Solitude

Cảnh như thị, nhân như thị

Hồi 24: Đi qua
Sunday, May 20, 2012 Author: Trường An

Có lẽ do vội vàng, Sorasak đã quên lo lắng cho điểm mấu chốt: Hắn phải tìm kiếm nhóm người kia ở đâu?

Dù người liên lạc đã báo cho bọn hắn nơi ở của nhóm người Chiêm Thành, vùng rừng núi mênh mông chỉ có cây, đá và núi, lại không phải là nơi hắn quen thuộc; đi lạc vào càng khó xác định phương hướng, huống hồ là tìm đường. Do vội vã, Sorasak đã thúc hắn đi mà không đợi tin báo trả lời trong núi, cho rằng đến nơi rồi hắn sẽ tìm được người Thượng dẫn đường. Để rồi, rốt cuộc, hắn thấy mình đang ở một thung lũng xanh rì, không biết đâu là Nam là Bắc.

Những ngày này, các bản làng người Thượng lại bỏ trống. Họ rút vào trong núi, có thể là đi săn bắn, có thể là để tránh việc đang xảy ra. Từ ranh giới của Chân Lạp, hắn quyết định nhắm phía Đông Bắc mà tiến tới, leo qua hai ngọn núi, ba trái đồi thì đã thấy mình lọt giữa rừng hoang. Không có khói của một bản người Thượng, đến cả một bãi phân voi cũng chẳng thấy.

“Lạ nhỉ, họ vốn ở đây mà.” Một người Chân Lạp được Sorasak thuê làm dẫn đường cho hắn nhìn quanh thung lũng, nhăn nhó. Hắn nhướn mày.

“Ở đây?” Cỏ dưới chân mọc xanh rì, cao đến ngang ngực, cây lá đan dày, có cây to bằng mấy người ôm. Như thể không hề có dấu tích của con người, ngay cả từ vài năm trước. Có những bản làng Thượng sống di cư, mỗi mùa lại chuyển đi nơi ở mới.

“Mười năm trước, tôi đi qua vùng này.” Kẻ dẫn đường xác nhận nghi ngờ của hắn. Không thể nói gì thêm, hắn ngẩng nhìn trời. Bóng chiều đã xế, một đàn quạ đang bay ngang đỉnh núi. Bọn hắn đã ở giữa thung lũng, nếu đi lên thì nội trong một chiều cũng khó vượt qua được núi. Mà lúc này, hắn chẳng biết phải đi về hướng nào.

“Cắm trại ở lại đây.” Quan sát một lúc, hắn đành nói. Toán người xung quanh liền xuống ngựa, phạt cỏ cây mà hạ trại. Để tránh thú dữ tấn công, họ chặt cây làm chông cắm xung quanh, đốt lửa đỏ rừng. Bữa tối chỉ có lương khô và mấy con thú nhỏ họ săn được bên đường, may mà người đi theo hắn chỉ trên dưới ba chục tráng sĩ khỏe mạnh, chưa phải lo thiếu thốn bệnh tật. Ăn xong bữa tối thì bóng đêm đã buông dày, hắn leo lên một ngọn cây cao, quan sát phương vị của sao.

Để tránh đánh động người, bọn hắn đã đi về phía Đông Bắc Đại Thành, vòng qua vùng núi của Chân Lạp mà đến miền Thượng, rồi từ đó nhắm hướng Đông mà đi, mong tìm được người dẫn đường. Nhưng người trong núi còn thính hơn cả thú hoang, tránh xa những kẻ lạ đột nhiên xuất hiện. Sorasak trong lúc vội vã đã tìm cho hắn một người dẫn đường đến vùng này từ mười năm trước. Dù núi không có chân để chạy đi, cỏ cây mọc lên cũng đủ khiến kẻ vừa đi qua lạc dấu.

Nếu cứ không tìm được bản làng nào, bọn hắn có thể nhắm hướng Đông đi tới, thể nào cũng lần ra được về bờ biển. Nhưng đến lúc hắn tìm được đường trở vào, những người mà hắn có nhiệm vụ đi đón hẳn đã chẳng còn ai.

Tiếng quạ ở đâu đó lại kêu. Hắn đột nhiên nhớ tới Dao Luật và đàn quạ của nàng. Nếu có chúng ở đây thì thật là tốt.

Dao Luật? Nhíu mày, hắn nhớ tới những gì Sorasak đã nói trước khi đi. Người Chân Lạp cũng đến đón toán người này. Mà ngay cả nếu không liên quan đến sự việc đang xảy ra, quan hệ của người Thượng và Chân Lạp bao đời nay vẫn rất gần. Nếu không thể tự tìm bọn họ, hắn có thể ra hiệu cho bọn họ tìm tới?

Nghĩ vậy, hắn liền lấy ra cây sáo trúc sau lưng. Công lao vất vả của Mộc Long để dạy tên đầu gỗ như hắn cũng có đôi chút thành tựu sau mấy năm này. Không biết nhạc hiệu của người Thượng, hắn thổi một khúc nhạc Chân Lạp. Dùng khí lực mà thổi, trọng tiếng vang hơn là âm tiết, tiếng sáo của hắn vang vọng khắp các dãy núi đồi, lanh lảnh như tiếng chim kêu. Thổi đi thổi lại đến lần thứ mười, hắn buông sáo, tự nhủ rằng đã đủ. Dù không thể nhất thời tìm được người ngay lập tức, hắn vẫn có thể thử lại khi đi đường.

Nhưng hắn đã không nghĩ đến, trong núi, ngoài thường dân còn có bọn sơn tặc.

Vùng núi này, nơi giáp ranh của ba đất nước, nơi người từ mọi vùng đất đến tìm mua hàng hóa vật phẩm quý giá, đương nhiên cũng tồn tại các nhóm cướp. Nghe tiếng sáo, thấy ánh lửa, người trong núi có thể còn cân nhắc việc đến gần, bọn cướp thì nhất định phải tới.

Đến đêm, khu lều trại của hắn náo động. Khi đá lăn xuống từ khắp bốn phía núi. Những hòn đá vướng cỏ lá lăn qua hàng rào lửa ngoài trại liền bốc cháy rừng rực, trong chớp mắt đã hỏa thiêu cái lều chính giữa. Bọn ngựa được cột ở trong hoảng sợ hí vang, điên cuồng giật dây trói bỏ chạy. Các tráng sĩ phản ứng bình tĩnh hơn bọn ngựa, liền nhảy ra khỏi khu lều cháy, gạt các đoạn chông gỗ chất lên nhau chắn đường lăn của đá, tạo thành bức tường lũy nho nhỏ để ẩn.

Đá lăn một lúc rồi ngưng. Để tên rào rào bay xuống. Vốn đã có kinh nghiệm với các cuộc tấn công, bọn hắn đã căng tấm sàn lều đan bằng trúc phủ lên lũy, để nó thành nơi hứng tên. Hắn không lo bọn cướp bắn tên lửa hay thả trâu mang đao xuống thung lũng, vì mục tiêu của chúng là tài vật, hủy hoại bọn hắn chẳng để làm gì.

Chờ một lát, tên ngừng, quả nhiên tiếng hò reo dậy lên từ bốn phía. Những võ sĩ xung quanh rút đao cầm tay, hắn liền ngăn họ nhảy ra.

“Đợi đã.” Hắn nói khi nhìn qua tấm lũy gỗ thấy những bóng đen trên thân núi chạy về phía này. Lửa soi sáng một vài kẻ đi đầu mình trần, chỉ mặc mỗi một chiếc khố, mặt được vẽ đủ màu sắc dọa người. Voi cũng đang được xua xuống, giơ vòi gạt cành cây chắn đường. Trên lưng một con voi, một kẻ đang múa máy thanh đao sáng quắc, hò hét đám người xung quanh. Không nghi ngờ, đó là kẻ cầm đầu toán cướp.

Đợi chúng đến ở khoảng cách đủ gần, hắn lấy trong hành lý ra một viên pháo hoa, ném vào đám lửa ngoài trại. Loại viên pháo này được chế tạo đặc biệt, bên trong có thêm chục viên pháo con, gặp lửa liền nổ liên tiếp thành một đám lửa khói lớn, tia sáng bắn tung nghe rõ tiếng bay veo véo như rồng lửa khắp thung lũng. Đám người Thổ hoảng hốt bỏ chạy. Hắn liền rời khỏi chỗ nấp, cẩn thận ném thêm một viên pháo nữa vào lửa, ẩn mình trong khói pháo mà lao đến con voi cũng vừa đặt chân xuống viền đồi đang hoảng sợ cuốn vòi.

Ánh kiếm lướt qua bóng tối như tia chớp sáng rạch đôi màn đêm. Tựa như quỷ thần, hắn đã kề kiếm vào cổ người trên bành voi, mỉm cười.

“Gặp được người, thật là tốt.” Hắn chỉ chờ có người tới, bất kể có là sơn tặc hay dã nhân.

Nhưng nếu còn điều gì xui xẻo hơn lạc đường, thì là toán cướp mà hắn tóm được cũng là dân nơi khác đến.

Chúng ta mới đến đây, tên đầu đảng kêu rên bằng tiếng Chân Lạp, dập đầu như tế sao. Gã cũng chưa từng nghe đến địa điểm mà hắn bảo, chẳng biết nơi nào ngoài vài dặm núi xung quanh. Cuối cùng, qua nửa ngày vắt óc suy nghĩ, đàn em của gã nhớ ra được một bản làng người Thượng gần đó, liền xung phong dẫn bọn hắn tới. Không còn cách nào khác, bọn hắn đi theo gã.

Con đường, nếu có thể gọi là như thế, mà đám sơn tặc đi quả nhiên cực kỳ quái dị. Trèo qua một ngọn núi nữa, bọn hắn phải đi cắt ngang đám rừng xanh um giơ tay không thấy bóng trước mặt. Càng lên cao, sương mù trong núi giăng mờ mịt, khí hậu lạnh dần. Khi tên sơn tặc chỉ cho hắn đám khói bốc lên từ ngôi làng bên kia một ngọn đồi cao, chiều đã buông xuống. Một người trong đoàn nôn nóng muốn chạy lên trước, hắn liền cản lại. Tìm lấy một tảng đá to cỡ thân người, hắn lăn nó xuống triền núi. Đá lăn đến nửa chừng đồi, bỗng nghe tiếng ‘Phựt’ nho nhỏ từ trong cỏ. Bộ chông lớn dài mấy thước bật lên, đâm vào hòn đá nghe tiếng cạ rợn người.

“Xung quanh làng thường có bẫy.” Hắn lắc đầu mà nói. Mỗi ngôi làng trong núi thế này thường chỉ có một lối vào, còn lại là bẫy rập được cài đặt bốn xung quanh. Bọn hắn đi theo sơn tặc mà đến, không biết đường lối dễ rước lấy họa sát thân.

“Ta không biết, ta chỉ dẫn các người đến đây thôi!” Tên sơn tặc thấy thế vội nói, nhảy ra sau định lủi đi. Hắn chỉ gật đầu, lấy cây sáo sau lưng, lại thổi một bản nhạc. Nghe tiếng bẫy sập, nghe thanh âm của con người, hẳn người làng sẽ ra.

Bọn hắn không phải đợi lâu. Nghe tiếng sáo Chân Lạp, một người Thượng luống tuổi biết tiếng Chân Lạp cùng với vài thanh niên liền đi tới. Sau khi biết bọn hắn lạc đường, họ xởi lởi mời vào bản.

Đi qua ngọn đồi, hắn mới nhận ra bản làng này lớn hơn hẳn hắn nghĩ. Họ vỡ đất làm một khoảng ruộng mênh mông bên bản, những triền đồi xanh màu trà và các loại rau. Hoa nở khắp nơi, nhiều nhất là thứ hoa bụi vàng rực. Sau bản là một khoảng đất rộng, cất chừng mấy chục căn chòi lớn nhỏ. Thấy thấp thoáng bóng vài chiếc áo trắng của người Chiêm, hắn mừng rỡ nhận ra mình đã tìm đến đúng nơi.

“Họ chia nhau ở tạm trong các bản.” Thấy hắn và các võ sĩ đều nói tiếng Chân Lạp, Đại Thành, người đàn ông hướng dẫn không cảnh giác, gật đầu nói khi hắn ướm hỏi. “Ở đây có ít người thôi.”

“Người cầm đầu của họ đâu?” Hắn nhìn quanh, ra vẻ tò mò mà hỏi. Bọn hắn đường đột đến, người nơi này chưa hẳn đã biết hắn là ai.

“Đi rồi.” Người kia cũng chỉ nói ngắn gọn. Hỏi thêm một lúc, hắn chỉ biết rằng một vài người chủ chốt ở nơi đây đã có việc phải rời khỏi bản, mấy ngày nữa mới quay lại.

Thì thôi, đợi mấy ngày nữa vẫn tốt hơn là ngơ ngác lạc đường giữa rừng mà tìm bọn họ, hắn nghĩ thầm, liền xin nghỉ lại vài ngày trong bản. Nhóm bọn hắn được đưa đến khu chòi của nhóm người Chiêm Thành kia, trong khi ngựa được chuyển về lán trại chung của bản.

“Xin lỗi,” Người đưa đường nói khi dẫn bọn hắn vòng qua chân đồi, đi ngang ruộng để đến khu chòi. “Hiện thời người lạ không được vào bản.”

Hắn vừa định gật đầu đáp lễ, một quả cầu kết bằng hoa đã bay từ đỉnh đồi xuống rơi đúng vào hắn. Hắn chụp lấy quả cầu, đưa lại cho đám trẻ con í ới chạy theo. Nhìn lên triền đồi, hắn thấy mấy cô gái bản cũng đang vạch lùm cây trông xuống người lạ vừa tới. Không muốn phiền phức thêm, hắn vội đưa toán người của mình về chòi.

Tuy vậy, đến đêm, hắn đã nhận thấy trong đoàn thiếu mất vài người. Đám lửa giữa bản vẫn còn chưa tắt, người xung quanh đã vãn đi. Dù bọn hắn không được vào bản, các cô gái trẻ bạo gan vẫn đến chòi của khách để làm quen. Theo những gì hắn quan sát được, những người Chiêm Thành ở các chòi bên cạnh cũng không phải dạng người thường. Đến nơi này, họ vẫn mặc vải tốt, đeo vàng sáng tay chân, ăn thịt uống rượu do chính người trong bản đem tới. Không biết tiếng Chiêm để lân la bắt chuyện với họ, cũng chẳng biết tiếng Thượng để hỏi han người xung quanh, hắn chỉ có thể nhìn họ mà phỏng đoán trong thời gian chờ đợi. Những cô gái Thượng lại tỏ vẻ thích thú với các võ sĩ tráng kiện hắn đem theo hơn là các quý tộc xa cách nọ. Còn bản thân hắn, sau khi soi vào nước, đã hoàn toàn yên tâm với bộ dạng râu tóc tua tủa, áo quần rách rưới sau những ngày đi rừng, nhìn xa khó mà phân biệt với dã nhân.

Nhưng mang lớp bùn đất bám từ đầu đến chân thì chẳng hề dễ chịu. Đợi đến lúc tối khuya, hắn lần ra con suối cạnh làng tắm rửa. Ngày đầu tháng không trăng, đất trời tối đen, chỉ có cái đèn nhỏ bằng quả trứng bỏ mấy con đom đóm soi đường cho hắn. Khi hắn tắm xong lên bờ, cái đèn đom đóm đã bị gió thổi tạt đi, đom đóm bay hết từ lúc nào.

Trong bóng tối, giác quan hắn lại linh mẫn lạ thường. Trong tiếng gió rừng xào xạc, hắn nghe có tiếng chân đang đi đến. Tiếng chân rất nhẹ, tiếng thở cũng rất mỏng, hương trầm thơm theo gió thoảng tới như thể đó là một cô gái. Hắn không cảm thấy sát khí từ cô ta. Cô ta cũng đứng lại trong bóng tối, thở ra nhè nhẹ, như thể phân vân nên tiến tới hay thoái lui.

“Ai đó?” Tuy vậy, hắn vẫn lên tiếng hỏi, dù cho rằng ở đây không ai hiểu ngôn ngữ hắn dùng. Hắn chỉ đánh tiếng cho cô gái bên kia biết sự nhận biết của mình, chờ đợi cô ta phản ứng.

Hắn chờ đợi tiếng cười tinh quái của một cô gái Thượng, nhưng cô ta cứ đứng yên. Yên phăng phắc. Hắn thậm chí không nghe được hơi thở của cô ta. Cũng không để tâm thêm, mặc xong quần áo, hắn về chòi đi ngủ.

Mấy ngày đường mệt mỏi khiến hắn ngủ say như chết đến trưa hôm sau. Buổi tối, người đàn ông biết tiếng Chân Lạp trong bản đến, báo cho hắn rằng trưởng bản muốn gặp, dẫn hắn vào một ngôi nhà trong bản. Bản làng này theo mẫu hệ, trưởng bản hiện thời là một bà già khắc khổ trông gần như đàn ông. Bà vừa từ buôn làng bên trở về. Không tiện nói nhiều khi phải qua một người phiên dịch, hắn trình bày ngắn gọn về bản thân và mục đích của mình đến tìm trưởng nhóm của người Chiêm Thành. Sau một hồi trò chuyện, bà lão gật đầu, hứa sẽ ngay lập tức cho người đến báo tin với ‘anh Cả’ – Một thứ tên gọi hẳn đã được dịch qua nhiều tầng ý nghĩa, hắn nghe như mật danh.

Trong lúc trò chuyện, bà lão trưởng bản mang rượu ra mời. Rượu vùng núi cất bằng lá rừng, vị cay cay nồng nồng là lạ. Vốn tự cho mình có tửu lượng cao, hắn không khách khí uống hết hai ché rượu nhỏ, đến lúc đứng lên từ giã bà lão mới thấy chân mình nhẹ bỗng, đầu gối như rủn ra.

“Anh say rồi, cứ ngủ lại đây.” Tiếng người dẫn đường vang trong tai, khi trước mắt hắn đột nhiên tối sầm. Hình ảnh cuối cùng mà hắn thấy chỉ là lửa trong lò cháy rừng rực giữa nhà.

Lạc Lạc thang… Trong tâm trí mơ màng, ý nghĩ ấy chợt trở về, cùng một tiếng nói ngày càng rõ: Đồ ngốc này, người ta cho gì uống nấy hay sao?

Kẻ ngốc thì không phải là người xấu. Lần đầu tiên gặp hắn, nàng cười. Tiếng cười thanh thanh. Ngay cả hoàn thuốc nàng ném cho hắn cũng thơm thơm mùi hoa.

Hắn vẫn còn cảm thấy mùi hoa ấy quẩn quanh trong cổ họng khi chớp mắt tỉnh thức. Bóng tối vẫn ken dày trên mái xà cao của ngôi nhà trong bản. Lửa trong lò vẫn cháy sáng. Nhưng không còn mùi gia súc được nuôi dưới sàn nhà ngai ngái, gian nhà lúc này lại thơm nồng. Hắn nghe tiếng bạc khua khe khẽ khi một bóng người tiến tới gần, ngồi xuống bên cạnh. Bước chân, hương thơm lẫn khí tức của người vừa tới khiến tim hắn gần như nhảy lên cổ họng.

“Như Yên…” Dùng hết sức để quay đầu về phía nàng khi thân người đã cứng tựa một súc gỗ, hắn chớp mắt, gọi mà không kịp nhìn. Cảnh vật trước mắt hắn nhòe nhoẹt như lọc qua một màn sương, chênh chao như nằm dưới lòng nước. Thân thể hắn tựa như đang trôi bồng bềnh giữa không khí, như không còn thuộc về hắn, một cái nhấc tay động chân cũng muôn vàn khó khăn.

Hắn chỉ nhìn thấy một bóng người mờ nhạt. Tóc dài, áo đen thẫm pha sắc đỏ, nàng ta như lẫn vào với bóng tối và ánh lửa không ngừng lay động. Tựa cằm lên gối, nàng quan sát hắn như thể chờ đợi xem hắn sẽ làm gì.

Hắn chớp mắt thêm nhiều lần nữa, nhưng màn sương chẳng chịu tan đi. Trong lúc đó, cô gái vẫn nhất quyết im lặng. Nàng không phản ứng với cái tên hắn vừa gọi, cũng chẳng định nhấc một ngón tay chạm vào hắn. Nàng chỉ nhìn hắn, lặng im.

“Xin lỗi.” Cuối cùng, hắn nhắm mắt, trấn tĩnh lại. Nàng làm sao có thể xuất hiện ở nơi này, phần còn tỉnh táo trong hắn tự nhắc. Thứ hắn thấy hẳn chỉ là một ảo giác của bản thân, một giấc mơ thi thoảng vẫn trở lại. Như người mộng du, hắn thì thầm với cái bóng của nàng. Cái bóng yên lặng xa cách, ở trước mắt mà diệu vợi không thể chạm tới. Như nàng trong những giấc mơ. “Xin lỗi, ta đã bảo rằng sẽ đưa tay cho nàng, vậy mà cuối cùng không làm được.”

Hắn thử cử động những ngón tay tê cứng, rốt cuộc cũng thất bại. Những ngón tay hắn giật lên, rồi lại rơi xuống bên người.

“Ta bảo sẽ nhất quyết đưa tay cho nàng, cuối cùng lại bỏ đi. Ta nói sẽ bao dung với nàng, gánh đỡ cho nàng, cuối cùng lại không làm được.” Nỗi bất lực từ những ngón tay lan đến tim hắn gần như ngạt thở. Hắn mở mắt trừng trừng nhìn cái bóng trước mặt, nói như một kẻ say. Nói như sợ cái bóng của nàng lại biến mất. “Nhưng mà… ta đang xây một ngôi làng lớn, một căn nhà lớn. Nhà có ao, có vườn cho nàng trồng hoa, chăn vịt. Có biển, có núi, có rừng. Đến khi nàng tám mươi tuổi, không còn có thể chạy quanh nghịch phá nữa, ta sẽ có một căn nhà cho nàng thả vịt, trồng hoa…

“Nếu tận năm tám mươi tuổi nàng mới chịu đến đó, cũng được. Nàng lấy bao nhiêu người chồng, có bao nhiêu đứa con, cũng cứ đưa chúng đến.” Mắt cay rát, hắn đành phải nhắm lại, tiếp tục nói như mộng du. Những điều này, hắn đã nhắc đi nhắc lại trong những giấc mơ. “Lúc ấy, nàng mất nhà, ôm lấy ta mà khóc. Ta đã muốn cho nàng một căn nhà. Ta đã luôn muốn cho nàng một căn nhà. Chỉ có vậy thôi…”

Những ý nghĩ chỉ tồn tại trong mộng mị. Những lời nói mà hắn chỉ có thể thốt ra trong những giấc mộng hoang đường. Xin lỗi, hắn lặp đi lặp lại trong bóng tối, khi bóng tối lại đổ ập vào tâm trí, trong khoảng trống hoang mang lặng im bao phủ. Bóng người bên cạnh hắn vẫn bất động, lặng thinh.

Khi hắn mở mắt lần nữa, đêm vẫn chưa qua. Lò lửa vẫn cháy, tuy ánh sáng không còn như hồi chập tối. Tiếng chim ríu rít kêu đầu dòng nước báo hiệu bình minh sắp đến. Trên người hắn đã được đắp một tấm chăn dày. Hắn hất chăn ngồi dậy, ngọn gió thổi qua khe cửa hẹp mang theo mùi hoi của gia súc phả vào. Đầu hồi, cô hầu nhỏ ôm lồng ấp bằng đất ngủ gục, mái tóc dài xõa xuống mặt. Ngơ ngác nhìn cô ta hồi lâu, hắn im lặng bước xuống thang nhà.

Sương ướt đẫm đồng cỏ dưới chân, rớt tí tách từ những cành lá là đà ngả xuống trên đầu hắn. Phía bên kia núi, bầu trời đang dần chuyển sắc tựa màu loang. Bầu trời dần sáng lên sắc xanh lam, đất mờ trong hơi khói. Những cụm hoa rừng xòe cánh trong sương, tỏa hương thơm ngai ngái. Bên đồi, một triền cỏ xanh mượt như nhung chợt lọt vào tầm mắt hắn. Không vội trở về chòi, hắn bước lên đồi, ngồi trên trảng cỏ mà ngẩng nhìn bình minh đang tới. Gió se sắt lạnh, thổi qua hắn từng đợt ran rát mắt. Lồng ngực vẫn còn thấy nằng nặng, hắn liền rút sáo ra thổi. Chẳng phải vì hắn yêu âm nhạc đến mức ấy, chỉ là làm theo lời Mộc Long mà ‘điều chỉnh khí tức’. Những năm tháng này, hắn thường có những khoảng thời gian nặng nề đến mức chỉ muốn gào hét lên, Mộc Long liền dúi cho hắn cây sáo. Hò hét thì giống thằng điên, tập trung khí lực thổi cho bay hết phiền muộn tốt hơn, một công đôi việc. Sau khi làm gãy chừng chục cây sáo, hắn rốt cuộc cũng hiểu ý ông.

Tiếng sáo lảnh lót cất lên trong sương sớm nghe như tiếng cuốc kêu, khiến đàn chim nấp trong cây hoảng hốt bay tứ tán. Vẫn giữ một cao độ chót vót bất thường, tiếng sáo vang xa, rung lên như ngàn giọt sương đang rơi xuống, tan vỡ thành ánh sáng. Ánh sáng bừng lên từ phía chân trời, được lọc qua muôn muôn vạn vạn giọt nước trong suốt như thủy tinh. Sương đang bốc mù, quện với nắng hắt thành dải màu trăm sắc bồng bềnh lay động giữa không trung. Bên kia đồi, dòng suối lặng lẽ trôi, hắt lên dải ánh sáng tựa như vết nứt vỡ trên mặt đất. Bên kia núi, bầu trời chợt như nứt vỡ để ánh sáng đổ xuống, chảy tràn.

Tiếng sáo đột ngột ngừng ở một trường âm cao đến chói tai. Hắn cúi đầu tránh tia nắng rọi qua kẽ lá rơi đúng vào mắt. Cơn ngầy ngật của bữa rượu đêm qua vẫn còn trong cổ, vương lại hương hoa đắng ngắt.




Hồi 23: Chiêm Dao Luật
Wednesday, May 16, 2012 Author: Trường An

Khi Dao Luật vừa bước vào cổng làng, nàng đã nghe thấy tiếng cười. Tiếng cười vọng đến từ ngọn đồi bên kia bản, nơi vốn dành để tổ chức các buổi lễ hội. Hiện tại thì không có buổi lễ nào được tổ chức, nhưng có tiếng đàn T’rưng đang được gõ rất to theo một thứ âm điệu tán loạn. Mấy con diều cốt tre thân vải đang được thả, nghe tiếng sáo trúc vi vu. Một bầy trẻ con đang nối đuôi nhau chạy vòng quanh các gốc cây. Thấp thoáng bóng vài cô gái bản với màu váy sặc sỡ tựa một đàn bướm giữa các lùm cây, dường như đang hát múa trong tiếng sáo dặt dìu.

“Tốt nhất là cứ nên nhốt cô ta lại.” Nàng nói khi vừa chạm mặt Ngô Lãng, thậm chí không cần hỏi y về nguyên nhân sự ồn ào trên đồi. Tiếng sáo đang thổi một bản nhạc phương Bắc, dù có được phụ họa theo bởi tiếng hát lạ tai thì vẫn chẳng thể lẫn đi đâu.

Y chỉ chăm chú lau chùi lưỡi đao sáng bóng như nước, không trả lời. Hai người đang ở trong ngôi nhà giữa bản, xung quanh hoàn toàn vắng vẻ. Thanh niên trai tráng trong bản đã lên rừng từ sớm để săn bắn, kiếm củi chuẩn bị cho người đang trú tại đây bước vào cuộc hành trình dài. Những cô gái cùng bọn trẻ con đem gạo và khung cửi lên đồi vừa xay giã, dệt đan vừa cười đùa. Được ‘thả’ ra khỏi nhà, Như Yên đã nhảy như sáo theo họ, thả diều hái trái bày trò chơi. Dù không hiểu ngôn ngữ của nhau, đám trẻ cũng chẳng khó khăn để tham gia những trò chơi ồn ào của nàng.

Trước đây y đã không nói với Dao Luật về sự vui vẻ bất thường của Như Yên, và giờ đây nàng đang nhìn y với ánh mắt đầy nghi hoặc.

“Dù có ở trong nhà thì cũng bày đủ trò ồn ào.” Bất đắc dĩ, y mở miệng. Rất nhanh, y đã hiểu những món trang sức của Như Yên đến từ đâu. Bị giam trong nhà, nàng làm ra những món đồ nho nhỏ, và bán chúng với giá cắt cổ mà người mua chẳng ai khác ngoài những kẻ bị nụ cười của nàng dụ dỗ. Người vùng núi vốn đơn thuần, thích những thứ lạ lẫm mà không cò kè so đo giá trị món hàng, có thể chỉ vì yêu thích mà trao đổi. Gian nhà của nàng, vào những ngày không mưa, y hệt một quán trà nhỏ. Thuốc, thịt, rượu cũng từ đó mà ra.

Những trò chơi ồn ào này còn tốt hơn là rượu và thuốc, đối với nàng.

Bên kia lò lửa vốn được đốt suốt đêm ngày, Dao Luật chỉ nhìn y, đôi mắt to đen không rõ đang biểu thị ý nghĩ gì. Nàng vốn định đến thăm dò tình trạng của Như Yên, luôn tiện bàn việc với y. Nhưng như y đã từng nói trước đây, thái độ của Như Yên hiện tại hoàn toàn đáng ngờ. Nhìn y, nàng cũng không rõ y có thể biết được gì nhiều hơn những gì đã nói.

“Nếu không bắt ép cô ta nói được…” Ngẫm nghĩ một lúc, Dao Luật chầm chậm nói. Với tính khí của Như Yên, hầu như chẳng có phương pháp đe dọa nàng tiết lộ những gì mình nghĩ. “Nếu vậy, thì dùng tình cảm thử xem.”

“Tình cảm gì?” Y liếc mắt qua Dao Luật, hỏi mà không buồn nhướng mày. Sau những gì đã xảy ra, nàng nghĩ loại tình cảm gì có thể còn giữa bọn y?

“Thật ra chuyện tình cảm đâu thể tính toán quá. Chuyện của hai người, có cả ngoài dự liệu lẫn bất đắc dĩ, xét ra thì cũng chẳng thể đổ hết lỗi cho ai.” Dao Luật khoanh tay, dùng chất giọng thuyết khách của nàng mà rủ rỉ, bất chấp y đã lại ngoảnh đi. “Ngày trước, tôi hầu hạ công nữ Nam Hà, người An Nam bên cạnh cũng nhiều, họ kể rất nhiều chuyện về người phương Bắc. Chẳng phải những chuyện tình kinh tâm động phách lẫn những mỹ nhân khuynh quốc khuynh thành của người phương Bắc hầu hết đều không toàn bích sao?

“Tây Thi, Điêu Thuyền, Ngọc Hoàn, Văn Quân đều chẳng phải nữ nhân toàn bích; những kỹ nữ như Trần Viên Viên càng chẳng thanh cao trong sạch. Có thể họ còn chẳng tốt đẹp gì cho cam. Nhưng người vì họ mà đánh đổi có khi cả sinh mệnh lẫn đất nước đều là bậc vua chúa hào kiệt nhân sĩ trong thiên hạ. Mà những người có tất cả mọi thứ như vậy lại chỉ yêu thích phụ nữ như thế, chẳng phải là lạ sao? Lại chẳng phải vì họ đã có tất cả, cả trinh tiết hay thân xác đều có thể mua được, rồi những thứ ấy chẳng còn quan trọng. Chẳng có ý nghĩa gì hết, cái tiêu chuẩn được đặt ra y như người ta đánh giá một món hàng còn mới hay cũ. Đến lúc ấy, thứ mà họ quan tâm chỉ là những gì người kia đem đến cho mình, cái cảm giác hiện tại đối với chính con người ấy chứ chẳng phải vì tiêu chuẩn hay mục đích nào, đó lại chẳng phải là mối quan hệ chân thực thuần khiết nhất mà người ta có được? Người ở bên người chẳng qua cũng chỉ vì thế thôi – vì những gì mà bản thân muốn có. Đem những định kiến lẫn tập tục bên ngoài để tự mình ngăn mình, tự làm khổ bản thân, chỉ là kẻ khờ khạo tin cái gì cũng là thật cả.” Ngừng một lát như để đánh giá thái độ của y, Dao Luật nhún vai nói tiếp. “Mà cô ta cũng vậy, tự cao tự đại, chẳng qua vì không thế ra thì không sống được. Cô ta chỉ yêu được kẻ nào coi trọng cô ta như thế mà thôi.”

“Coi trọng?” Đã ra vẻ như không nghe những câu nói trước của Dao Luật, lần này y lơ đãng vừa lau đao vừa hỏi. Dao Luật đan những ngón tay đặt trên gối, gật đầu.

“Cô ta lớn lên như thế, vốn chẳng có gì ngoài bản thân, ngoài tự mình coi trọng mình thì chẳng có cách nào khác mà tồn tại, đâm ra kiểu duy ngã độc tôn làm vậy. Cho nên cô ta bị thu hút bởi những người không để ý đến mình, mà lại chỉ cho mình yêu được kẻ coi trọng cô ta.” Hai điều kiện trái ngược ấy chỉ có một người làm được, nàng nhủ thầm nhưng không nói ra.

Y liếc nhìn nàng, chợt thoáng cười.

“Dao Luật cô nương quả là… rất để tâm.” Y biết hắn không phải là kẻ đem chuyện riêng của mình kể lể với người ngoài, mà Dao Luật lại đang biết quá rõ về mối quan hệ của bọn y. Như thể nàng ta đã theo dõi bọn y – hoặc riêng Như Yên – không phải chỉ mới một hai ngày.

“Việc bình thường mà.” Nhận ra ý phòng vệ của y, nụ cười của Dao Luật vẫn vô cùng mềm mại. Y và nàng đã quen biết nhau từ khi đụng độ ở Kẻ Mọi, đương nhiên hiểu rõ nàng đã theo dõi bọn họ trước đó. Bây giờ y đang nhìn nàng, sự tò mò ánh lên trong mắt.

“Trước kia, cô là người của ai?” Y thận trọng hỏi. Nghe lời nàng nói khi ấy, có vẻ nàng làm việc cho Đại vương Chân Lạp, nhưng thời gian đó, công nữ Ngọc Vạn của Nam Hà mới là chủ nhân của nàng.

“Mấy chục năm trước, cha mẹ tôi chạy sang Chân Lạp, đến sống ở gần Phnom Penh. Rồi Nam Hà đánh Chân Lạp, mẹ đưa tôi chạy đến Oudong trong khi cha tôi bị sung vào quân đội. Mẹ tôi mất trong hoàng cung Oudong, cha tôi mất tích không tìm được xác. Khi ấy, Đại vương trở về, cứu sống tôi.” Dao Luật giản dị nói, đôi mắt nàng hoàn toàn an tĩnh. “Trong tình thế phải phân chia đất nước, Đại vương liền phái tôi đến hầu hạ công nữ Nam Hà trong cung của Nhị vương. Không ai nghi ngờ một đứa trẻ như tôi.

“Hoặc là có, bà ấy biết. Nhưng bà ấy còn tính toán gì đó nên cứ giữ tôi lại.” Dao Luật mơ hồ cười, nhẹ nhún vai. “Thật ra với Nam Hà, khi nắm được Nhị vương trong tay, vai trò của bà ấy thế là xong rồi. Bà ấy lui vào chùa ở, tôi cũng phải đi theo. Đến khi tôi cùng các người hầu cùng lứa trưởng thành, bà ấy cho chúng tôi tự do. Cũng vì có danh nghĩa của bà ấy, tôi có thể đi lại bất cứ nơi nào ở Nam Hà. Rồi… quen biết với Tư Tư ở Tây Phong lầu.

“Lúc đó, tôi còn không biết anh là chủ nhân của Tư Tư, cũng chẳng biết Thương Trúc trang là gì.” Dao Luật cười khẽ. “Tư Tư bị đưa về Thương Trúc trang, tôi tò mò lần theo. Rồi từ đó quen được Oc-nha That và… nhiều người nữa. Ở Kẻ Mọi, tôi vốn chỉ định lợi dụng tình thế dọa cô ta một mẻ, ai ngờ cuối cùng tình hình xáo trộn nháo nhào.”

À, y thốt khẽ trong ngực. Vậy ra, Dao Luật có mặt ở Thương Trúc trang hầu như cùng lúc với hắn, ngay từ ngày Tư Tư bị Như Yên lôi về trang viện. Sự chú tâm đặc biệt đột ngột của Oc-nha That với Như Yên và những việc xảy ra trong thời gian ấy, chợt sáng rõ nguyên do.

Cũng có thể đều là do nàng ta, ánh mắt y lướt qua chấm chu sa trên trán Dao Luật, nơi mà Như Yên đã đâm mũi dao vào chẳng chút thương tình. Có thể, nàng đã mượn việc để trả thù tiểu yêu tinh tai quái kia, cũng khó mà rõ.

Chỉ là, ngay sau ngày ấy, Như Yên đột nhiên trở thành mục tiêu bị truy sát của nhiều phe phái, buộc nàng phải tạm thời biến mất. Để rồi, có thể Như Yên đã phản công lầm người khi đến tận Quy Ninh. Việc như xoáy nước cứ thế dần dà lan rộng.

Cô gái này, thật ra nàng ta còn biết được bao nhiêu?

“Nam Hà đã vào Panduranga chưa?” Nhưng rồi y đổi hướng câu chuyện, không muốn hỏi sâu thêm. Những việc khác, y vẫn còn Tư Tư để tìm hiểu.

“Thống binh Nam Hà đã cắt người đến canh ngoài Panduranga, nhưng chưa vội tiến vào thành, e ngại có phục kích hay sự biến.” Dao Luật lại nhẹ cười. “Sắp có toán quân đuổi theo đến đây. Chúng phải thấy tận mắt tình hình người đã rút đi cả thì mới tin tưởng được.”

“Cũng có thể, là ‘Nhổ cỏ tận gốc’.” Dao Luật rùng vai nói thêm. Đã nắm trong tay thân thuộc của nhà vua Bà Tranh, có thể kẻ địch vẫn còn muốn trừ khử tất cả các quý tộc cao cấp của Chiêm Thành, đề phòng họ xách động biến loạn.

Bản làng này nằm rất sâu trong núi cao, hầu như người bên ngoài không thể tìm vào. Nhưng còn gần vạn người đang hướng về phương Nam cần phải được bảo vệ. Những trạm canh phòng phía sau họ đã được lập, tuy vậy cũng không thể quá đánh động toán quân đuổi theo. Nếu nghi ngờ Chiêm Thành tập trung quân lực trong núi, Nam Hà sẽ chẳng ngại ngần mà đưa toán quân đang ở Kauthara đến truy diệt.

“Tôi đã dặn mọi người ở yên trong bản làng, hạn chế di chuyển. Nếu quân Nam Hà có đến thì ứng phó sao cho ổn, hẳn chúng cũng không đụng chạm đến thường dân chạy loạn làm gì.” Dao Luật gật đầu, miết ngón tay lên vòng vàng đeo trên cổ tay kia. “Ta tốt nhất nên chờ người từ phương Nam đến đón. Họ ra mặt tiện hơn.”

Nếu cần đụng độ với toán quân đặc phái của Nam Hà để đưa nhóm người này đi, quân đội của Chân Lạp hay Đại Thành ra mặt sẽ tiện hơn. Thấy có quân đội láng giềng trợ lực, Nam Hà sẽ tin chắc rằng nhóm người này đã quyết định di cư hẳn, sẽ có ít rối loạn xảy ra hơn.

“Chim đưa tin của Đại vương đã tới, bảo họ trong ít ngày nữa sẽ đến.” Dao Luật lấy trong túi đeo ra một tờ giấy nhỏ, nhưng hiểu rằng y không thể đọc được chữ ghi trên đó mà không đưa nó cho y. Nàng lại lấy ra một tờ giấy khác lớn hơn, hơi nhíu mày nhìn nó. “Người liên lạc khẩn của Đại Thành cũng tìm tới, bảo họ muốn đón ta về.”

“Ai ở Đại Thành?” Y nhướn mày. Thái độ của Dao Luật như thể nàng đang còn phân vân điều gì.

“Hoàng thái tử của Đại Thành – Dù sao anh ta cũng đang có quyền thay mặt nhà vua làm một số công chuyện.” Nàng nói như giải thích cho y cơ cấu quyền lực đặc biệt của đất nước phương Nam. “Đến Đại Thành cũng rất tốt, tôi chỉ đang nghĩ, nên chia người đi hay để cho họ tự chọn?”

Nếu được chọn, hẳn phần đông sẽ chọn Đại Thành giàu có đông đúc hơn là đất Chân Lạp đầy biến loạn. Nhưng trong dự tính của họ, liên hệ với Chân Lạp quan trọng hơn. Đại Thành có thể cung cấp vũ khí, nhưng đất Chân Lạp gần sát Panduranga vẫn có vị trí chiến lược. Họ cần sự ủng hộ không chỉ của nhà vua mà còn là cả triều đình Chân Lạp, các quý tộc của đất nước ấy.

“Cứ để người đến đây rồi tính.” Y nói sau một lúc trầm ngâm. Việc cần làm trước mắt là cắt đuôi toán quân đuổi theo của Nam Hà. Sau đó, tùy theo tình hình và sự lựa chọn của mọi người để tính toán. Kể cả ‘cái giá’ mà Chân Lạp cùng Đại Thành sẽ trả để có được họ.

“À…” Dao Luật nói, nhưng lời nàng chợt bị cắt ngang bởi thanh âm từ cửa ngoài vọng vào. Một đám trẻ vừa chạy ào vào cổng làng, thấy người lạ trong nhà liền đu cửa lên nghiêng ngó. Nàng quay người định cười với chúng, lại chợt nhận ra bóng người phía sau, nụ cười nở được nửa chừng liền biến mất.

Cô gái váy đỏ huyết dụ cũng dừng chân ngoài nhà, chớp mắt nhìn lại. Có thể vì ánh nắng, Dao Luật đã thầm nghĩ nàng ta không nhận ra nàng. Nhưng sau mấy cái chớp mắt, Như Yên cười khẩy, quay lưng đi.

Nụ cười của nàng ta, dường như không dành cho Dao Luật.

“Tôi về xem công chuyện thì hơn.” Quay về phía y, Dao Luật chỉ cười, nghiêng mình trước khi đứng lên. “Chỉ sợ ở đây lâu thêm, cả nhà cũng bị đốt mất.”

“Canh phòng cẩn thận.” Y chỉ dặn theo nàng.

Khi Dao Luật bước xuống thang, quả nhiên đã thấy một con rắn lục được thả dưới sàn ngóc đầu lên, thè ra cái lưỡi đỏ lòm. Nàng còn bắt thêm được một đàn sâu thả mình xuống từ cành cây là đà vắt ngang cổng tre, suýt bước hụt chân vào một bãi phân voi to sụ dưới đám cỏ khi còn mải ngẩng đầu nhìn. Bước thêm vài bước, nàng nhận ra quả gai đã dính đầy váy, hẳn được tung từ đám trẻ vừa chạy vụt qua.

Dao Luật quyết định đứng chờ. Một lúc sau, nàng thấy Như Yên từ trên đồi bước xuống, trên tay cầm theo một chùm cỏ lau. Nàng ta liếc mắt qua Dao Luật, rồi ra vẻ như định quay vào trong bản.

“Này!” Dao Luật lên tiếng gọi, hơi phân vân cách gọi cô gái kia. Gọi tên thì quá thân thiện, gọi ‘cô nương’ thì lại quá trịnh trọng. Nàng vẫn còn nhớ lần cuối cùng họ chạm mặt nhau. Như Yên liếc mắt nhìn lại, Dao Luật liền khoanh tay cười. “Ta là Chiêm Dao Luật.”

“Đại danh như sấm nổ bên tai.” Chút ngạc nhiên thoáng qua ánh mắt, rồi Như Yên cũng chỉ cười. Nàng ngạc nhiên vì đã từng gặp người mang cái tên ấy chứ không phải vì bản thân cái tên. Dĩ nhiên thôi, nàng lại nhủ thầm. Y hẳn phải thông đồng với một kẻ không hề tầm thường. Kẻ truy đuổi nàng ở Ngãi Lãnh càng không có vị trí tầm thường, sau này thì nàng nhận ra.

“Ta không định tính toán với cô.” Tự cho rằng mình hiểu ý nghĩa trong ánh mắt Như Yên – nàng ta đang có ánh nhìn y hệt Ngô Lãng vừa rồi khi nghe nàng kể chuyện, Dao Luật hạ giọng, vẫn đứng cách vài bước chân mà nói sang. “Vừa rồi ta định nói với A Ban một chuyện, nhưng nghĩ rằng nói cho cô thì tốt hơn.

“Đại Thành sắp cử người đến đây. Ta nghe nói, đó là một người quen cũ của Po Chongchan.” Ngừng một thoáng để đánh giá phản ứng của người trước mặt, Dao Luật mím môi. “Ta cho rằng cô biết trước thì tốt hơn.”

Nàng đã định nói với Ngô Lãng, nhưng lại bị ngắt ngang, để rồi nhớ ra sự có mặt của cô gái này ở đây. Nàng có thể chỉ báo cho Ngô Lãng, để y bí mật đem nàng ta chuyển đi nơi khác. Nhưng nàng lại nghĩ rằng báo trước cho người đứng giữa bọn họ vẫn là tốt nhất.

Như Yên chậm chạp chớp mắt. Phản ứng của nàng chậm hơn hẳn liệu định của Dao Luật. Nàng nhíu mày nhìn Dao Luật, như thể hoàn toàn không hiểu ý câu nói.

“Ai cơ?” Như Yên ngơ ngác hỏi lại. Đến lượt Dao Luật thoáng ngạc nhiên, nhưng nàng lại cười hắt ra.

“Ta và công tử rất thân nhau ở Chân Lạp.” Cô gái này quen tránh bị nắm thóp đến thành bản năng, không đời nào tự nhận ý mập mờ của người khác. Nếu muốn tỏ ý chân thành, nàng nên nghiêm túc. Gật đầu, Dao Luật nói thêm. “Ở hoàng cung Chân Lạp.”

“Lần này có vẻ Thái tử Đại Thành nhờ người quen của Po Chongchan đến đón người, cũng không nhất thiết phải đến đây. Nhưng ta muốn hỏi ý cô thế nào?” Dao Luật nói, lại thấy Như Yên nhíu mày như thể không hiểu.

“Sao phải hỏi ý ta?” Nàng hỏi lại, chợt đưa mắt về phía người đã bước xuống thang nhà trong bản. Nhìn theo ánh mắt Như Yên, Dao Luật hiểu rằng không tiện nói thêm, đành quay người bỏ đi.

Khi y ra đến nơi Như Yên đang đứng, Dao Luật đã lên ngựa đi vào rừng. Vẫn đứng dưới chân đồi, Như Yên cúi đầu ra vẻ đang vặt mấy bông cỏ lau cầm trên tay, khiến những cụm bông bay tứ tán trắng xóa đám cỏ dưới chân, bám cả trên váy áo nàng.

“Chuyện gì thế?” Y thận trọng lên tiếng hỏi. Y vốn không nghĩ Như Yên dám chặn đường Dao Luật gây sự trong hoàn cảnh này, và Dao Luật lại nói điều gì khiến Như Yên tức giận. Nàng rõ ràng đang giận dữ - và ‘nạn nhân’ là đám cỏ đang bị xé tơi bời.

Nghe tiếng hỏi, Như Yên vẫn không ngẩng đầu lên. Vò nốt đám bông cỏ giữa mấy ngón tay, nàng chợt cười nhạt.

“Cô ta nói, cô ta là Chiêm Dao Luật. Chiêm Dao Luật của Chân Lạp.” Nàng ngẫm nghĩ cười. Càng nghĩ, nụ cười của nàng càng xán lạn. Khiến mấy sợi tóc sau gáy y cũng phải lạnh đi. Nàng nhấn từng chữ cái tên của cô gái nọ, đưa mắt nhìn lại hướng nàng ta vừa rời đi rồi ngước mắt nhìn y. “Có phải cô ta đã từng đến Rạch Năn? Trước khi sứ giả Nam Hà tới?”

“Ha.” Nàng bật cười khi y nhẹ gật đầu. Nàng chỉ cười, lắc đầu mà đi qua y. Vừa được mấy bước, y giữ tay nàng lại.

“Có chuyện gì?” Y lặp lại câu hỏi. Một dự cảm đen tối như cơn bão chợt cuộn trong lòng y. Như Yên xác định nó bằng ánh mắt nửa thương hại nửa chế nhạo ngập tràn tăm tối, hoàn toàn không ăn nhập với nụ cười mà nàng đang mang.

“Ngươi còn không hiểu?” Không dứt tay khỏi cái nắm của y, Như Yên hạ giọng, nghe lời nói của nàng như lẫn giữa tiếng lá rừng rì rào. “Lúc ấy, tại sao quân của Mai Vạn Long quyết diệt bọn ngươi cho bằng được, dù các ngươi đã tình nguyện đầu hàng?

“Bởi vì các ngươi một dạ hai lòng, chân đạp hai thuyền, đằng nào cũng muốn. Chiêm Dao Luật đến doanh trại, các người đã nói gì với cô ta? ‘Quyết không phụ Đại vương Chân Lạp’, có phải? Rồi lời nói đó, do ai truyền ra ngoài?” Nàng khúc khích cười trong cổ, tiếng cười hóa thành khàn khàn khi y nghe từng lời của nàng như tiếng roi quất. “Đại vương Chân Lạp thật cao tay.”

Hơn mười lăm năm trước, hai toán quân Long Môn đến trú đóng tại Trấn Biên và Mỹ Tho – ngoài ý muốn của Đại vương Chân Lạp.

Năm năm trước, Phấn Dũng tướng quân Hoàng Tiến chiếm giữ Mỹ Tho, Đại vương Chân Lạp phải chăng xích sắt cố thủ các cửa sông.

Dao Luật đến Rạch Năn gần như cùng lúc với sự xuất hiện của quân đội Nam Hà. Nàng ta chỉ nhận được một lời hứa mơ hồ của Hoàng Tiến – khi vị tướng quân này chẳng hề có ý chống lại đội quân từ Trấn Biên.

Nhưng đội quân phương Bắc lại ‘biết rõ’ kết quả cuộc đàm phán ấy. Để không thể tha thứ.

Chiêm Dao Luật, nàng ta biết rõ tất cả - Ngay từ lúc khởi đầu. Có thể, ngay cả vị ‘Mạc tướng quân’ đã được giữ lại trong hoàng cung Vũng Long cũng nằm trong dự liệu của nàng ta – bọn họ.

“Thật là…” Như Yên có vẻ định nói thêm rồi lại thôi. Dứt tay khỏi bàn tay y, nàng nhẹ lắc đầu trước khi quay bước. “Chúng ta thật là khờ khạo.”

Những ngón tay y như đã đông cứng giữa khoảng không. Trong khoảng không, những cụm bông cỏ trắng vẫn còn luẩn quẩn bay.

Y vẫn muốn hỏi Như Yên về những gì nàng đã không nói ra, nhưng lại e rằng không cần thiết. Nàng có thể nói thật và không thật, nàng có thể đơm đặt và dối trá, có thể dối trá ngay cả bằng sự im lặng.

Chỉ có sự chua xót trong tiếng cười của nàng là thành thực. Y nghe tiếng vọng của nó trong từng bước chân nàng rời đi. Nàng không muốn ở lại. Đối mặt với sự thật nhiều khi là điều vô cùng đáng sợ.

Như khi ngẩng lên thấy bầu trời. Khoảng huyền không chẳng đổi thay, vĩnh viễn.




Hồi 22: Giấc mộng
Friday, May 11, 2012 Author: Trường An

Nàng vẫn cảm thấy, đáng chán nhất là những ngày mưa.

Khí trời ẩm ướt, những cơn gió lạnh lẽo và bùn nước nhơm nhớp dưới chân khiến người không muốn bước khỏi nhà. Bốn phương chỉ nghe tiếng mưa, trong cánh rừng dày, thanh âm của mưa được phụ trợ của ngàn cây lá càng trở nên sầm sập dữ dằn. Dường như những bức tường gỗ cũng rung lên với những lần sấm nổ rền vang sát trên mái. Ngay cả đàn voi cũng im tiếng. Và người làng, sau khi đã đốt nương làm rẫy, gieo trồng xong cho mùa mới, liền tận hưởng những ngày nông nhàn chờ lúa mọc êm ấm trong nhà. Những người mới tới cũng ở lại trong các lán trại của họ, khoanh chân bên các bếp lửa bàn chuyện tương lai âu sầu và nghiêm trọng. Hiện tại chỉ có một con gà rừng tránh mưa dưới sàn nhà của nàng thỉnh thoảng lại cào chân bồn chồn trên thang gỗ. Cái đàn tre đã bị đem đi, mà nàng cũng đã chán chơi với nó. Căn nhà dài rộng thênh chỉ còn một mình nàng, khi các cô gái cũng đã tụ họp với nhau đi chơi.

Hiện tại, nàng dựa lưng vào cửa mà biếng nhác ngẩng nhìn trời, thỉnh thoảng đưa mắt liếc về phía dãy chòi ở cánh đồng sau làng, như thể chờ đợi một điều gì đó xảy ra. Nhưng ngày vẫn đang trôi qua yên ổn, khiến sự chán chường của nàng tăng thêm mấy lần.

Điếu thuốc trên tay nàng cháy gần hết, nàng liền ném nó vào cái khay đồng bên cạnh. Nhắm mắt, nàng hít sâu vào hơi khói vẫn còn đang tỏa, thấy đầu óc nhẹ đi vài phần. Sấm lại nổ rền vang từng đợt kéo dài sau dãy núi. Âm thanh của cơn mưa, và có lẽ cả cơn say của thuốc, đã khiến nàng không nghe được tiếng chân người tới gần.

Đúng hơn, y vốn đi mà không phát ra một thanh âm. Nhắm mắt, nàng không thấy cánh cửa đầu nhà đã bị đẩy ra. Nàng chỉ giật mình mở mắt khi hơi mưa lạnh phả bên cạnh, xâm chiếm mất hơi ấm của khói thuốc và bếp lửa giữa nhà. Y đang nửa quỳ nửa ngồi cạnh nàng, cúi xuống chiếc khay đồng mà cầm lên tàn thuốc cháy dở. Tóc y vẫn còn ướt, hơi lạnh phả ra từ trong tay áo. Lạnh như ánh mắt y khi nhìn sang nàng.

“Thạch xương bồ?” Y hỏi qua đôi môi khẽ mím. Nàng âm thầm ngạc nhiên. Loại thuốc lá pakaw pala[1] này rất phổ biến trong vùng, y thính mũi đến mức nhận ra cả mùi của thạch xương bồ nàng đã nhét vào?

“Thế thì sao?” Nhưng nàng chỉ mỉm cười trước ánh mắt y. Thu chân vào trong sàn, nàng nghiêng người về phía y mà cười. “Ngươi nhốt ta ở đây, ta chỉ loanh quanh đi được đến bờ suối. Không có nắm cỏ này thì ta cũng chán mà chết.”

Môi y càng mím chặt. Nhưng nàng cũng không để tâm. Nàng đứng lên, đi qua y để ném thêm ít hương vào lò lửa. Vậy ra cũng đến lúc y trở về, nàng nhún vai thầm nghĩ. Nhóm người Chiêm Thành này đã ở đây mấy ngày mới thấy mặt y, hẳn y lãnh nhiệm vụ bọc hậu bảo vệ cho họ.

Nghe nói rất nhiều người đã rời khỏi Panduranga, nhưng họ cũng không tới nơi này toàn bộ. Trong dãy chòi chỉ có khoảng chưa đến ngàn người. Có vẻ họ đã phân tán ra thành nhiều nhóm, phòng trường hợp bị truy đuổi. Hẳn nhiên, y sẽ hộ tống nhóm người quan trọng nhất. Nhưng mấy ngày này, nàng thậm chí không được rời khỏi căn nhà, chỉ có thể quan sát từ xa xa. Nhóm người Chiêm kia có vẻ cũng không biết sự có mặt của nàng ở đây.

Nàng rút xâu thịt khô gác bên mái, đem nướng trên lò. Không có ý định mời y ăn cùng, nàng chỉ làm khẩu phần cho một người. Gác xâu thịt lên bếp, nàng quay đầu nhìn y vẫn ngồi bên cái khay ngún khói, lại cười.

“Có việc gì gấp cần tìm ta à?” Nàng hất cằm về phía y phục vẫn còn nguyên mùi mưa của y, lại đến góc nhà cầm ra ché rượu nhỏ đưa trước mặt y. “Uống cho nhuận giọng.”

Ché rượu được bỏ trong làn tre dài, nàng cầm nó bằng mấy ngón tay, khiến cái ché đung đưa. Y im lặng đưa tay nhận, lại nghe nàng khẽ cười.

“Không biết ta bỏ thứ gì trong đấy đâu.” Buông mấy ngón tay, nàng để ché rượu rơi vào lòng bàn tay y. Y vẫn còn kịp nhận thấy cổ tay trắng như sứ sau tay áo hẹp cùng làn hương phất qua mặt. Một tháng ở nơi này, nàng hẳn đã tìm được nhiều việc để làm, trong đó có cả cách làm ra loại trang phục chẳng giống ai hiện tại. Nàng đang mặc áo đen cổ thuyền tay hẹp với những đường hoa văn sặc sỡ của người Thượng choàng ngoài áo lót trong cổ cao bằng lụa trắng, váy rộng màu huyết dụ, thắt dây lưng dài buông xuống chân. Khi nàng chuyển động, y nghe tiếng bạc lanh canh trên những chiếc vòng tay và bộ xà tích bên hông nàng. Tóc nàng cũng cài một bông hoa bằng bạc. Y không khỏi thắc mắc những vật dụng tinh xảo này đến từ đâu.

Gỡ xâu thịt đã chín trên bếp, nàng ngồi xuống bên kia phòng, nhìn về phía y như chờ đợi y lên tiếng. Thấy ánh mắt y hướng về bộ vòng trên tay, nàng liền giơ tay lắc nhẹ, cười khẽ.

“Người ở đây cũng thật là sung túc, chỉ cần đổi một cái ngà voi là đủ mua mấy bộ thế này. Nên họ thật là hào phóng, ta cần gì cũng đem cho.” Cắn ngang miếng thịt, nàng ra vẻ không nhận thấy cái nhìn của y đang tối lại.

Trước kia, y biết rõ nàng thường dùng cách nào để lấy được thứ mình muốn. Nhưng đó là chuyện trước kia, khi nàng vẫn còn đủ trẻ con để có thể giả làm một đứa trẻ, khi nàng vẫn còn bị quản thúc và biết giới hạn. Bây giờ, y nghi ngờ điều đó. Trong mùi khói cay cay nồng nồng vẫn còn đang tỏa lên từ cái khay đồng. Sau khi y đã thấy những gì nàng làm ở trang trại Linh lão đầu.

“Muốn nói gì thì nói nhanh, đừng có trừng mắt nhìn ta mãi thế!” Rốt cuộc, đến lượt nàng đâm bực. Ném cái que đã ăn hết thịt vào lửa, nàng trừng mắt nhìn lại y. Ở đây nàng là người bị giam giữ mới phải, ở đây nàng mới là kẻ đáng ra phải nôn nóng hỏi về tình hình bên ngoài. Nếu không có gì để nói, y có thể đến nhìn qua nàng rồi biến đi, chứ chẳng việc gì để y đến ngồi như phỗng đá, nhìn nàng như kẻ mắc nợ ba đời.

Thái độ của y luôn luôn khiến nàng nổi nóng.

“Nàng…” Trước cách trở mặt nhanh hơn trở bàn tay này, y luôn có cảm giác đối phó không kịp. “… Ở đây thế nào?”

“Như heo trong chuồng, cám ơn.” Nàng nhướn mày đáp, câu hỏi mà nàng cho rằng hoàn toàn vô nghĩa lý. Nghĩ lại, nàng bỗng cười. “Ngươi định đưa ta đi đâu à?”

“Các người bỏ đi khỏi Panduranga thế này, quân Nam Hà sẽ phản ứng sớm thôi.” Khoanh chân dưới lớp váy rộng, nàng nghiêng đầu nhìn y. “Ầm ĩ thế này, ta ở đây đâu tiện?”

“Không có ai lọt vào đây.” Y chỉ nói như thế, không định giải thích cho nàng. Nhìn xuống cái khay đồng lần nữa, y quyết định hỏi. “Ai đưa cho nàng những thứ này?”

“Cỏ mọc ngay dưới sàn nhà.” Mềm mại, nàng mỉm cười. Nàng cười thành tiếng. Phụ nữ Đại Thanh bây giờ đang có lệ hút nha phiến, thứ này đã là gì? Nàng định nói thế, nhưng bất chợt đổi giọng. “Ngươi lo làm gì?”

Nàng thấy đôi môi y mím thành một đường mảnh, bất chợt lại có cảm giác như muốn cười. Ngả lưng tựa vào bức phên tường đan bằng tre nứa, nàng nheo mắt nhìn y, cái nhìn thẳng trực diện, không hề tránh né. Cái nhìn rốt cuộc đã khiến y cảm thấy khó chịu.

“Nàng muốn dằn vặt ta?” Rốt cuộc, câu hỏi bật ra. Điều mà y đã nghĩ suốt từ khi gặp lại nàng, cái lý do đã khiến nàng thuận lòng đi theo y. Điều mà y đã mơ hồ nghĩ tới, nhưng không hề muốn nói ra.

Quả nhiên, bên kia, nàng đã bật cười. Tiếng cười thanh thanh vọng giữa hai bức tường dài, lẫn khuất trong bóng chiều mờ nhạt.

Trong bóng lửa, đôi môi nàng vẽ thành một vòng cung mềm mại. Hai chiếc hoa tai lớn lay động, chiếu ánh sáng lấp lánh lên má nàng, trượt trên hõm cổ thanh tú. Ánh sáng nhảy múa trong mắt nàng. Màu áo đen nhung càng làm nổi bật nước da, càng khiến ánh mắt người nhìn như hút vào bóng tối vô tận trong mắt nàng.

“À, ta đã từng thấy những người như thế.” Dứt tiếng cười, nàng ho khẽ, đưa tay che miệng. Nụ cười vẫn thấp thoáng sau ngón tay. “Những cô gái và đàn bà mơ mộng, luôn mơ rằng sẽ có người yêu họ cả đời, sẽ nhớ nhung họ cả đời. Nếu người đàn ông ấy làm điều gì có lỗi, anh ta sẽ bị trừng phạt – kể cả khi họ hạnh phúc hay bất hạnh. Nếu họ hạnh phúc, thì đáng đời cái kẻ không biết trân trọng họ kia. Nếu họ bất hạnh, thì cái kẻ kia tha hồ mà dằn vặt đau thương.

“Đó quả là một mơ mộng hay ho. Nhưng mà rốt cuộc, ta chỉ thấy, toàn là thứ tự an ủi huyễn hoặc mình. Số đông người thì không bị nhốt vào chuồng heo để làm việc ai oán nhớ thương ai đó cả đời – Mà ngay cả những kẻ bị nhốt vào chuồng thì cũng chẳng đủ sức để dằn vặt mình cả đời. Rốt cuộc, chính những người mang mộng tưởng ấy mới là kẻ tự dằn vặt mình, chỉ là sớm hay trễ, nhận ra hay không nhận ra. Tự làm hại mình để hy vọng làm khổ được kẻ khác là việc thậm ngu ngốc.” Nàng lắc đầu, mái tóc xõa trên vai chuyển động, chiếu màu bạc óng ánh. “Trước đây ta đã không cầu sự thương hại của ngươi, sau này ta cũng không muốn sự hối hận của ngươi, chẳng lẽ bây giờ ta lại cần ngươi đoái hoài?”

Ngươi muốn hối hận hay dằn vặt thì cũng chẳng phải việc của ta, nàng định nói rồi lại thôi.

Trước đây, nàng đã không giữ y lại. Sau này, nàng đã chẳng níu kéo y trở về. Nàng đã chưa từng hy vọng bất cứ điều gì ở y. Bây giờ lại càng không.

Do đó, nàng có thể ném tất cả những gì thuộc về y khỏi cuộc đời mình, không một lần ngoái đầu.

“Ngươi biết mình có nhược điểm gì không?” Chầm chậm buông bàn tay xuống, nàng nói sau một lúc quan sát y. “Quá đa nghi. Thấy bóng xà tưởng là rắn, tự mình dọa mình. Rốt cuộc, nhìn thứ gì cũng méo mó hết cả.”

“Thẳng thắn thế này mới có giá trị, việc gì phải vòng vèo nói dối, đúng không?” Lần này, nàng lại bật cười. Tiếng cười vẫn trong trẻo. Tiếng cười khiến y nghĩ tới màu bạc của những giọt mưa đang vỡ tung bên ngoài.

Giá trị, nàng nói, thứ giá trị trong việc tổn thương kẻ khác. Nàng biết đích xác cách để tổn thương người.

Dù là yêu hay hận, mọi tình cảm ít ra khiến người cảm thấy mình còn chút giá trị. Dù là hận ý hay dằn vặt, ít ra khiến người cảm thấy quá khứ đã qua còn chút ý nghĩa. Dù là hy vọng hay thất vọng, ít ra khiến người cảm thấy mình còn có chút tồn tại.

Chưa từng, nàng nói, trước đó hay sau này. Thứ nàng theo đuổi chỉ là giấc mộng của chính bản thân. Không ai luyến tiếc một giấc mơ, và do đó, chẳng hề hy vọng. Có lẽ đã từng có nó, sự thật đã từng có, nhưng rồi nàng đã quên – Và rồi thứ gọi là sự thật chẳng có chút ý nghĩa nào lớn hơn một lời nói dối hoang đường.

Là y hay nàng đã tự tay phá vỡ nốt chút gì còn lại của quá khứ ấy, chẳng quan trọng. Đó là hiện thực.

“Nếu như vậy, nàng cần cái này làm gì?” Tuy vậy, y vẫn hỏi, ra dấu về phía cái khay đầy vụn than của thuốc đã đốt hết. Nàng chớp mắt. Trước khi một nụ cười là lạ đến trên môi nàng.

“Thạch xương bồ, liều cao thì tạo ảo giác, liều ít chỉ để tạo cảm giác. À, mà người như ngươi thì có hiểu không nhỉ?” Nụ cười của nàng càng lúc càng lạ lùng. “Mấy năm trước, vào những ngày mưa như thế này, ngươi biết bọn ta làm gì không?

“À phải rồi, ta nhớ, nhớ phát điên lên được, từng ngón tay, hơi thở của kẻ ấy.” Giọng nàng hạ xuống, nghe như phả qua giữa đôi môi. Nàng mỉm cười giữa hai câu nói. “Ngươi muốn nghe lý do cụ thể không?”

Dù không thể tự nhìn thấy khuôn mặt mình, y vẫn cảm nhận được làn gió lạnh hơi mưa đang phả qua gò má rần rật. Lấy làm may mắn vì bóng chiều và màu khói đã che khuất sắc diện y khỏi ánh mắt nàng. Nhưng nàng cũng chẳng nhìn đến y. Nhấc lên cái hộp trong góc nhà, nàng lấy ra cái thắt lưng đang thêu dở - có vẻ đây là trò tiêu khiển hàng ngày của nàng. Thái độ như đã lại quên phắt y vẫn còn hiện diện.

Khi y đã đứng dậy, quay người đặt chân xuống bậc thang, giọng nàng lại vang theo.

“Sau này, nhẹ nhàng nhất cho cả ta và ngươi là mặc kệ việc của người khác đi.” Nàng nói mà mắt không rời khỏi lỗ kim đang xâu chỉ. “Không có việc thì đừng phiền nhiễu ta.”

Đi đến nửa đường, y mới nhớ là mình không mang theo ô, nón đã để lại trước cửa nhà nàng. Không muốn quay lại, y liền lật mũ trên áo khoác đi đường để che đầu. Đến gian nhà của mình, y đã ướt từ đầu đến chân. Thay quần áo, lau sơ sài mái tóc, ném thêm vài cành cây vào lò lửa, y nằm xuống sàn mà chẳng cần trải chăn chiếu. Gió thổi dưới sàn nhà, luồn qua các khe hẹp, hơi lạnh thấm trong thớ gỗ lan theo nước vẫn còn âm ẩm trên da, khiến sống lưng y gai gai nhưng thân thể lại nóng bừng. Những cơn nóng lạnh luân chuyển như từng đợt sóng, hợp cùng sự mệt mỏi khiến ý thức y bỗng chốc trở nên mập mờ.

Y lần tay vào thắt lưng định tìm hộp thuốc Huyền Khê đã đưa - mà sau này y đã theo công thức bào chế lại – mới nhớ rằng đã để nó trong hành lý chưa lấy vào. Thở dài, y hơi cuộn mình lại, trân người chờ cơn lạnh trong thân dịu xuống.

Thứ thuốc quái quỷ của nàng ta, nghiến răng, y lại thầm nghĩ. Ở trên bờ sông đêm ấy, nàng đã phục thuốc y với hy vọng cản y hành động. Nhưng loại thuốc ấy cùng với thuốc của Huyền Khê đã tạo thành một thứ hỗn hợp gần như khiến đầu óc y nổ tung. Từ ngày ấy đến bây giờ, thi thoảng những cơn nóng lạnh bùng lên từ đan điền, lan khắp châu thân, những cơn đau nhói trên đỉnh đầu vẫn trở lại. Không như trước kia, y càng ngày càng cảm thấy khó khống chế nó.

Trước kia, từ khi bắt đầu tập Vô Âm đao, y vẫn có những cơn râm ran tê buốt mà chỉ cái đau của vết thương trên thân thể mới có thể lấn át nổi. Hồng Trần Túy đã góp sức đắc lực đẩy lui dần chúng. Và dần dà, y đã quen với cả những vết thương lẫn cách để khống chế cơn bộc phát: Lãng quên. Y nhận ra nguyên nhân kinh mạch trong thân thể phản ứng đến từ đâu, và Hồng Trần Túy dành để làm gì. Và cách tốt nhất y có thể làm là khống chế ngay chính tâm tưởng mình.

Rồi từ đó, y trượt đi giữa những cơn quên lãng, những ý thức mập mờ và tình cảm không bao giờ chạm đến được đáy lòng. Y trượt đi trong những cơn mơ lẫn lộn với hiện thực, những ý nghĩ lẫn lộn với cơn mơ.

Như ngày và như đêm, như nắng mưa luân phiên đổi chỗ trên bầu trời, thứ ánh sáng loang loáng trên mặt nước. Chỉ có những cơn đau là hiện thực. Rồi ngay cả chúng, những cơn đau, cũng chỉ là một thói quen của cảm giác, một thứ lặp lại đều đặn như thiếp ngủ và thức tỉnh.

Rồi tất cả, những cơn đau cùng những giấc mơ, thứ cảm giác của thân thể lẫn với tâm thức, ý nghĩ và mộng tưởng, đều đã trở thành không còn quan trọng.

Chỉ là, những cơn đau đang trở nên ngày càng nhiều, càng khó kiểm soát, kể từ cái đêm ấy. Đêm ấy, khi lưỡi đao chém sượt qua hắn, ánh sáng hắt trên nó phản chiếu trong mắt y thành một vầng quang hoa sáng rực như ngàn mặt trăng, ngàn con nước. Ý thức y đã bị che nhòa bởi sự giận dữ đến lạnh toát từng mạch máu, mà sau này, y nhận ra đó là một cơn đau khó tả được thành lời. Một cơn đau dữ dội hơn cả cái chết. Thứ ánh sáng tràn ngập trong mắt y lúc ấy như thể những mảnh vỡ sập xuống từ bầu trời. Toàn thân y lạnh toát trong nỗi đau đớn bùng nổ trong từng thớ thịt, giết chết tất cả những gì còn sống.

Y đã ra tay, trong nỗi giận dữ lẫn đau đớn mù quáng bùng phát không rõ nguyên do.

Và rồi, như dư âm của ký ức hay những cơn đau vẫn còn tồn tại trong thân thể, ý thức y đã không còn có thể kiểm soát bản thân như trước kia. Khiến cả một kẻ đã hoàn toàn lẫn lộn giữa tâm thức và cảm giác như y cũng đôi lúc bị những giấc mơ nhấn chìm.

Lúc này, trong bóng tối sau đôi mắt nhắm nghiền, y nghe âm vang tiếng mưa. Mưa trong rừng núi phương Nam rào rạt cuồn cuộn ầm ào như bão lũ từ bốn phương dội về. Lò lửa giữa gian nhà dài rần rật cháy, cành khô tí tách gãy nổ trong lửa. Mùi khói hăng hăng nồng. Trong tâm thức đang chìm dần vào cơn mê man sâu hút, y lại tưởng như loáng thoáng có mùi cỏ hăng. Mùi cỏ quen thuộc của miền đất phương Nam. Thạch xương bồ mọc đầu dòng nước, trôi chảy theo dòng nước, đem hương thơm đăng đắng tràn mộng mị phả thành sương trắng ngàn non.

Bóng người thướt tha đi qua bờ cỏ mấp mé sông. Hải đồng[2] nở thành từng chùm lửa đỏ đốt cháy bầu trời. Nắng lộng giữa bầu trời và mặt đất. Đó không phải là Như Yên, y cảm thấy hơn là nhìn rõ được diện mạo của nàng ta. Trong cái nắng đầu mùa hạ và trên dòng nước, thân ảnh nhuộm sắc đỏ tan thành ngàn đóa hoa, rơi thành ngàn đóa hoa, biến mất giữa khói mù.

Mùi cỏ cháy ngày càng rõ, y mở mắt, nhận ra cả gian nhà đã mù trong khói trắng. Cạnh lò lửa, cô gái váy đỏ màu huyết dụ ngồi chống tay nhìn xuống y. Cái nhìn trong mắt nàng vẫn nửa lạnh lùng nửa cợt nhạo như hồi chiều tối.

“Ngươi để quên cái này.” Nàng lắc cổ tay cho y thấy thứ nằm trong tay nàng. Hộp thuốc mà y nghĩ đã để trong gói hành lý bên ngoài. Không đưa nó cho y, nàng chỉ nheo mắt mỉm cười. “Ngươi làm ta nhớ tới một chuyện.”

“Hồi bé, lúc không có gì ăn, ta thường đi ăn cắp.” Nàng thẩn thơ nói, cái cười kỳ lạ vẫn thấp thoáng bên môi. “Cho nên ta hay để ý đến mấy con chó giữ nhà. Những nhà quyền quý thường có loại chó giữ nhà cực kỳ hung dữ, chúng không lớn hơn chó thường đâu, nhưng cực kỳ hung dữ, gần như điên cuồng. Nếu kẻ nào chẳng may lọt vào tầm răng của chúng, dễ dàng bị chúng xâu xé đến chết. Đúng ra chúng cũng chỉ là loại chó bình thường thôi, ngoại trừ bản tính cuồng dại đó.

“Không, chúng không bị dại.” Nàng nhún vai, xoắn lọn tóc mai bên má. “Chúng chỉ bị thiến đi thôi. Và kẻ thực hiện việc này đã không để chúng thành bọn chó lừ đừ mập ú quanh quẩn trong nhà – bằng cách trộn mạt cưa rắc vào vết thương của chúng. Bọn chó này, bị hành hạ triền miên bằng sự đau đớn đến mụ mị, thống khổ đến điên cuồng, liền hóa thành hung dữ hơn cả quái vật.

“Ngươi xem, ngươi cũng sắp biến thành như thế.” Tiếng cười trong lanh lảnh lại nghe như băng thấu tâm can, nàng nghiêng người nhìn xuống y. Nụ cười trên đôi môi đỏ như câu hồn đoạt phách lại tựa hồ quỷ dị. “Đao pháp trấn Giang Nam, võ công giết người đệ nhất. Chính là tạo ra quái vật.”

Khi nàng nghiêng xuống, y có thể nhìn rõ bóng mình phản chiếu trong mắt nàng. Ở khoảng cách này, y thậm chí có thể ngửi thấy mùi hương trên tóc và làn da nàng. Nàng chạm tay lên ngực y, vị trí của trái tim đang đập.

“Ngay từ ngày đầu tiên, ta đã muốn moi tim ngươi ra để xem trong đó có gì.” Ở khoảng cách này, y nghe tiếng thì thầm của nàng – nàng nói không lớn hơn tiếng thì thầm – tựa như tiếng gió thổi giữa cánh đồng trống, âm âm thành từng hồi trong ngực. Tiếng nói của nàng lan qua ngón tay truyền đến tim y. “Một xác chết thì trông như thế nào?”

“Nàng…” Dùng hết sức bình sinh, y nâng cánh tay đã tê cứng chụp lấy tay nàng. Không định tránh, nàng nhìn lại y bằng sự bình thản hệt như nhìn vào bóng tối.

Nàng tan vào bóng tối.

Y chớp mắt, nhận ra đêm đã buông dày, lò lửa gần tắt, chỉ còn vài hòn than ngún khói lập lòe cháy. Mưa đã tạnh, chỉ còn nước nhỏ lách tách. Cánh tay y tê tê, nhưng cơn đau đớn đã lui dần. Y cử động những khớp ngón tay, thấy mạch máu đầu ngón giần giật, lan đến khuỷu.

Nằm yên trong bóng tối, y nghe từng nhịp tim đập chậm dần lại. Một lúc sau, y trở dậy, bước ra ngoài.

Bước chân dẫn y đến căn nhà mà y vừa rời khỏi lúc chiều. Cửa nhà vẫn mở, từ xa, y đã thấy bóng người sau ô cửa.

Có vẻ nàng đã chuyển sang may một quả còn màu xanh có đuôi dài. Lúc này, nàng đang tung quả còn vừa may xong lên, đem nó thành cầu để đá. Trên quả còn có treo một cái lục lạc, nghe ‘đinh đinh’ liên hồi.

Y đứng lại trong bóng tối, nhìn nàng xoay tròn trong ô cửa đỏ ánh lửa. Váy đỏ huyết dụ và những đường viền sặc sỡ xoay tròn như một đóa hoa. Nàng bao giờ cũng ưa thích sự rực rỡ. Rực rỡ đến lóa mắt.

Còn ngươi, ngươi sẽ hóa thành quái vật. Trong giấc mơ, y nghe tiếng nàng cười. Một xác chết thì trông như thế nào?

Một kẻ chết rồi thì sống như thế nào?

 

 

Chú thích:

[1] Pakaw pala là một loại thuốc lá dùng để hút của người Chăm. Pakaw pala được hái phơi khô, xắt bằng dụng cụ riêng và được quấn hình sâu kèn trong vỏ bắp địa phương rất mỏng.

[2] Hải đồng: Cây vông.

 




Hồi 21: Chao wang na
Monday, May 7, 2012 Author: Trường An

Mùa hạ đến, đem mưa sầm sập trút xuống những vùng đất phương Nam.

Mưa mù mịt trắng trời đất, khiến nước trên ba dòng sông dâng cao, lấn vào trong bờ, làm sạt lở một số đoạn kè. Cảng Ayutthaya, thành thị nằm ở giao điểm của ba dòng sông, đông đúc đến mức hơi hỗn loạn. Dù đã dùng cờ của Okya Sombatthiban, thuyền hắn cũng phải mất hơn nửa ngày mới cập được vào cảng. Lúc ấy, mưa cũng vừa ngớt dần, chỉ còn để lại một làn nước mỏng rỉ rả buông xuống từ bầu trời. Thành phố với những ngọn prang nhọn hoắt vẫn ồn ào trong buổi chiều mưa. Mưa khiến những con đường vắng người hơn, nhưng các quán trà quán rượu lại đông đúc nhộn nhịp, ánh lửa hắt vào bóng chiều lấp loáng trên mặt nước, tiếng ca tiếng nhạc văng vẳng ngân nga.

Con đường dẫn đến cung điện cách xa cảng thị một đoạn, đi qua khu nhà của các quan viên có phần tĩnh mịch hơn. Cung điện mà Sorasak ở được xây ngay trước chính điện, nhưng hiện thời thì cậu hoàng tử không có mặt trong cung. Người đợi hắn ở bến cảng đã cho xe ngựa chạy tới ngôi nhà nằm cuối dãy nhà lớn, nhìn ra một cánh đồng rộng. Vừa đi qua cổng, hắn đã nghe tiếng nhạc ồn ã chẳng kém khu cảng thị qua những khung cửa dày lóa ánh lửa sáng rực.

Vì thứ ánh sáng hắt ra từ trong nhà, hắn mất một lúc mới nhìn thấy người đang đứng bên cửa lớn vẫn đóng, có vẻ như cũng vừa tới, đang chờ người mở cửa. Một người phụ nữ đứng quay lưng về phía hắn, chỉ nhận ra dáng người dong dỏng cao, mái tóc đen dày để hai lọn buông dài bên mặt, tóc sau vấn lên đỉnh đầu. Cô ta quàng một chiếc khăn đen qua vai, váy đen buông xuống gót chân. Một tay cầm ô, chiếc làn lớn quàng qua tay kia, cô gái vất vả nâng nó lên để gõ tay vào cửa lần nữa khi hắn đang đến gần. Có lẽ mưa lớn và sự ồn ào ở trong nhà đã khiến cô gái không nghe thấy tiếng xe vào, và giật mình khi thấy tay hắn gõ vào cửa thay cô.

“Cô đợi lâu chưa?” Hắn vừa hỏi vừa thuận tay cầm lấy cái làn nặng trịch trên tay cô gái, trước khi ngẩng đầu lên nhìn cô ta. Cô gái hơi giật tay lại, gần như ôm chiếc làn vào lòng, cau mày nhìn hắn. Đến lúc ấy, hắn mới nhận ra màu trắng bất thường của bàn tay – và khuôn mặt – cô ta. Cô ta trắng như thạch cao.

Từ khi đến đây, hắn mới thấy một người có làn da trắng tương tự là Kromluang Yothathep. Nhưng làn da Yothathep vẫn còn thoáng sắc hồng, còn cô gái này ngay cả hai gò má cũng trắng như phấn. Đôi mắt to và sâu, đen ngợp như đêm, đôi mi dày, sống mũi cao và khuôn mặt xương xương với mái tóc xoăn nhẹ, tất cả đường nét càng làm màu da của cô ta nổi bật hơn. Tất cả, đường nét và màu da, chỉ ra thân phận của cô gái: Một người lai Tây dương.

Cô gái cũng không ăn mặc hoàn toàn theo kiểu của phụ nữ nơi này. Váy không phồng lớn theo lối người Tây dương nhưng rộng hơn nhiều so với váy phụ nữ bản xứ, áo trên chỉ là một dải vải buộc ngang ngực, vai được trùm kín bằng tấm khăn rộng, cô ta không đeo lấy một món trang sức ngoài chiếc nhẫn mảnh ở ngón tay áp út. Ôm cái làn vào lòng, cô gái nghi ngờ nhìn hắn như thể sợ hắn giật mất nó.

“Thao Thong Kip Ma[1]?” Người dẫn đường của hắn đã tới phía sau, lên tiếng gọi. Cô gái liền quay mình, cúi người chào anh ta, không tiện chắp tay vì đồ đạc lỉnh kỉnh trên người. Hắn nhìn họ trao đổi mấy câu bằng tiếng Tai, trước khi cửa mở, cô gái cúi chào họ rồi vội vã đi về phía gian nhà sau.

“Vợ của người Hy Lạp.” Thấy hắn nhìn theo, người dẫn đường nhún vai nói. “Sau khi Phaulkon bị giết, cô ta bị đưa vào làm việc trong bếp cung điện. Chao wang na chắc lại gọi cô ta đưa đồ ăn tới. Có vài món ăn lạ mà chỉ mình cô ta mới biết làm.”

“Để cho cô ta nấu ăn?” Thấy làm lạ, hắn hỏi lại. Để vợ kẻ thù vào nấu ăn trong bếp chẳng phải là chuyện rất kỳ quái?

“Thức ăn đều có người nếm trước.” Người kia liền giải thích. Nghĩ một lúc, anh ta lại cười. “Cũng nhờ mấy món ăn mà mẹ con cô ta còn ở đây.”

Lời chưa nói hết, bọn họ đã đi đến cửa gian nhà chính. Người dẫn đường đứng lại bên ngoài, cao giọng báo. Giọng Sorasak nhừa nhựa gọi hắn vào. Bên ngoài vốn đã sáng, nhưng lúc vén rèm vào trong, hắn vẫn bị lóa mắt vì ánh sáng của gần ngàn ngọn đèn trong căn phòng hẹp. Từng dãy đèn đóng trên nhiều lớp kệ liền tường, hắt sáng lại qua những chiếc gương lớn, vàng bạc và đồng san sát, trân châu bảo thạch phát sáng hơn cả đèn lửa gắn trên màn. Gần chục cô gái hầu như lõa thể đứng ngồi trong phòng, Sorasak ở giữa bọn họ trên chiếc sập trải thảm da lớn. Tiếng nhạc phát ra từ sau những tấm màn mỏng cuối phòng, để những cô gái vừa nhảy múa vừa chuốc rượu cho vị chủ nhân. Thức ăn chất đầy ứ trên đĩa vàng đĩa bạc, rượu chảy tràn như suối. Vàng ngọc lanh canh, gấm lụa muôn sắc, mỹ nữ ngát hương, gian nhà này có vẻ đã là chốn truy hoan quen thuộc của vị hoàng tử Ayutthaya.

“Mạc công tử.” Thấy hắn, Sorasak cũng chẳng nhỏm người lên, chỉ mỉm cười vẫy hắn đến gần, cho hắn ngồi sập nhỏ bên kia phòng. Thấy mấy cô gái vẫn ngồi yên, cậu ta liền đẩy họ về phía hắn. “Sang hầu Mạc công tử.”

“Ngài gọi tôi đến đây có việc gì?” Nhẹ ngón tay đẩy cánh tay quàng cổ mình sang bên, hắn nhìn Sorasak mà hỏi. Cả quãng đường dài từ Cheal Meas đến đây, hắn chẳng có lòng dạ nào cho những trò tầm hoan tác lạc của cậu ta.

Sorasak cho gọi hắn gấp rút từ Cheal Meas đến, hẳn cũng chẳng phải là ngồi rỗi buồn chán cần người chơi cùng. Anh không đi ngay, Chao wang na sẽ gọi người đến đốt làng, sứ giả của cậu ta ‘kính cẩn’ nói, nhất định không cho hắn một cơ hội thoái thác.

“Xem ngươi kìa,” Nhưng Sorasak chẳng có vẻ vội trả lời hắn. Hơi trở mình, cậu ta mở miệng đón quả nho do cô gái đưa lại, ngậm cả đầu ngón tay cô ta. Đôi mắt mèo lại thấp thoáng vẻ chế giễu. “Người không biết lại nghĩ ngươi hóa thành Phật thật rồi. Ngươi tu hành ở dưới mấy gốc dừa cũng thành chính quả đấy nhỉ? Hay bị quả dừa nào rơi vào đầu?”

“Đêm nay ai cởi được áo Mạc công tử, ta thưởng cho ngàn đồng vàng.” Cười lớn, Sorasak cao giọng nói. Hắn thở dài, tự cởi áo khoác ném sang bên, dựa lưng vào tấm thảm da mà đối mặt với cậu ta.

“Có việc gì thì nói nhanh cho tôi đi ngủ. Bằng không đợi mai ngài tỉnh táo thì tôi đến.” Trò đùa dai của Sorasak, hắn ứng phó mãi thành quen. Và cũng hiểu rõ rằng thứ gì cậu ta đã muốn thì nhất định phải làm, hắn liệu nhanh chân mà thoát khỏi trước khi cậu ta ra lệnh cả thành đến lột sạch hắn.

“Này, ngươi có… bình thường thật không?” Ra vẻ không thèm nghe câu nói của hắn, Sorasak chớp mắt. Cậu ta gần như thực tình tò mò. “Ngươi không phải đang tu thành Phật thật đấy hả?”

Thao Thong Kip Ma vào đúng lúc hắn đã nghĩ đến chuyện đứng lên bỏ về. Cúi thấp đầu, nâng đĩa thức ăn ngang trán, thiếu phụ lai Tây dương qùy từ cửa lết vào, đặt đĩa lên mâm rồi vừa quỳ vừa lui ngược trở ra. Được mấy bước, Sorasak liền giật giọng gọi lại.

“Maria.” Cậu ta gọi cái tên Tây dương của thiếu phụ, vẫy bàn tay cầm ly rượu. “Lại rót rượu cho ta.”

“Tôi là nô lệ trong bếp, không phải người hầu rượu.” Vẫn cúi đầu gần sát đất, thiếu phụ nói mà không đưa mắt nhìn lên. Sorasak mím môi. Trong thoáng chốc, hắn đã nghĩ rằng cậu ta nổi giận. Nhưng cậu hoàng tử lại mỉm cười.

“Vậy thì cứ ngồi đó.” Rất nhẹ nhàng, cậu ta ra lệnh. Thiếu phụ chậm chạp thẳng người ngồi lên, gương mặt như đá. Sorasak phất tay. Tiếng nhạc từ sau phòng lớn thêm gấp đôi, gần như hỗn loạn. Lầm lỳ, cậu ta lôi một cô gái bên cạnh vào lòng, xé nát trang phục ít ỏi của cô.

Tiếng cười vang trong phòng khi cậu hoàng tử ngấu nghiến cô gái ngay trước mắt mọi kẻ. Hắn đưa mắt nhìn thiếu phụ. Vẫn thẳng lưng, cao đầu, cô nhìn cảnh tượng hoan lạc đang diễn ra với gương mặt lạnh như đá. Sorasak cất tiếng gọi, vài nhạc công và hộ vệ từ sau rèm bước ra. Khi tất cả người trong phòng đồng loạt cởi áo, hắn liền đứng dậy bước ra ngoài.

Thiếu phụ Tây dương vẫn ngồi sát cạnh cửa, một ngón tay cũng không động.

Cửa lớn lẫn cổng ngoài đều đã đóng, hắn đành phải ở lại trong gian nhà. Tiếng đàn sáo đã dứt, nghe rõ tiếng mưa trút xuống ầm ào. Hắn ngồi xuống chiếc sập kê cạnh cửa lớn, mệt mỏi dựa lưng vào tường, nhắm mắt. Khi sứ giả của Sorasak đến Cheal Meas, hắn đang phải đối phó với một toán cướp từ miền Bắc xuống thoắt ẩn thoắt hiện mà lẩn lút cướp phá, nhiều đêm không chợp mắt. Vì sự đe dọa của Sorasak, hắn phải nhờ lại công việc cho Lý lão rồi vội vã rời đi. Lúc này, mi mắt vừa nhắm, hắn đã muốn ngay lập tức lăn ra ngủ.

Hắn lơ mơ ngủ thiếp đi chẳng biết bao lâu, giật mình thức dậy vì tiếng lao xao từ phòng kín. Thay vì tiếng cười trước đó, tiếng động phát ra như thể có người đang ú ớ, dù không hiểu ngôn ngữ, hắn nghe rõ ràng sự sợ hãi. Tiếng Sorasak quát lớn, trước khi cánh cửa mở, vài người đưa một thân thể thiếu nữ mềm nhũn ra ngoài. Vẫn gần như trần trụi, trên cổ cô ta hằn rõ năm dấu ngón tay đỏ bầm, nhưng cô gái vẫn còn thoi thóp thở.

Sorasak lại quát, lần này người trong phòng sợ hãi chạy ra. Khi hắn vội đẩy cửa vào, chỉ còn thiếu phụ Tây dương cùng Sorasak trong phòng. Vẫn ngồi nguyên chỗ cũ từ hồi chập tối, thiếu phụ ngẩng nhìn Sorasak đang đứng trước mặt trừng trừng dõi xuống. Vốn đã quen với những cơn giận dữ của Sorasak, hắn vẫn thấy lạnh người trước ánh mắt rừng rực lửa của cậu ta.

“Cút!” Cuối cùng, Sorasak phun ra một chữ duy nhất qua hàm răng nghiến chặt. Người thiếu phụ chậm rãi cúi đầu gần chạm sàn nhà.

“Tạ ơn Chao wang na.” Giọng cô vẫn lành lạnh điềm tĩnh. Giữ nguyên tư thế cúi đầu, cô bò ngược ra cửa.

Bóng cô vừa khuất, ly rượu bằng vàng đã bị Sorasak ném vào cánh cửa đá, tiếng động vang rền suốt dãy nhà.

Sorasak ngồi phịch xuống sàn, ôm lấy cổ. Không còn sức để gọi người, cậu ta vớ lấy cái thau đồng gần đó mà nôn thốc nôn tháo. Đến chừng không còn gì để nôn, cậu ta nằm vật ra sàn. Hắn cầm bình nước lạnh đến dội vào mặt cậu ta.

“Điên rồi à?” Hắn hỏi khi Sorasak mở choàng mắt, chuẩn bị mắng chửi lần nữa. Nhưng chỉ giật lấy bình nước trên tay hắn, cậu thanh niên ngửa cổ uống ừng ực, hết rồi liền ném cái bình đi. Hắn nhìn cậu ta ợ lên trong cổ, thừ người ngồi trên sàn rồi đưa tay ôm đầu. Căn phòng lỏng chỏng đồ đạc đổ vỡ, thức ăn vung vãi, vải bị xé rách tứ tung. Vài cái đèn trên tường cũng đã rơi xuống đất, dầu đổ ra gạch. Mùi dầu cùng mùi rượu nồng nặc khó thở.

Sorasak thu chân sát ngực, gục đầu xuống gối mà nặng nề thở như hớp từng ngụm không khí. Hắn xốc tay cậu ta lên, đẩy ra ngoài, gọi người mở cửa. Gió đem hơi nước lạnh thổi vào hiên, khiến Sorasak khẽ run rẩy. Tống cho cậu ta một tấm khăn lớn choàng lên, hắn quay đầu định gọi người nấu món giã rượu, đã thấy Maria đứng phía sau. Im lặng đặt vào tay hắn ly thuốc, cô lại im lặng đi về phía bếp.

“Uống vừa vừa thôi.” Khi Sorasak uống hết ly thuốc giã rượu, hắn phải lên tiếng. Cậu hoàng tử này tính nóng đã khó kiềm chế, rượu vào chỉ càng khiến cậu ta điên điên khùng khùng. Ở đây chẳng ai dám trái ý cậu ta, quyền sinh quyền sát trong tay, cậu ta dễ dàng làm những chuyện không thể lường.

Vẫn cúi đầu, Sorasak phát ra thanh âm như tiếng cười khàn trong cổ. Người trong nhà đã lặng lẽ rút đi, tránh càng xa cậu hoàng tử càng tốt. Đêm đã về khuya, chỉ nghe mưa sầm sập đổ xuống những ngôi nhà, khoảng sân bằng đá. Sấm chớp nổ, soi rõ những mái prang nhọn hoắt như đâm vào bầu trời.

“Người thì đã chết rồi, ngài còn định hành cả mình lẫn người khác đến bao giờ?” Im lặng hồi lâu, hắn chợt lên tiếng. Chẳng khó để nhận biết cơn điên của Sorasak đêm nay đến từ đâu. Hắn hiểu rõ sự oán giận của cậu ta với người Hy Lạp kia, nhưng hành hạ đến cả vợ con của ông ta hẳn là việc làm hơi quá mức. Giữ cô ta lại làm nô lệ để hành hạ cho thỏa chí đến độ chính mình cũng điên điên dại dại thật là việc hại mình hại người.

“Ta hành mình bao giờ?” Chẳng biết nghe lời hắn thành nghĩa thế nào, Sorasak cau mày, hầm hừ trong cổ. “Đàn bà Tây dương…”

Hắn nhướng mày.

Nghĩ lại, Sorasak liền im lặng. Ngồi yên một lúc, cơn buồn ngủ trở lại, hắn ngáp khẽ, nghĩ đến chuyện từ giã cậu thanh niên say mềm này, đợi ngày mai nói chuyện. Hắn vừa dợm xoay người qua, Sorasak bỗng nhiên nói.

“Đàn bà của ngươi như thế nào vậy?” Vẫn quấn tròn trong cái khăn lớn, cằm tựa lên gối, Sorasak nói mà không nhìn hắn. Mất đi ánh sáng thường ngày, mắt cậu ta dõi vào bóng tối cũng tối tăm như đêm đen.

“Rất ngang ngạnh, rất hay chọc giận người khác.” Hắn chỉ mỉm cười. “Nhiều lúc đáng yêu, cũng nhiều lúc đáng giận, mà cũng nhiều lúc không biết nên yêu hay nên ghét.”

“Hà,” Sorasak thở hắt ra, ngẩng nhìn trời. Nhìn như đếm những hạt mưa hồi lâu, cậu ta chậm chạp thở ra lần nữa. “Ngươi vẫn muốn tìm cô ta, hả?”

“Ngươi ở cái bờ biển đó, mỗi ngày gom góp từng đồng làm gì vậy? Ngươi ở đây tuân theo ý ta chẳng lẽ chỉ vì anh trai ngươi, ông ấy mà cần ngươi bảo vệ? Ngươi sống như con sứa, gạt tất cả sang bên vì cái gì vậy?” Sorasak cười khẽ. “Miệng cứ bảo là hết rồi, xong rồi, nhưng bản thân chẳng phải cứ muốn thử đến cùng?

“Mà dù ngươi nghĩ thế thật, thì điều ngươi nghĩ có phải là điều ngươi muốn không?” Sorasak nói chặn khi hắn vừa mở miệng. “Nghĩ nhiều quá chỉ tổ tự hại mình, rồi chẳng làm nên tích sự gì, lần lữa mãi rồi đời trôi đi mất hết. Mà ta nói rồi, ngươi có khổ một mình thì thế giới cũng chẳng vui hơn, dù ngươi có đâm đầu vào chuồng heo mà chết.”

Hắn định nói, rồi lại im lặng. Những lời này đến từ Sorasak thì quả thật là kỳ quặc. Cậu ta đang nói như mộng du, mắt lờ đờ, môi hầu như không động, đầu lắc lư nhè nhẹ. Giải thích hay tranh cãi với người say đều là việc vô ích, hắn nghĩ thầm.

“Ngươi tìm cô ta đi.” Bên kia, Sorasak lại nói, gật gật đầu. “Lần này ta gọi ngươi đến định nhờ ngươi đi làm việc.

“Có một toán người Champa vừa chạy khỏi Panduranga, ta cần người đi đón họ.” Lần này, câu nói của Sorasak thu hút sự chú ý của hắn, cơn buồn ngủ gần như tan biến. “Po Chongchan dẫn đầu toán người đó, ta nghĩ phái ngươi đi thì tốt nhất.”

“Họ đã định đi đến đâu chưa?” Hắn cân nhắc hỏi. Chiến cuộc ở Panduranga, hắn vẫn thường để ý nghe, nhưng chuyện người Chiêm Thành bỏ nước mà đi thì vẫn là chuyện bí mật. Nghe Sorasak nói thì như thể cậu ta chưa lôi kéo được họ.

“Đại vương Kampuchea lên tiếng lôi kéo.” Sorasak gật đầu, xác nhận ý nghĩ của hắn. “Đoàn người lần này, ngoài Po Chongchan còn có bà con xa gần của vương Champa, sau này nếu có việc thì dùng người cũng dễ.”

Sau này, nếu như Nam Hà hạ sát những con tin đang cầm giữ trong tay, thì vương quyền hợp pháp của Chiêm Thành sẽ thuộc về những người đang rút chạy bây giờ. Sau này, nếu như phát động chiến tranh, cũng dễ dàng dùng họ để làm danh nghĩa.

Huống hồ, đất Ayutthaya luôn rộng mở với đủ mọi loại người. Như năm nào, khi đoàn thuyền Dương Ngạn Địch tướng quân đến Đông Phố, nhà vua Narai đã ngay lập tức gửi thư mời bọn họ về sống ở Ayutthaya. Con người là nhân lực và cũng là sức mạnh của Ayutthaya, trên con đường chinh phục bốn phương. Nam Hà tràn xuống phương Nam, khống chế một phần Chân Lạp, Ayutthaya cũng đã nghĩ đến việc vươn tay đến Chiêm Thành.

Sau này, nếu chiến sự xảy ra ở Panduranga. Chiến sự chắc chắn sẽ xảy ra ở Panduranga. Chiêm Thành chỉ còn một mảnh đất duy nhất, một cái tên duy nhất. Và sẽ nhất quyết không dễ dàng để mất.

“Ngươi có nghe được tin gì từ vùng Thượng không?” Sorasak liếc mắt nhìn hắn, cân nhắc một lúc rồi quyết định nói. “Vùng Thượng hiện giờ rất phức tạp. Hỏi Đại vương Kampuchea chắc rõ đấy.”

“Ngài muốn đưa họ về làm gì?” Dù đã mơ hồ đoán ra, hắn vẫn hỏi. Sorasak gục gặc đầu nhìn lên trời.

“Dù sao cũng chẳng có hại cho ngươi. Khống chế cục diện trong tay mình bao giờ cũng có lợi hơn.” Cậu ta lại hiểu câu hỏi của hắn thành một nghĩa khác. “Đưa họ về đây rồi ta sẽ trả công cho.”

“Ngài trả bằng gì?” Hắn cười. Những món ‘thưởng công’ mà Sorasak từng hứa hẹn đều là thứ trên trời. Ví dụ như ‘vịnh Xiêm La’ hay đại loại thế.

“Ta cho ngươi miễn tử bài.” Sorasak nhận ra ý hắn, liền cười nhạt. “Người phương Bắc có món ấy, phải không? Rồi sau này ngươi có phạm tội tày đình gì, ta cũng sẽ tha. Chỉ cần ta có mặt thì ta sẽ bảo vệ ngươi.”

“Ta ở đây thực sự không có cái gì hết, ngươi thấy mà.” Ngả người ra sau, dựa lưng vào tường, Sorasak nhắm mắt, nói như thở. “Ta chỉ có mỗi cái mạng này, vậy thì ta cũng chỉ có thể đem nó bảo đảm với ngươi.”

“Những người Chiêm Thành ấy đi về đâu?” Im lặng hồi lâu, hắn hỏi. Sorasak mỉm cười, phất tay.

“Đi về phía Tây, vượt núi đến Kampuchea, hẳn là mới khởi hành, bây giờ đến đón đầu vẫn còn kịp. Nhiều người như thế, không thể đi nhanh được đâu.” Nghiêng đầu nhìn sang hắn, cậu hoàng tử cười. “Ngươi quyết định đi đón Po Chongchan?”

Hắn gật đầu. Sorasak cười khùng khục trong cổ. Mai ta cho người chuẩn bị, cậu ta vỗ vai hắn, đứng dậy đi vào nhà trong. Đôi vai nghiêng ngả cho thấy cậu ta vẫn chưa tỉnh hẳn, nhưng hẳn rất cao hứng.

Từ sau khi hắn đưa Sorasak ‘thị sát’ vùng đất phía Tây Nam trở về, cậu ta dường như đã mặc định hắn là bè phái của mình để sai gọi. Trong bùn lầy sao tránh khỏi lấm chân, Trương Tuần nói, hắn cũng hiểu ý nghĩa đó bây giờ. Đem toán người Chiêm Thành về Ayutthaya, chưa biết sẽ ảnh hưởng đến chiến trường Panduranga thế nào, với cá nhân Sorasak đã rõ ràng có lợi. Cậu ta đang cần xây dựng bè phái cho mình. Cộng đồng người Champa cũ cùng với đoàn người mới tới sẽ là một lực lượng ủng hộ đáng kể - không chỉ ở trong phạm vi Ayutthaya.

Nhưng cậu ta cũng nói đúng, khống chế được những gì có thể trong tay thì vẫn tốt hơn, hắn nghĩ thầm khi đứng dậy đi vào nhà trong. Ngô Lãng ở Panduranga, trận chiến của Chiêm Thành và Nam Hà vẫn không thể lường được kết quả, kẻ ở bên ngoài càng thu gom được càng nhiều ảnh hưởng thì càng tốt. Những quân bài phát huy tác dụng khi được sử dụng đúng chứ không chỉ nhờ vào sức mạnh của chúng.

Thấy Sorasak đã đi, nhiều người trong nhà mới dám trở ra ngoài, thu xếp phòng nghỉ cho hắn. Vừa định rời khỏi gian nhà trước, hắn chợt thấy bóng áo đen thoáng qua đuôi mắt. Thiếu phụ tên Maria đang đứng trên bậc cửa, bung mở chiếc ô che đầu rồi bước ra ngoài màn đêm mưa dầm.

“Đêm khuya thế này, sao không bảo cô ấy nghỉ lại?” Hắn chỉ tay về phía người thiếu phụ vừa rời đi, quay hỏi người hầu bên cạnh. Anh ta lắc đầu.

“Cô ấy lo cho mấy đứa con, bảo khuya mấy cũng phải về.” Anh ta chép miệng. “Chồng chết như thế, con còn nhỏ như vậy, lúc nào cũng như ngồi trên đống lửa. Chao wang na yêu sách là một lẽ, người trong cung cũng chẳng thích, chỉ sơ suất là mất mạng. Về sớm để còn lo bữa sáng.”

À, hắn thốt trong cổ khi nhìn lại phía bóng áo đen đã khuất hẳn vào màn đêm. Nghĩ tới Sorasak, trong lòng lại chẳng rõ có vị gì.

Ngươi thấy mà, ở đây ta không có cái gì hết. Ngươi thấy mà.

 

 

Chú thích:

[1] Tên đầy đủ là Maria Guyomar de Pinha, sinh năm 1664 tại Ayutthaya, là người lai Nhật Bản – Bồ Đào Nha – Ấn Độ. Mẹ bà là người Nhật Bản di cư sang Thái Lan sau khi Mạc Phủ ra lệnh cấm đạo Thiên Chúa, cha bà là người Bồ Đào Nha lai Ấn. Bà lấy Phaulkon năm 18 tuổi, có 3 người con, sau một người đã chết trong tù. Sau khi Phaulkon bị giết, Maria bị hạ làm nô lệ phục vụ trong nhà bếp hoàng cung Ayutthaya. Sau khi vua Phetracha qua đời, bà trở thành người quản lý nhà bếp hoàng cung. Hai người con của bà cũng giữ chức vụ cao trong triều đình Ayutthaya sau này.

Bà nổi tiếng trong sử sách Thái Lan vì những món ăn có nguồn gốc Bồ Đào Nha do bà sáng tạo đưa vào ẩm thực Thái Lan.

 




Hồi 20: Đêm sâu
Friday, May 4, 2012 Author: Trường An

“Hỡi vua loài thú, linh hồn người ta giao cho thần âm dương
Thịt ngươi ta giao cho chúa tể loài người
Lông ngươi ta giao cho thần lửa
Máu ngươi ta giao cho thần đất
Ngươi hãy phù hộ và độ trì cho dân chúng.”

Tiếng kinh tụng len qua các bức tường gạch dày, lẩn khuất giữa những góc nhà mờ tối, mập mờ trong làn hơi nóng ngốt của mùa hạ và mùi trầm lẫn xạ hương nực nồng, nghe như tiếng gió từ một cơn mưa. Mưa trong xứ sở này đến với gió thổi từ bờ biển, cát rào rào bay ngợp trời trong thanh âm nghe như tiếng của ngàn con ong. Vẫn chưa đến lễ Tẩy uế Yuer Yang, trong vô thức, y thầm nghĩ. Trong giấc ngủ nặng nề hơi nóng, mộng mị lưu chuyển như cát giữa dòng thanh âm rì rầm không ngớt.

Như cát, mộng mị trôi qua những kẽ hở của thời gian, không cách gì nắm lại.

“Xuân vọng tiêu diêu xuất họa đường, Gian mai già liễu bất thắng phương. Khả tri Lưu Nguyễn phùng nhân xử? Hồi thủ đông phong nhất đoạn trường.”[1]

Mùa xuân năm ấy, hoa đào đã nở hồng mái ngói xanh, rồi rơi dày trên lớp cỏ ướt mưa. Gần qua hết mùa xuân, gió lạnh lại thổi về se sắt, đem mưa dệt trắng đất trời. Sương mù thổi vào cả những gian nhà, mái hiên, hơi nước đọng lấm tấm trên các bề mặt, khiến mọi vật chìm trong sắc trắng xám.

Khiến cho sắc đỏ rực đã chạy qua hành lang lúc ấy trở thành một vệt màu vừa chói chang vừa lạc loài. Tiếng cười vang trong thanh âm của mưa và những cơn gió tạt từ núi xa nghe lanh lảnh như tiếng chuông bạc.

“Không!” Cô bé vừa cười vừa nói, chân trần chạy trên sàn gỗ đẫm nước lạnh căm, lắc đầu với các cô hầu cầm giày đuổi theo phía sau. Chạy đến chỗ y đang ngồi đọc sách, cô bé níu lấy tay áo y. “Xem này!”

Vừa nói, nó vừa đưa tay ra vẫy trước mặt y. Những ngón tay nhỏ và mảnh với móng hồng hồng, cả làn da cũng hồng rực như cánh hoa đào ngoài hiên. Bàn tay vừa được tháo băng, lớp da non vừa được thay vẫn chưa đủ dày.

“Mang giày vào.” Nhìn xuống đôi chân trần của con bé, y cau mày. Hôm nay là ngày tháo băng, con bé đã ngay lập tức để làn da mỏng manh phơi ra khí lạnh. Lớp da trên chân nó đã nhăn nheo, nổi rõ vệt gân xanh đỏ.

“Quan trọng gì đâu chứ.” Nhìn xuống đôi bàn chân, nó nhẹ bĩu môi, nhưng vẫn leo lên phản cạnh y, đưa chân cho các cô hầu lau sạch, mang bít tất và xỏ đôi văn hài đế gỗ thêu hoa.

Y nhìn thoáng qua đôi chân nó lần nữa. Những vết thương trước vẫn còn để lại sẹo mờ. Chân con bé cũng không đẹp, dù chỉ là so với các bàn chân bình thường. Ngón chân dài, đầu ngón thô, móng khô và biến dạng ở hai ngón út. Người xứ này, với thói quen đi chân đất, thường ít khi có được đôi bàn chân đẹp.

Khi gấu quần con bé được vén cao để xỏ bít tất vào, y thấy cổ chân nó có đeo một cái vòng bạc kèm quả chuông nhỏ. Cô hầu cẩn thận lồng cái vòng qua bít tất, khiến chuông kêu khe khẽ.

“Sao vậy?” Thấy ánh mắt y hướng về phía cái vòng, con bé hỏi. Y rời mắt khỏi chân nó, lắc đầu.

Không thể nói rằng y đang nhớ đến Tuyết Nhi, nó cũng có thói quen đeo vòng chuông ở chân.

Cô bé áo đỏ không nói không rằng, cúi xuống tháo cái vòng, ném ra sân.

“Ngươi thấy con bé thế nào?”

Chiều hôm ấy, người đàn ông áo xanh, Nhị công tử của Nam Hà, đã gọi y đến hỏi về việc Như Yên muốn đưa y tới Thương Trúc trang. Giữa những câu hỏi về gia thế tính tình thông thường, câu này của ngài ta khiến y phải im lặng mất một lúc.

Ngang ngược, không biết lý lẽ, hay là tính khí thất thường, không nghe ai ngoài bản thân?

“Giỏi trá ngụy.” Cuối cùng, y trả lời.

Nụ cười của người đàn ông bất chợt mở rộng.

“Đừng để bị nó lừa.” Ngài ta cười.

Y vốn cho rằng mình hiểu câu nói ấy. Nhưng sau này, mỗi khi nghĩ tới, y lại cảm thấy dường như không đúng. Sau này, sau khi rời khỏi chiến trường hỗn độn Phú Xuân để về lại với phương Nam cát cháy, sau cái chết của vị chúa đối địch, y lại thường có những khoảnh khắc ngờ vực thoáng qua tâm trí về những gì đã xảy ra. Cái kết quả đã xảy đến, phần nhiều là do chính ngài ta gây ra – tạo ra, bằng những hành động và tính toán của mình. Điều này, y không thể hỏi hắn, và tin rằng hắn cũng chẳng thể rõ hơn. Nói cho cùng, y mới đích xác là người đã ở cạnh bọn họ một thời gian rất dài.

Nói cho cùng, đã từ rất lâu rồi, hai người bọn y cũng không nói được với nhau một câu chuyện đàng hoàng. Buổi tối hôm ấy, trên bãi cỏ ngoài phố chợ Mỹ Tho, hắn đã chạy đi tìm y ngay khi vừa đặt chân lên bến. Nhưng chỉ có một mình hắn nói, y im lặng. Và cuối cùng, cú đấm khởi đầu cho cuộc ẩu đả xuất phát từ y.

Đã có một cơn giận dữ âm thầm lớn dần trong lồng ngực y, từ những ngày ấy. Hay thậm chí, còn xa hơn trước đó. Là do y đã không nhận ra hay tự mình phủ nhận, y không phải là kẻ thích tự vấn bản thân, và do đó, cũng không thể rõ.

Lúc này, trong cơn nóng ngốt khó chịu của khí trời hun vùng đất cát cằn khô, y lại thấy cảnh tượng trong đêm ấy. Nàng đã để cánh cửa khép hờ chứ không cài khóa, và gió đã đẩy nó ra. Hai kẻ trong phòng cũng không nhận biết, khi đang ở trong vòng tay nhau. Áo nàng đã bị kéo xuống, để lộ khoảng lưng trắng như ngọc thạch trong ánh đèn mờ tỏ. Và y đã đứng yên. Như thể chờ đợi. Điều gì, y cũng không rõ. Y nhìn bóng của ngọn đèn hắt trên lưng nàng, in dấu những ngón tay xa lạ. Y nhìn ánh sáng phụt tắt để bóng tối tràn vào, và tiếng khóc nhỏ vang tựa thanh âm của một nụ cười.

Có lẽ, hình ảnh cuối cùng mà y thấy trước khi đèn tắt là bàn chân nàng khi nàng ghé người ngả xuống phản. Bàn chân nàng vẫn không thay đổi, vẫn có những vết sẹo mờ không cách nào xóa đi, những ngón chân dài với khớp xương thô, gót dày. Nhưng mắt cá chân lại duyên dáng, có lẽ đó là lý do nàng từng chọn đeo vòng.

Hay đó chỉ là hình ảnh trong tiềm thức y hơn là sự thật. Một hình ảnh ngẫu nhiên được lặp đi lặp lại cũng trở thành dấu tích. Một ý nghĩ được lặp đi lặp lại đến một ngày cũng trở thành sự thật.

Như cát vun dày. Như tiếng rì rầm không dứt của thanh âm. Như dòng trôi của cơn mộng lặng lờ chìm vào bóng tối. Khi tỉnh thức, y mất một lúc lâu mới nhận ra nơi mình đang hiện hữu giữa bóng đêm dày đặc trong các bức tường.

Các thầy tu passeh vẫn đang lầm rầm tụng niệm. Y nghe hơi đất nồng như thể trời vừa đổ mưa. Cơn mưa rơi xuống đất này cũng bốc hơi rất nhanh, chẳng đủ để xua đi khí nóng. Ngồi trong bóng tối, y đưa tay day trán, chợt nhận ra tay mình cũng đã ướt đẫm mồ hôi.

Đã lâu rồi, những giấc mơ như thế này không còn trở lại. Từ sau sự biến ở Rạch Năn, thi thoảng y vẫn thấy ác mộng, nhưng ít khi mơ về nàng. Đôi lần nàng xuất hiện giữa ác mộng của y, nhưng chìm lấp sau rất nhiều gương mặt và cảnh sắc. Ý nghĩ về nàng thường chân thực hơn là một giấc mộng. Những ý nghĩ về nàng cũng bình thản và trầm lặng hơn là cảm xúc trong những giấc mộng. Hơn là trong hiện thực.

Nhưng hiện thực ở nơi đâu?

Khi rời khỏi phòng, y nhận ra tiếng cầu kinh đến từ đâu. Ánh lửa hắt lại từ phía ngôi đền tháp trên đồi cao phía xa sáng rực, tưởng như có một quả cầu lửa khổng lồ. Một đám đông lớn đã tập trung về dưới tháp, tạo nên ánh sáng nọ từ muôn vạn ngọn đuốc. Nhưng đám đông im lặng kỳ lạ, để tiếng cầu kinh vang rành rõ trong đêm, tưởng như cả một chiếc lá cũng không xao động.

Những người lính canh trong thành cũng im phăng phắc trong dáng điệu bất động hướng về phía đền khi y đi qua bọn họ lên thành. Khu nhà y ở nằm cạnh cửa thành, chỉ cách đầu thang vài bước chân. Đặt chân lên tường thành, y mới để ý đến người đứng ở đầu cổng bên kia. Cô gái áo vàng khoanh tay đứng nhìn về phía đám đông, gần giống tư thế bất động của những người lính xung quanh nhưng cánh tay thi thoảng lại đưa lên giữ mái tóc bị gió thổi qua mặt. Hoa văn khác lạ so với người Chiêm Thành trên váy áo nàng làm y nhận ra danh phận nàng trước khi lại gần. Nghe tiếng người đến, cô gái quay đầu, chớp mắt khi thấy y.

“A Ban.” Nàng lên tiếng trước, chắp tay chào. Cử động làm những chiếc vòng vàng trên tay, trên cổ nàng rung động. Y gật đầu đáp lễ.

“Dao Luật cô nương.” Y vẫn giữ thói quen xưng hô như trước, như từ ngày đầu tiên quen biết nàng ta. Nhìn nàng rồi lại đưa mắt về phía đám đông, y nhẹ cau mày. “Có lễ gì thế?”

“Trước khi đi, cần thanh tẩy đất đai, tạ ơn thần linh.” Dao Luật giản dị trả lời. Ánh lửa hắt sáng trong đôi mắt to đen đến mức y không nhận ra thái độ tình cảm trong đó. “Chúng tôi rất coi trọng quê nhà đất mẹ.”

À, y gật đầu, rồi lại im lặng. Tiếng tụng kinh cho ngày lễ tẩy uế đến sớm vẫn vang rành rọt trong gió. Rất nhiều các bài kinh đã được đọc. Như thể một lần cho mãi mãi.

Y không biết đêm lễ này, vì họ đã không thông báo cho y. Họ không báo cho y cả ngày tháng được quyết định sẽ rời đi. Mọi việc cần được thực hiện trong bí mật để đối thủ không thể ngăn trở. Và trong đó, có cả y.

Có thể, họ sợ y sẽ lợi dụng tình hình gây nên điều bất lợi. Y thầm nghĩ, khi những cơn gió đang cuốn những lọn tóc bay qua mặt, che giấu một bên khóe môi y khẽ nhếch.

“Bốn mươi năm trước, cha mẹ tôi cũng đi như thế.” Dao Luật chợt lên tiếng, như tự nói với mình hơn là kể cho y. Nàng không kể, nàng chẳng biết điều gì đã xảy ra khi nàng còn chưa có mặt trên đời.

Y cũng không biết mình có điều gì để nói với nàng.

“Việc ở Hội An thế nào?” Thay vì thế, y chuyển hướng câu chuyện. Dao Luật liếc nhìn y rất nhanh, rồi mỉm cười nhìn ra xa.

“Rất ổn.” Nàng chỉ nói như thế, cũng không có ý định giải thích thêm cho y. Nàng vẫn giữ một thái độ đề phòng với người này, dù Oc-nha That gần như tin y tuyệt đối. Không phải nàng lo sợ y sẽ bán đứng họ hay làm điều gì tương tự. Chỉ là, nàng cho rằng mình không nắm bắt được y, cái mục đích của y khi tham gia, và cả con người y. Con người, cái phần có thể dễ dàng thay đổi – và có thể khiến mọi sự xoay chuyển đến mức không ai lường được.

Không như những vị vua chúa quan lại hay thủ lĩnh bị khống chế bởi vô số quan hệ và lợi ích, y chẳng có gì, ngay cả chính bản thân. Đặt quá nhiều nhờ cậy dựa dẫm vào một nơi không chắc chắn là một việc làm không khôn ngoan. Ngay cả với người bằng hữu thân thiết nhất của y. Sử dụng hắn khi cần thiết, theo mục đích trong từng hoàn cảnh, và hoàn toàn không tin cậy hắn – như Đại vương Chân Lạp đã làm. Tại sao, nàng hỏi. Tại sao Đại vương có thể giữ lại những kẻ bất tài, những vương tôn quý tộc chỉ giỏi ton hót đấu đá, nhưng quyết chí không bao giờ giữ lại hắn hay ngay cả người anh hắn? Ta chỉ có thể tin những người ta nắm được, ngài ta đã trả lời. Những kẻ bị quyến dụ bởi lợi ích hay có một niềm trung thành nhất định, thậm chí chỉ cần biết tham lam và đòi hỏi, ta đều có thể dùng. Ngược lại, những kẻ không truy cầu – hoặc truy cầu quá nhiều, đều không đáng tin.

Nghĩ đến điều này lại khiến nàng nhớ tới một người khác.

“Cô ta sao rồi?” Nàng hỏi, sau một lúc thấy y không lên tiếng. Y cũng giữ thái độ đề phòng hệt như nàng, có lẽ là thái độ chung của y với tất cả mọi người xung quanh.

“Không có gì.” Y trả lời, hiểu Dao Luật đang nhắc đến ai. Việc bắt giữ Như Yên vốn là chủ ý của Dao Luật – ‘để khống chế việc ở phương Bắc’, nàng nói. Liên lạc với Hoắc Phương, khống chế Như Yên, và tấn công Thương Trúc trang, những gì nàng muốn làm không chỉ đơn giản trong phạm vi lãnh thổ của Chiêm Thành.

Như Yên hẳn nhiên cũng hiểu rõ điều đó, nhưng nàng đã quá sức bình thản. Để rồi, y tự hỏi, câu trả lời của y với Dao Luật là tin vui hay tin buồn.

Quả nhiên, Dao Luật quay nhìn y, nhíu mày. Y gật đầu.

“Không có phản ứng, cũng chẳng tỏ thái độ.” Y có lẽ không cần nói là Như Yên thậm chí ca hát trên đường đi, hái hoa bắt bướm, ngâm gió vịnh trăng hệt như du ngoạn.

Thái độ này của nàng làm y càng chẳng thể dò xét được chút gì. Những khi không ca hát cười đùa, nàng ta lại nhắm mắt nằm ngủ, hay vờ ngủ. Sau đêm ở chòi sau phủ của Xapatan, nàng ra vẻ đã tỏ thái độ xong, và rồi coi y như không tồn tại. Biểu hiện của nàng hệt như đã có tại trang trại của Linh lão đầu.

Vẫn như lúc ấy, y cảm thấy nàng còn chẳng phải là con người.

Bất chợt, y nhớ về giấc mơ vừa có. Cô bé con mà y đã bắt gặp giữa các cồn cát, cô bé đã ném sợi dây bạc ra sân ngày ấy, rốt cuộc, y đã chưa bao giờ hỏi lý do hành động của nàng. Giỏi trá ngụy, y nói, và người đàn ông ấy đã mỉm cười.

Đừng để bị lừa. Là thật hay giả? Là y đã sai hay đúng?

Dao Luật nhìn y thêm một lúc rồi nhún vai quay về phía ánh lửa đang ngày càng sáng trên đồi cao, hắt lên những bức tường cao màu đỏ gạch như thể cả khu đền đài đang bốc cháy. Một bài ca bằng thứ tiếng cổ xưa đang được hát, với âm giọng đều đều và nhanh như thể vấp nối vào nhau, va đập vào các vách tường của ngọn tháp hình ngọn lửa trước khi vang lên bầu trời. Đám đông phía dưới vẫn im phăng phắc, chỉ có lửa trên tay họ lay động theo gió và những bài ca. Cảnh tượng này đem lại cảm giác kỳ quái như thể chứng kiến một buổi lễ của đá. Như thể họ đã đứng đây, từ ngàn năm cho đến vĩnh viễn. Sáng lên trong ánh lửa và lụi tàn trong bóng ngày.

Ở khoảng cách này, nàng chẳng thể nhìn rõ được bất cứ ai trong bọn họ, đám đông với hàng vạn con người trong cùng một tư thế, im lặng trong một bài tụng ca quen thuộc từ ngàn năm trước. Từ biển, trượt tới theo dòng sông, gió lớn thổi về, khiến lửa phừng lên, và quang cảnh đồi núi, tháp đài, con người, thế giới và bầu trời, chao đảo.

Đừng tin, nàng nghĩ về lời nhà vua đã nói, tuy với một ý nghĩa hoàn toàn khác. Thế giới không chao đảo, thế giới cứ đứng yên, bất động và lặng lẽ. Như bài ca. Như thanh âm được cất lên từ bầu trời. Mặc cho ngọn gió, dòng sông, cát và đá, con người và đêm ngày, lụi tàn và sinh sôi.

“Hỡi Po Ginuer Patri, hương thơm của ngài như khói trầm, thần lực của ngài sáng cõi âm dương, ngài triệu tập đàn voi cùng thần dân chờ đón ngài…[2]

Ngoảnh về phía y, nàng chợt thấy có ánh sáng lóe lên ở phía chân trời đằng Đông. Có lẽ là một tia chớp khan của cơn mưa trên biển, hoặc do ngày đang dần tới.

Y không để ý đến điều mà nàng vừa thấy. Ánh mắt y hướng về khoảng cách giữa bóng tối và ánh sáng tan hòa vào nhau trên bầu trời, nhưng lại như không hề thấy gì. Thật giống nhau, nàng thầm nghĩ. Dù vẻ ngoài hoàn toàn khác biệt, cảm giác khi đứng bên cạnh hai người bọn họ thật giống nhau. Như thể không có điều gì ngoài bọn họ trên thế giới này – thậm chí, không có cả thế giới này. Càng cố tiến lại gần, càng cảm thấy như va phải một bức tường. Và rồi, càng cảm thấy như bản thân không tồn tại.

Cô ta có nhận ra không, nàng chợt nghĩ. Về sự giống nhau này, thứ bóng tối cùng ánh sáng nhập nhoạng trong bọn họ? Về cảm giác thấy mình như một kẻ lạc giữa sương mù và hoang mạc, càng đi xa, càng hoang mang?

“Anh cảm thấy cô ta thế nào?” Cuối cùng, nàng hỏi. Tò mò về chuyện riêng của người khác không phải là hứng thú của nàng. Nhưng lúc này thì nàng muốn biết, không phải vì y.

Câu nói cất lên bên cạnh hình như đã khiến y giật mình. Mất thêm một lúc để y tiếp nhận ý nghĩa của nó, và thật lâu để y nghĩ câu trả lời. Y đã im lặng lâu đến mức nàng thoáng cho rằng y không trả lời nàng.

“Giỏi trá ngụy.” Cuối cùng, y nói. Âm điệu của y lại khiến nàng nhíu mày. Chậm, rất chậm, y thốt từng từ, bằng tiếng An Nam. Trầm ngâm thêm hồi lâu, y lại lắc đầu. “Cô cẩn thận thì hơn.”

Việc ở phương Bắc, Dao Luật đã nhất quyết không để y nhúng tay vào, y cũng sẽ không can thiệp. Nhưng với thái độ của Như Yên, sự ngờ vực đang ngày càng lớn dần lên trong y. Rồi y lại đang tự nghĩ, rốt cuộc, y chưa bao giờ hiểu nàng ta đang muốn gì. Cái gọi là triều đình, đất nước hay dòng tộc đối với nàng đều hết sức mơ hồ, nàng chẳng coi trọng chúng một mảy may. Sau khi mất tất cả, ta còn lại gì, nàng hỏi. Y không muốn thừa nhận là mình hoàn toàn chẳng biết câu trả lời.

Dao Luật kéo cao chiếc khăn che cổ khi một cơn gió lạnh thổi về. Quả thật, bình minh sắp đến. Tiếng ca đã ngừng, đám đông dưới đồi đang chậm chạp đứng lên sau mấy lần cúi lạy. Vẫn trong sự im lặng bất thường như trước, họ tản ra. Những chiếc áo trắng mặc cho ngày lễ trong bóng đêm, được quầng sáng của lửa bao quanh trông như ngàn vạn con đom đóm nhỏ. Chậm chạp, họ tỏa đi trên các nẻo đường dẫn về các làng. Những ngôi nhà cũng đang sáng ánh lửa, nổi rõ trên khoảng đất mênh mông kéo dài đến biên núi xa. Đêm nay, cả vùng đất này không ngủ. Tiếng ca đã ngừng, trong sự lặng yên của đêm tàn, chỉ nghe được thanh âm của dòng sông. Dòng sông đang trôi dưới chân họ, trước cổng thành, dưới bóng của những pháo đài.

“Lần này, họ đi về Chân Lạp.” Nàng chợt nói, thấy y hơi quay đầu lại. Đến lúc này, nàng nghĩ không cần phải tiếp tục che giấu tin tức với y, liền gật đầu. “Chân Lạp, và Đại Thành.”

Những người cần thiết phải ra đi sẽ ra đi, đi xa hơn cả vùng đất Thượng mà tổ tiên họ từng đến. Nàng không hỏi về dự định của y, khi y đã không tỏ một thái độ nào với sự kiện này. Chúng ta sẽ phản kháng, Oc-nha That nói như cam kết, nhìn về phía y. Trong lúc đó, y im lặng.

Như bây giờ, y chỉ nhíu mày trước thông tin vừa được nói ra, rồi lại quay đi. Rồi nàng có cảm giác như thể ngay cả thông tin này đã lọt vào suy tính nào đó của y. Sự im lặng có thể đánh bẫy người khác.

Phía xa, chân trời rực hồng. Vùng đất này, ánh sáng nhanh chóng tỏa gắt ngay khi mặt trời vừa ló dạng.

Cùng với ánh sáng, ngọn lửa bốc lên từ trong đất. Như thể bị đốt cháy cùng lúc với bầu trời, những ngôi nhà, bản làng và ruộng nương bắt lửa, cháy rừng rực. Lửa nhanh chóng lan đi, biến những bản làng, ruộng nương và cả những khu đất vườn thành các vũng lửa khổng lồ. Gió bình minh cuộn xoáy giữa biển và đất liền, cuốn lửa bốc ngùn ngụt, khói như che kín cả trời cao.

Trên những con đường cắt ngang qua đồng lửa, những toán người lặng lẽ lại tiếp tục tụ họp về chân ngọn đền tháp. Họ mang theo hành lý và trẻ con trên ngựa và voi. Có tiếng khóc, ban đầu từ một đứa trẻ sợ hãi, rồi nhanh chóng lan đi. Trong khói không còn rõ mặt người, tiếng khóc duềnh như sóng. Tiếng khóc trên các nẻo đường tụ họp về phía dưới ngọn tháp cao hình ngọn lửa. Những con người mới đến, áo ám màu khói, mặt nhòe màu khói, quỳ rạp và cúi hôn mảnh đất dưới chân. Những thầy tu quàng khăn đỏ lặng yên giữa màu gạch đền thờ hình ngọn lửa, hát nốt bài tụng ca cuối cùng. Lần này, không còn sự đều đặn bình tĩnh, bài ca được lặp đi lặp lại trong đám đông, bằng muôn vạn giọng nói và âm điệu, chỉ nghe được những thanh âm như tiếng gọi bình minh.

“Hỡi Po Ginuer Patri…”

“Hỡi Po Ginuer Patri…”

“Hỡi Po Ginuer Patri…”

 

 

Chú thích:

[1] Trích Mẫu đơn đình, dịch nghĩa: “Xuân vọng tiêu diêu ra nét họa. Mai cứng liễu già chẳng thắng hương. Sao biết nơi nào Lưu Nguyễn gặp người? Ngoảnh đầu nhìn lại, gió đông vẫn đoạn trường.”

[2] Po Ginuer Patri: Thần Shiva.

 




Hồi 19: Rời bỏ
Wednesday, April 25, 2012 Author: Trường An

Khi nàng đến, vùng đất nọ đang có loạn.

Đương nhiên, Panduranga đang hỗn loạn. Nhưng y không đưa nàng đến Panduranga, mà là vùng đất còn xa xôi hơn. Vượt sông, băng rừng, đi qua hoang mạc lẫn núi cao, đi qua các nẻo đường bí mật của dân bản xứ để vào sâu trong núi, khi được con voi thả xuống, nàng thấy trước mắt là một bản làng nhỏ nằm giữa rừng trùng điệp. Làng chỉ có hơn chục căn nhà sàn dài có mái cong vút nằm dựa vào sườn núi, một cánh đồng nhỏ trải bên làng còn trơ gốc rạ. Nhưng điều bất thường khiến nàng chú ý ngay lập tức là tiếng voi rống dội qua rừng, rất nhiều tiếng rống từ một đàn voi lớn nhất mà nàng từng thấy. Phải đến cả trăm con voi, kể cả voi con, đang xếp hàng hai đi vòng qua rẫy.

Nàng chưa bao giờ đến các bản làng sâu trong núi phương Nam, và trong một lúc lâu, nàng đã đứng ngây người nhìn đàn voi diễu qua trước mắt. Thấy con voi vừa đưa nàng tới, con đầu đàn giơ vòi rống như chào, kéo theo hàng loạt voi đực trong đàn. Những con voi vùng núi to lừng lững như cả một căn nhà, da xù xì dày sần từng cục như nắm tay, cái ngà được lau chùi chăm sóc kỹ lưỡng bóng lên trong nắng. Ngồi trên cổ voi mà không cần yên đệm, người quản tượng nhỏ thó gần như trần trụi lắc lư đầu nhìn xuống nàng.

Vì đàn voi, mất một lúc nàng mới nhận biết mình đang là mục tiêu chú ý của những người xung quanh. Đứng bên rào, một đám trẻ lõ mắt nhìn nàng. Mà cũng có thể là chúng nhìn đám đông đang đi về phía nàng. Một nhóm cũng phải gần trăm người, trang phục vừa Thổ vừa Chiêm rời khỏi căn nhà rông lớn nhất giữa làng mà đi về phía mấy người vừa tới. Vượt qua rừng, chỉ có Ngô Lãng đưa nàng đi cùng với hai người Man trong làng dẫn đường. Nhưng như thể cả làng đã đứng đợi sẵn bọn nàng từ sớm.

Thậm chí hơn cả một làng, Như Yên nghĩ thầm, nhìn về phía những người Chiêm hẳn theo đạo Hồi đang bước theo một ông già râu tóc bạc phơ chắc là già làng. Họ chỉ liếc nhìn qua nàng đang đứng cạnh con voi, rồi tập trung về phía Ngô Lãng, một người Chiêm làm nhiệm vụ phiên dịch cho y. Nàng nghe tiếng được tiếng mất khi gã hạ giọng quá nhỏ, dường như chỉ để mình y nghe. Một lúc lâu sau đó, y gật đầu, vỗ bên ngà con voi quỳ lâu đã bắt đầu đập vòi nôn nóng, ra hiệu cho quản tượng đưa nó về đàn. Gói đồ trên bành voi được ném vào tay nàng trước khi đôi ba cô gái xuất hiện, dẫn nàng về một ngôi nhà trong làng. Không ngoảnh lại một lần để dặn dò nàng, Ngô Lãng vẫn thì thầm to nhỏ với những người Chiêm trong khi đi về ngôi nhà lớn, dường như y có vẻ căng thẳng.

Chắc chắn y căng thẳng, nàng nghĩ khi vào căn nhà bên hông làng, nơi cửa sau nhìn xuống triền đồi dốc, xanh rì một màu cỏ. Màu xanh của đồng cỏ làm nổi bật lên những thân gỗ vừa được đem về để la liệt trên đồng, có vài căn chòi đã được dựng. Gọi là chòi vì chúng đơn sơ hơn hẳn những căn nhà rông bình thường, mái bằng phủ rơm cỏ. Đàn voi vẫn đi về phía rừng, còn những căn chòi trên đồng cỏ trống không, chẳng có một bóng người. Khi gió xao động, nàng thấy thấp thoáng như có ánh kim khí lóe qua cửa một căn chòi.

Theo số gỗ này, hẳn phải có thêm rất nhiều chòi nữa được dựng.

Cô gái bản ra dấu bằng tay, mời nàng uống nước và ăn thịt khô cùng muối ớt. Ngôi làng này có lẽ không theo tục di cư của một số tộc trong vùng, tự cày cấy lấy lúa gạo, nuôi trâu bò. Vừa qua lễ cơm mới, trên mâm của nàng có thêm ché rượu nhỏ. Đợi nàng ăn xong, họ trải chiếu cho nằm, rồi tất cả đến ngồi ở hiên trước nhà. Không thấy buồn ngủ, cũng chẳng thể hỏi chuyện mấy cô gái, nàng nhìn loanh quanh trong ngoài làng một lúc rồi ngồi xuống bên cây đàn làm bằng ống tre để trong góc nhà, lấy dùi mà gõ. Mỗi ống tre phát ra thanh âm khác nhau, đánh một hồi lâu, nàng cho rằng mình cũng đã nắm được âm nhịp của nó. Nghe tiếng đàn, mấy cô gái ngoài cửa ló đầu vào, nói líu lo với nhau bằng thứ tiếng nàng không hiểu. Đến khi nàng nghĩ rằng mình đã có thể đánh ra bài ra nhịp, y đẩy cánh cửa khép hờ mà vào. Hình dáng cao lớn của y đứng chắn gần hết cửa.

“Đàn này không thể chơi trong nhà.” Nhìn nàng khoanh chân ngồi nghịch cái đàn ống tre, y cau mày. Ngừng một thoáng, y nói thêm. “Ngay cả trong làng cũng không.”

“Vậy để đây làm gì?” Như Yên bĩu môi. Nhưng lúc này không tiện gây chuyện, nàng xếp hai cái dùi sang bên, nghiêng người qua đàn mà nhìn y. “Có chuyện gì thế?”

Không vội trả lời nàng, y đến ngồi trên chiếu mà nàng vừa ngồi dùng bữa, uống số rượu trong cái ché vẫn còn để lại. Nàng nhè nhẹ nhướn mày. Trước kia y rất ít uống rượu.

“Ta cần đi đón người.” Một lúc, y mới mở miệng. Nhìn thoáng qua nàng, y hạ giọng. “Sẽ có người của ta ở đây.”

“Nơi này ta không hay không biết tí gì, chạy ra ngoài thì chỉ làm mồi cho thú dữ, ta đi đâu được?” Hiểu ý y, nàng liền cười. Xoay cái vòng ngọc quanh cổ tay, nàng dùng giọng cợt nhạo ấy mà hỏi lại. “Có chuyện gì vậy?”

“Nam Hà đặt hạn triều cống.” Ánh mắt y rơi trên nàng lạnh như đêm. Như thể y cho rằng nàng đương nhiên phải hiểu rõ chuyện đang xảy ra. “Quá hạn không nộp, sẽ san bằng Parik.”

“Ta nghĩ nên nộp là hơn, nếu không đủ thì cứ xin khất, như Chân Lạp chẳng hạn.” Nàng cười nói, dù biết lời của mình hoàn toàn vô nghĩa. Người ta chỉ cần một cái cớ. Và không giống như Chân Lạp có thể dùng Chiêm Dao Luật để biến báo, với cuộc tấn công gây chiến trước của vua Bà Tranh, Chiêm Thành chẳng còn có thể thanh minh cho mình. Không giống như Chân Lạp, Nam Hà cần ít lý lẽ hơn với nơi đã trở thành trấn Thuận Thành.

Đã có nhà vua trong tay, việc quân Nam Hà tiến vào Parik chỉ là sớm muộn.

Một lần nữa, y không trả lời nàng. Nàng ‘khuyên nhủ’ chỉ để trêu tức y, hoặc để thăm dò. Nguy cơ quân Nam Hà tiến đánh, nguy cơ mất chủ quyền quốc gia, nguy cơ bị thanh trừng trừ diệt nếu chống đối… Tất cả áp lực đang đè lên triều đình Parik lẫn Panduranga sức nặng không kể xiết.

Cống nộp – và chấp nhận trở thành trấn Thuận Thành dưới sự kiểm soát của Nam Hà. Một điều sẽ gây phẫn nộ ngay trong chúng dân – tất cả mọi người. Biến loạn sẽ xảy ra, và nếu như người ta muốn thanh trừng, chỉ cần một cái cớ cho tất cả. Quân Nam Hà vào Bal Canar, đồng nghĩa với biến loạn không thể kiểm soát.

Không cống nộp – và cố thủ thành trì cuối cùng Parik trước hai gọng kềm từ Bình Khang và Bà Rịa. Một việc không có khả năng. Không còn đức vua, hoàng tộc, bị chia rẽ bởi ý muốn được sống và bị lừa gạt bởi những gì triều đình Nam Hà đã hứa hẹn, ý chí chiến đấu của quân dân còn lại mấy phần? Ồ, đó là một trò chơi tâm lý gian ngoan từ triều đình nọ. Nắm giữ con tin, nhử miếng mồi phía trước, đặt tất cả cái trách nhiệm không tưởng vào trong tay đối thủ. Mọi kẻ sẽ có được một mảnh hy vọng nhỏ nhoi, như họ đã từng đánh đổi để có được; khi còn chưa thấy kết quả, họ vẫn còn tin.

Không cống nộp, thậm chí đến danh nghĩa để cố thủ Parik, bọn y cũng chẳng còn.

Dù sao, y cũng không ngạc nhiên với diễn biến này. Một phương cách quen thuộc, hẳn nhiên. Cũng là một hành động quen thuộc khi vị chúa trẻ vừa lên ngôi kia cần một chiến thắng lớn lao để củng cố địa vị cho mình. Sau khi tranh chấp với Trịnh được dàn xếp yên, Nam Hà đã đứng chững lại một thời gian khá lâu. Đủ lâu để nuôi dưỡng những tham vọng mới, cho những mầm tham vọng mới phát triển và lớn mạnh. Lập quốc khi vừa mãn tang cha, vị chúa trẻ đã phất lên lá cờ vừa chói sáng vừa thách thức, để dẫn đoàn người ấy đi. Một việc mà chỉ có tuổi trẻ liều lĩnh của cậu ta mới có thể làm.

Nhưng dù đã đoán trước, y vẫn còn rất cẩn trọng. Sai lầm có thể không đến từ mưu toan của Nam Hà, mà là trong chính triều đình Chiêm quốc.

Người của Oc-nha That vội vã cho gọi y về Parik, nhưng trong thời gian y vắng mặt, họ đã làm gì với cánh đồng phía sau làng này? Dựng nhà thì y còn có thể hiểu, nhưng dựng chòi ở tạm nhiều như thế? Người đưa tin không trả lời, chỉ bảo y đến Bal Canar tìm hiểu.

Có thể là Chiêm Thành định rút vào núi, như cách họ phản ứng với các cuộc tấn công của Nam Đảo, Chân Lạp trước đây, y thầm nghĩ. Nhưng như thế, tại sao Oc-nha That phải vội gọi y?

“Đừng làm chuyện điên rồ.” Uống cạn ché rượu, y nói trước khi đứng dậy đi ra ngoài. Nghe như có tiếng cười nhẹ tựa gió sau lưng y.

Mặc kệ nàng ta, y tự nhủ khi đi xuống thang gỗ, bước trên con đường đất đỏ bị chân voi giẫm bừa mà đi về phía đầu làng, nơi toán người kia đang đợi. Dù có để bản thân lọt vào tay bọn y vì lý do gì, chưa đến lúc nàng ta ra tay thì y vẫn còn có thể thả lỏng. Trên đường đến đây, nàng tỏ vẻ nghe lời, thậm chí còn thích thú nhìn ngắm những nơi mình đi qua như thể đang du ngoạn. Như thể đúng là nàng nhìn ngắm tất cả đang diễn ra với cặp mắt của kẻ rong chơi. Những loại việc này chẳng phải là trách nhiệm của nàng, nhưng nàng vẫn muốn lao vào, tự thân hành động chỉ vì ý thích liều lĩnh bản thân. Còn mục đích thật sự của nàng, dù nàng có ra tay hay không, y chẳng thể nào lường được.

Nàng đã muốn chơi đùa, y cũng chẳng ngăn.

“Ngoại trừ việc cá nhân, không để cô ta ra ngoài.” Y nói với trưởng toán người canh giữ. “Tốt nhất là cả những thứ cá nhân như nước tắm, ống nhổ, thau chậu cũng cứ đưa vào phòng cho cô ta.”

Ông già trưởng nhóm nhìn lên y với ánh mắt là lạ, nhưng cũng chỉ gật đầu. Con voi đã được đưa tới, y quàng gói hành lý còn chưa kịp nguội mùi nắng lên bành, gọi người quản tượng đưa về Parik.

Khi y đến Parik, vùng đất đã bị bao vây bằng nhiều lũy đất lớn nhỏ. Thấy đoàn người đến từ vùng Thượng đạo, sự cảnh giác có hơi hạ xuống, nhưng chỉ đến khi y chìa ra kim bài của Oc-nha That, những mũi giáo trên tay quân phòng, mũi tên đã lên dây trên những cây cung mới rời khỏi mục tiêu. Qua khu vực đồi núi, bọn y xuôi theo dòng sông đến thành Bal Battinon[1]. Khu thành trải dài hơn hai trăm dặm, tường cao sừng sững đến gần ba trượng nổi rõ trên khu đất bằng phẳng, từ xa nhìn như một ngọn núi nhỏ. Vào mùa mưa, nước từ thượng nguồn đổ về con sông chảy qua mặt Bắc thành cuồn cuộn, hợp cùng vành đai cao bên bờ sông và những pháo đài đắp bằng đất và sỏi cao không kém tường thành bao quanh bốn góc thành một hệ thống phòng thủ vững vàng.

Những thành lũy luôn vững vàng hơn con người trong nó, ngẩng đầu, y nheo mắt trong ánh mặt trời từ biên phương đổ lại, nghĩ thầm khi nhìn cái bóng của thành lũy khổng lồ phủ trùm lên mảnh đất xung quanh nó. Vào mùa hạ, nắng gió ráp mặt khi trời vừa sáng. Khắp nơi vàng màu đất, màu cát, màu cỏ cháy, cả màu của những con sông. Rừng và đồng nằm lẫn với đá, cát rào rào trong gió. Những dãy núi biên Tây viền một dải xanh thẫm vào nền trời. Hai bên đường, xương rồng được trồng làm rào nhà và đồng ruộng thành các dải xanh hẹp thẳng ngay ngắn. Như những đồng cát dễ dàng tìm thấy khắp nơi ở đây, tất cả các cảnh sắc, cả cây, cánh đồng, nhà cửa và con người, tưởng chừng như có thể đổi thay cùng những cơn gió.

Đó là cảm tưởng của y khi lần đầu tiên đặt chân đến vùng đất ven bờ biển này. Dưới ánh nắng tràn trề nhức nhối và màu vàng của cát, đất, dòng sông, của thành quách, đền tháp, nhà cửa, cây trái – và con người. Dưới ánh nắng và cơn gió, biển lại có vẻ vững vàng và xác định hơn là vùng đất bên cạnh nó, màu xanh ngút ngát mênh mông lại có vẻ chắc chắn an tâm hơn là các đồi cát chực chờ đổi thay mỗi giờ mỗi khắc.

Khu thành lũy mang màu gạch đỏ vàng truyền thống của Chiêm Thành vẫn sừng sững trong nắng, nhưng y đã kịp nhận thấy sự bất thường ở vùng đất xung quanh thành. Những đàn bò dê được chăn thả trên các cánh đồng ít tới hầu như không thấy bóng. Những đồng lúa đã qua mùa gặt đến mùa làm rẫy nhưng hầu như vẫn khan màu nước sánh cùng bùn. Bóng người vẫn thấp thoáng quanh các ngôi làng, nhưng sự sống hầu như chỉ bó gọn trong phạm vi ấy, ngoại trừ các toán quân cùng voi ngựa chiến vẫn lại qua trên đường. Dù trong thời chiến, cả dân chúng, triều đình hay quân lính cũng cần ăn uống, và sự bỏ mặc sản xuất làm việc này có dấu hiệu như thể còn có sự biến lớn hơn nữa xảy đến.

Người dẫn đường cũng giữ thái độ im lặng như kẻ đã báo tin cho y. Hàng quân lính canh cửa giãn ra để đoàn người bọn y vào thành. Không còn nhà vua để y vào yết kiến, người dẫn đường đưa y đến cửa sau cung điện, vòng qua khu ở của các trọng thần, đến thẳng nhà của Oc-nha That. Thấy y, người canh cửa tự động tránh sang bên mà không cần vào báo.

Do đó, y tình cờ chạm mặt Po Chongchan khi ông ta vẫn còn ngồi trong gian nhà chính nhìn ra sân. Nhìn những ly tách chén đĩa đang được dọn đi trên chiếc chiếu lớn giữa nhà, có vẻ như một cuộc họp vừa được tổ chức.

Po Chongchan không nhận ra y cho đến khi y kéo chiếc khăn trùm đầu xuống. Dù không mặc sarong giống đàn ông nơi này, y vẫn mặc áo khoác và trùm khăn lớn hầu như che kín mặt khi đi lại nhằm tránh những ánh mắt tò mò. Thấy y, chùm râu bên mép Po Chongchan khẽ giật, y nghe như thể ông ta đã ‘hừ’ một tiếng trong cổ trước khi đặt ly nước trong tay xuống.

“Lâu ngày không gặp, Po Chongchan.” Y chắp tay thi lễ trước, theo kiểu của người Hán. Lâu ngày không gặp, quả thật là Oc-nha That đã tránh cho y chạm mặt Po Chongchan bất cứ khi nào có thể.

“Tình hình phương Bắc thế nào?” Không có cả một cái gật đầu đáp lễ, Po Chongchan hỏi bằng giọng khàn khàn trong cổ. Ông ta lại mỉm cười. “Ta hy vọng rằng sẽ có kết quả khá khẩm hơn lần trước.”

“Kết quả lần trước không tốt?” Y nhướn mày, tự tìm chỗ mà ngồi bên kia phòng, chờ đợi Oc-nha That xuất hiện. Y thấy Po Chongchan cau mày, bên mép vểnh lên lần nữa, nhưng ông ta không nói thêm.

Lấy mạng một vị chúa của địch thủ, khiến các kế hoạch lấn xuống phương Nam của kẻ địch phải ngừng lại, hẳn nhiên không phải là một kết quả tồi. Sau này, bọn y phát hiện ra, trước khi mất, chúa Nam Hà đã ban sắc lệnh cấm người Tây dương lẫn những nhà truyền giáo của họ xuống phương Nam. Những người sống trên vùng đất này đều hiểu ý nghĩa của sắc lệnh ấy – Sự triệt tiêu mọi nguồn cung ứng, tiếp tế có thể đến từ biển cho đối thủ, khi có chiến tranh.

Đó là lý do y vẫn còn tồn tại được ở triều đình này, thậm chí có một thế lực nhất định trong nó. Cho đến khi nhà vua Bà Tranh quyết đem quân khởi chiến. Không đứng về phía nhà vua, từ chối một vị trí trong quân, y nhờ thế lực của Oc-nha That mà rời khỏi Parik, đi về biên Tây, đến khu vực của người Orang Đê[2]. Khi nhà vua thất bại, bị bắt trong tay kẻ thù, y liền trở về, không khó để lý giải thái độ của Po Chongchan lúc này.

“Ở đây thế nào?” Sau một lúc, y hỏi. Điều này y có thể chờ hỏi Oc-nha That, nhưng được nghe từ nhiều hướng vẫn có lợi hơn.

“Không ai còn muốn đánh.” Im lặng hồi lâu rồi Po Chongchan nói trong cổ họng. Y nghe như có tiếng răng nghiến vào nhau. Ông nhìn ra khoảng sân nắng chói mắt mà nói. Y thổi nhẹ lớp khói trên ly trà mà con hầu vừa đưa tới, cũng không nhìn ông ta.

Ngay cả quân nhà vua còn đại bại, liệu có thể trông chờ được gì? Tính mạng nhà vua cùng hoàng tộc ở trong tay kẻ thù, ai muốn hy sinh bọn họ? Và kẻ hy sinh nhà vua để trông chờ một cuộc tử thủ ở Parik càng khó khăn để nắm giữ tinh thần quân dân đang giảm đến mức thấp nhất này.

“Ta đã cho sứ giả đến điều đình với Nguyễn Hữu Oai, nhưng hy vọng rất thấp.” Tiếng nói vang trầm vọng đến từ cửa sau khi Oc-nha That bước vào. Gật đầu chào y, ông đến ngồi cạnh Po Chongchan, đưa cuộn giấy đang cầm cho con hầu đem sang phía y. “Sau việc với Chân Lạp, không ai muốn liều mạng.”

Sự chùng chình của quân Nam Hà ở biên giới Chân Lạp đã đẩy đoàn quân này vào tình thế cực kỳ khó xử. Vị Chưởng cơ Phò mã thay mặt chúa công ở chiến trường này tuyệt nhiên không thể có quyết định như Mai Vạn Long hay Nguyễn Hữu Hào ngày xưa, dù có thêm một trăm Chiêm Dao Luật.

Y mở cuộn giấy mà đọc bức thư Tổng binh Nam Hà gửi tới, với rất ít cảm giác ngạc nhiên hay thất vọng. Khi y buông cuộn giấy xuống, Oc-nha That đã vội hỏi ngay.

“Phía Tây thế nào?” Ông không thể giấu thái độ nôn nóng. Y liếc qua Po Chongchan cũng đang nhìn mình, hạ giọng.

“Skanda làm việc tốt.” Y dùng biệt hiệu của người thủ lĩnh trong núi mà trả lời, đặt ly trà xuống sập. “Mọi việc đều thuận lợi.”

“À…” Oc-nha That gật đầu, nhìn Po Chongchan rồi quay về phía y. “Vậy chúng ta đi được rồi.”

Câu này không rõ ông nói với ai. Chỉ nghe Po Chongchan thở ra một tiếng khùng khục trong cổ, không rõ là cười hay thở dài, lại nghe như tiếng nấc.

“Thôi vậy, ai muốn đi, phải đi thì đi thôi.” Ông nói, gật đầu, đứng dậy chào Oc-nha That mà cáo từ ra về. Nắng hắt cái bóng của ông tròn dưới chân.

Chỉ có cái bóng là thay đổi, y thầm nghĩ khi con voi đã đưa Po Chongchan qua cửa dinh thự. Xứ sở này, ánh nắng từ ban mai cho đến khi sập tối giống hệt nhau, chỉ có cái bóng là thay đổi.

“Lại có người đi.” Oc-nha That thở dài, lắc đầu. Gió đang thổi cát rào rào qua sân khi ông cúi đầu xếp mấy cái chén sứ sang bên. “Như bốn mươi năm trước.”

“Bốn mươi năm trước, nhà vua Po Nraup[3] thua trận, phải giao nộp Kauthara cho Nam Hà, rất nhiều người bỏ đi.” Bắt gặp ánh mắt y, Oc-nha That giải thích. Mấy cái chén sứ lanh canh dưới tay ông. “Họ bỏ đất mà đi, vượt qua vùng Orang Đê đến Ayutthaya. Hai trăm năm trước, khi thành Vijaya bị hạ, cũng rất nhiều người phải chạy nạn sang Chân Lạp. Người thì sợ bị trả thù, người thì không muốn bị người Việt cai trị, thế là dắt nhau đi.”

“Bây giờ ai sẽ đi?” Im lặng một lúc, y hỏi. Quyết định của người ở đây, y không thể xen vào hay thay đổi.

“Người Bani, đa số.” Oc-nha That lại thở dài. Y cau mày. Hiểu thái độ y, Oc-nha That gật đầu. “Rất đông, chừng năm ngàn nhà.”

“Như vậy…” Cái cau mày của y càng sâu thêm. Nhưng nhìn ánh mắt Oc-nha That, y quyết định không nói tiếp.

Điều đó lý giải được cho sự hoang vắng bất thường trên vùng đất này. Hàng vạn người đã sẵn sàng bỏ đi. Rời khỏi Panduranga.

Không còn nhà vua, không còn quan tướng, không còn binh lính, không còn cả dân chúng. Panduranga bỏ trống.

 

 

 

Chú thích:

[1] Theo nhà khảo cổ Henri Parmentier, thành này còn có tên là Ban Hanơn, là thành lũy của triều đình Panduranga từ cuối thế kỷ XV. Ngày nay di tích này mang tên thành cổ Sông Lũy, ở Bắc Bình, Bình Thuận. Từ thế kỷ thứ 4, người Chiêm Thành đã học được kỹ thuật luyện kim, xây thành của Trung Quốc thông qua một người gốc Hoa là Phạm Văn (Fan Wen).

[2] Đêgar: Cách người Êđê tự gọi toàn cộng đồng mình. Trước đây, dân tộc này được gọi là người Orang Đê, trước 1975 vẫn được gọi là Rađê. Người Êđê tự gọi mình là Anak Aê Diê, sau này đọc chệch đi là Anak Ê Đê, theo tên của vị thượng đế theo truyền thuyết là Aê Diê. Nhóm dân này được cho là từ Nam Đảo, vùng biển Malaysia – Indonesia tới, trước đây vốn sống ở vùng ven biển. Từ thế kỷ XIII, người Chăm từ những vùng đất bị chiếm đóng di cư lên ở cùng người Êđê cổ, tạo ra nhóm tộc người mới tự gọi là Anak Jarai, đây là nhánh lớn của tộc người Orang Đê cổ.

[3] Po Nraup: Bà Tấm.

 





Copyright © Trường An. All rights reserved.