quá lâu sẽ có hậu quả gì.

Còn y, hẳn cũng sẽ phải trở về. Sự xáo trộn của triều đình Parik cùng an nguy của Oc-nha That quan trọng hơn vài chuyến hàng cùng vài mối liên hệ của y ở nơi này hiện tại. Ở nơi này, y đã có một thuộc hạ rất đắc lực có thể thay thế mình.

Nàng nheo mắt nhìn nắng vàng nhuộm ruộm khoảng sân trước nhà. Cây lá xào xạc trong gió, đem hương giáng hương tỏa lan.

Từ đêm ấy, nàng đã không còn gặp lại y. Như thể y luôn biết rõ nơi nàng đến để không bao giờ xuất hiện. Y đã thận trọng, ngay cả với từng đường đi nước bước nơi đây. Linh lão cũng thận trọng, nhưng có thể với lý do khác, để tránh cho nàng bắt gặp y.

“Xuân Tử.” Ngẫm nghĩ hồi lâu, nàng cất tiếng gọi. Từ phía sau nhà, Xuân Tử đi lên, chắp tay đứng cạnh bàn. Nàng vốn không thích những người đứng phía sau, luôn khiến nàng phải quay đầu lại. “Lâm Phi đã ổn chưa?”

Ở đây, chỉ Xuân Tử là người được phép đi lại tự do, có thể ra ngoài tùy ý. Bọn nàng có quá nhiều thông tin cần liên lạc đến mức nhất thời không nhớ hết. Những việc nhỏ, Xuân Tử toàn quyền giải quyết chứ không phải báo cho nàng. Lúc này, nàng hỏi về gã thuộc hạ cũ, như thể mới sực nhớ ra.

“Gã đã đến nơi, coi bộ làm ăn cũng đàng hoàng, ổn định tốt.” Xuân Tử trả lời, tay vẫn khoanh trong áo. “Gã định đưa quà đến cám ơn công nữ, nhưng tôi bảo, không phải lúc này.”

“Đúng vậy.” Như Yên bật cười. Ngả người qua ghế ghé về phía Xuân Tử, nàng hạ giọng. “Nếu gã muốn cám ơn thì bảo xuôi nguồn Đà Bồng đến mà gặp ta.”

 

 

 

Chú thích:

[1] Vương quốc Chiêm Thành cổ bao gồm cả các vùng đất Thượng mà ngày nay ta gọi là Tây Nguyên. Các di tích của đền tháp Chiêm Thành kéo dài vào trong núi chứ không chỉ giới hạn ở vùng trung tâm Chiêm Thành cổ. Nhiều nhà vua Chiêm Thành, đặc biệt trong thời gian vương quốc bị đẩy về phương Nam, xuất thân từ các tộc người Thượng.

 

[2] Khi nhà Mạc bị Lê-Trịnh đánh bại ở Bắc, Mạc Cảnh Huống là em trai của Mạc Kính Điển vào Nam theo chúa Nguyễn, được xem là một trong những khai quốc công thần nhà Nguyễn, lấy em vợ của chúa Nguyễn Hoàng là Nguyễn Ngọc Dương. Cháu của Mạc Cảnh Huống, con gái của Mạc Kính Điển là Mạc Thị Giai sau khi nhà Mạc thất thủ cũng đã vào Nam, trở thành vương phi của chúa Sãi. Mạc Cảnh Huống lập rất nhiều công lao cho Nam Hà, được phong chức Nguyên huân Sư Thống thủ Thống Thái phó, tổng chỉ huy quân đội Nam Hà cho đến năm 1638 mới từ quan về Diên Phước, Quảng Nam, lập nên chi phái họ Mạc ở đây, sau phải đổi thành Nguyễn Trường dưới thời Tây Sơn để tránh sự giết hại (ghi lại trong gia phả họ Nguyễn Trường tại Duy Xuyên).

Chúa Sãi cũng gả con gái là công chúa Ngọc Liên cho con trưởng của Mạc Cảnh Huống, ban cho người này mang họ Nguyễn Phúc, tên là Nguyễn Phúc Vinh, sau đổi thành Nguyễn Hữu, cử làm Lưu thủ đánh dẹp cuộc nổi dậy của Văn Phong ở Phú Yên. Vì công ấy, Nguyễn Phúc Vinh được dùng ấn son, cai trị vùng Phú Yên từ năm 1629.

Mạc Cảnh Huống được dân làng Cổ Trai (Quảng Trị) và Trà Kiệu (Quảng Nam) tôn là vị thần bảo hộ cho dân làng.

Vương phi Mạc Thị Giai sau được ban họ Nguyễn, là mẹ của Nguyễn Phúc Kỳ, Nguyễn Phúc Trung, Nguyễn Phúc Anh, chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan và các công nữ Ngọc Liên, Ngọc Vạn, Ngọc Khoa. Bà xuất thân từ vương triều họ Mạc nên giỏi về ẩm thực cung đình, được dân chúng vùng duyên hải Nam Trung Bộ tôn là Bà tổ bếp hay Bà tổ của nghề nấu ăn đất phương Nam.

 





Copyright © Trường An. All rights reserved.