Solitude

Cảnh như thị, nhân như thị

Hồi 36: Con rối
Monday, August 13, 2012 Author: Trường An

Tây Phong lầu nằm ở ngoại đô Hội An, vốn là một trang viên rộng lớn gồm cả gia viện của chủ nhân Mặc Huyền. Đi qua cầu đá trên con hào nho nhỏ, vượt khoảng đất bên ngoài, đến khu nhà xây theo kiểu chữ Hồi bao lấy mảnh vườn rộng, có ao cá lẫn giả sơn, bên trên xây nhà thủy tạ cao như một sân khấu. Phía sau khu nhà này, cách một khoảng đất nữa, ẩn sau hàng cây cổ thụ cao là ngôi lầu hai tầng to lớn, chuyên dùng để tiếp khách quý. Khu nhà của Mặc lão gia và người trong lầu cách hẳn với khu tiếp khách bằng lớp tường đá cao.

Thấy xe ngựa xa hoa đi đến, nghe báo danh xong, người trong lầu dẫn thẳng nhóm của Nguyễn Phúc Huệ đến gian nhà sau, đưa vào một căn phòng lớn trống trải yên tĩnh. Giữa phòng chỉ có một chiếc bàn gỗ gụ đen bóng, trên kệ kê san sát quanh phòng là những bộ bài lẫn món cờ bạc của bốn phương đem tới, tất cả để trong hộp thủy tinh. Đèn đóng trên vách, trên cột cũng bằng thủy tinh lấp lánh. Vừa ngồi xuống ghế, Nguyễn Phúc Huệ đã nghe tiếng vàng bạc khua. Từ phòng chờ bên kia lầu, một nhóm thương buôn có vẻ ngoài như người Nam Đảo vào phòng, cúi mình chào vị Chưởng cơ dòng tông thất.

Sau mấy lời chào hỏi xã giao, người hầu của Nguyễn Phúc Huệ lẫn thương gia Nam Đảo đều lui ra, chỉ để lại hai hộ vệ thiếp thân của viên Chưởng cơ và cô gái bên người thương gia Nam Đảo. Chiếc khăn lớn dệt hoa văn lộng lẫy, đính thêm vàng bạc chói mắt phủ từ đầu đến chân, che gần như cả khuôn mặt nàng ta, chỉ để lộ đôi mắt đen láy sáng tựa sao. Cô gái chỉ khoanh tay đứng im sau vị thương gia, kể cả khi người phiên dịch trong lầu quay đầu về phía Nguyễn Phúc Huệ, nói lại câu của vị thương gia Nam Đảo.

“Ông ta nói, muốn tặng hầu gia vị ái cơ này.” Người phiên dịch nói, ra dấu về phía cô gái. Nguyễn Phúc Huệ chỉ đưa mắt nhìn qua cô ta, gương mặt không rõ biểu cảm. Sau vài câu trò chuyện, anh ta đã cùng vị thương gia này đánh vài ván xúc xắc ‘làm quen’. Dù không thắng, hẳn ông ta cũng không túng thiếu đến mức phải đem người ra gán.

“Tấm thịnh tình của ngài đây, ta cũng không thể từ chối.” Dù vậy, Nguyễn Phúc Huệ vẫn mỉm cười nói. Tặng người chỉ là cớ, anh ta đến đây vốn không phải chỉ để kết giao với một thương nhân Nam Đảo thông thường, cũng lười đóng kịch dông dài với kẻ bất đồng ngôn ngữ. Nhóm người kia làm ra vẻ thần thần bí bí, cứ nương theo để xem dẫn đến đâu.

Quả nhiên vị thương nhân kia tặng được người rồi cũng quấy quá mấy câu trước khi từ giã. Bên ngoài, sân khấu lớn đã mở, Nguyễn Phúc Huệ liền đưa cô gái vừa nhận đến lầu xem ca vũ. Trong khoảng đất rộng, một nhóm người đang biểu diễn xiếc, trống lớn đánh đinh tai. Nguyễn Phúc Huệ chọn một bàn trên lan can, gọi rượu cùng thức ăn.

“Ngài có vẻ không hào hứng lắm?” Khi hàng loạt trống trong khu đất cùng lúc đánh như sấm rền, cô gái bên cạnh Nguyễn Phúc Huệ chợt lên tiếng. Không nhìn lại nàng ta, Nguyễn Phúc Huệ chỉ mỉm cười.

“Ta khó mà có hứng thú với việc còn chưa rõ là gì.” Nhấp ly rượu hoa cúc, viên Chưởng cơ vừa nhìn người đang phóng qua vòng lửa vừa nói. Ly rượu vừa đặt xuống bàn, cô gái đã vén tay áo rót đầy trở lại.

“Tước vẫn chưa nói rõ?” Nàng cười, giọng nói trầm lại mềm mại như nhung. “Về giao tình đời trước?”

“Chuyện ấy ta cũng không rõ lắm.” Vẫn giữ thái độ cũ, Nguyễn Phúc Huệ ra vẻ thờ ơ trả lời. Chuyện đời trước giữa Po Chongchan và cha anh ta, cố Thái tử của Nam Hà. Những mối quan hệ như thế âu cũng là chuyện bình thường trong chính trường, tương tự như quan hệ của vị chúa trước và Hoắc gia tại nơi đây. Po Chongchan để lại người con nuôi trong phủ Thái tử như một loại con tin. Nhưng mối quan hệ ấy đã nứt gãy khi vị Thái tử đột ngột qua đời. Im lặng một lúc, Nguyễn Phúc Huệ chầm chậm nói thêm. “Ta chỉ là con thứ, với việc cơ mật cũng không được cho biết nhiều.” Chỉ là anh ta dùng Nguyễn Phúc Tín lôi kéo người con nuôi khờ khạo của Po Chongchan về với mình, không ngờ lại có những rắc rối sau này. Chưa lợi dụng được Tước, đã phải cho gã đi.

“À… Lão gia của tôi nói, ngài ấy đã từng rất hy vọng.” Nhè nhẹ thở ra, cô gái rung chiếc vòng trên tay, nói trong tiếng chiêng trống rộn ràng. “Tiên phụ của ngài là người ôn hòa, nếu người không mất sớm, có thể mọi việc đã không xấu đi như bây giờ.”

“Chúng tôi đến tìm ngài cũng chỉ vì hy vọng ngài giữ được ý chí của tiên phụ.” Cô gái đan hai tay trên bàn, thấy Nguyễn Phúc Huệ đã đưa mắt nhìn sang. Đôi mắt sáng của cô gái như cười. “Ngài hẳn cũng cảm thấy, có lẽ mọi việc nên có một phương hướng khác chăng?”

“Ta cảm thấy?” Nheo mắt nhìn cô gái, Nguyễn Phúc Huệ hạ giọng, mỉm cười. Anh ta lại ngoảnh nhìn đám xiếc, nhàn nhạt nhún vai. “Các người biết ta cảm thấy cái gì?”

Cô gái cau mày, như định nói rồi lại thôi. Uống cạn bình rượu, Nguyễn Phúc Huệ xuống lầu, trở về xe ngựa. Đi ngang qua cửa xe, anh ta ghé tai xà ích thì thầm. Khi xe ra khỏi Tây Phong lầu, đèn ngoài cửa đã bắt đầu được thắp. Ngồi trong xe, Nguyễn Phúc Huệ khoanh tay nhìn ra khe cửa, đôi mày hơi nhíu lại. Cô gái đối diện cũng có cùng một thái độ, tuy có vẻ tập trung lắng tai nghe hơn nhìn.

Xe chạy vòng ra cánh đồng trống chứ không hướng về thành, cũng không phải lối về Chiêm dinh. Qua khoảng rừng thưa, xe đột ngột chạy nhanh chừng một dặm, rồi rẽ ngoặt vào rừng, giấu mình sau cành lá đan dày. Chờ một lúc, người trong xe nghe có tiếng vó ngựa đi qua dồn dập.

“Có người theo dõi.” Cô gái chợt nói, quay nhìn Nguyễn Phúc Huệ, trong mắt ánh lên tia tinh quái giữa bóng tối lù mù. “Ngài có muốn xem đó là ai không?”

Người trên ngựa mặc áo thanh cát hơi sờn, đội nón vành rộng che gần hết mặt. Chạy một lúc vẫn không thấy bóng chiếc xe phía trước, gã kìm cương, ngoảnh đầu nhìn quanh. Mùa thu, trời tối rất nhanh, cuối tháng không trăng, thoáng đã giơ tay không nhìn thấy ngón. Thở dài, chầm chậm quành lại trên con đường tối một lúc nữa, kẻ cưỡi ngựa đành ra roi, giục ngựa hướng về phía bên kia cánh đồng.

Vượt qua quãng đồi xen lẫn rừng, gã tìm đến một làng chài ven sông. Làng chài nhỏ, chỉ có chừng chục căn nhà xây cột chống trên mặt nước, những chiếc thuyền cột ngay bên dưới sàn nhà. Có một ngôi nhà được dựng hơi tách ra, ánh đèn vẫn còn hắt qua khe cửa. Kẻ vừa đến xuống ngựa, bước lên thang mà gõ vào cửa theo ám hiệu đã định. Tiếng gõ đáp lại trong nhà báo cho gã vào.

Căn nhà nhỏ chia thành hai gian, hầu như trống trải ngoài vài tấm lưới đánh cá giăng phơi trước cửa sổ nhìn ra sông và vài rương hòm nhỏ đặt trên chiếu, sau lưng Như Yên. Nàng đang cầm một món đồ chơi bằng bạc, không đặt nó xuống mà chỉ liếc mắt qua kẻ vừa mở cửa vào. Gã cũng không nhìn đến nàng mà quay đầu, hướng ánh mắt về góc phòng. Trên chiếc chiếu còn lại, tên thanh niên khoanh tay dựa vào tường, nhắm mắt như ngủ, nghe tiếng động liền mở mắt. Râu tóc hắn đã được chỉnh trang gọn gàng, sắc diện so với trước hầu như không đổi khác.

“Lão Tứ,” Thấy kẻ vừa vào chỉ trừng mắt nhìn kẻ trong góc, Như Yên liền cười gọi. “Sao về sớm vậy?”

“Chúng… nửa đường biến mất.” Khó khăn để rời mắt khỏi hắn, càng khó khăn hơn để mở miệng, lão Tứ nói trong cổ. Như Yên hơi nhíu mày, bỏ món đồ chơi xuống mà đứng dậy. Nàng bước qua lão Tứ, mở cửa nhìn lên trời. Đêm không trăng sao, bầu trời đầy mây tối sẫm. Nàng nghe tiếng lao xao bằng linh tính hơn là nhận biết. Tiếng lao xao nho nhỏ, như thể lẫn vào tiếng động của đêm.

“Cẩn thận!” Bất chợt, lão Tứ hét lên, nhảy tới chụp tay Như Yên kéo về phía sau. Đồng thời, nàng thấy mình bị đẩy ngã từ bóng đen lao ra từ trong góc, chỉ kịp thấy ánh sáng lóe ngang qua nơi nàng vừa đứng như làn chỉ mảnh.

Mũi phi đao nho nhỏ cắm ngập vào tường, chuôi vẫn còn rung.

Từ trong tay lão Tứ, những mũi dao nhỏ phóng ra thành chùm, lao thẳng về bóng tối trước gian nhà. Những con dao bắn đi rồi trở ngược về, như thể chỉ chém vào không khí.

Như Yên ho khẽ khi lớp bụi trên sàn nhà tung lên đầy mặt. Thấy lão Tứ chuẩn bị phóng ra ngoài, nàng vội gọi lại, lắc đầu.

“Khoan đã!” Nàng nói, đảo mắt nhìn quanh rất nhanh, rồi ngoảnh đầu ra cửa mà nói lớn. “Ngươi đến đây chỉ để gặp ta. Ngươi biết giết người thì chẳng lẽ ta không biết?”

Chỉ nghe ‘tách’ một tiếng, hắn đã nghe lưỡi thép lành lạnh cạ vào cổ. Cô gái mà hắn vừa kéo lại lạnh lùng đẩy hắn ra, vừa kề dao vào cổ hắn vừa trừng mắt nhìn vào bóng tối.

“Ra đây!” Nàng cười nói, ngữ điệu lại ngọt ngào khó tả. “Ngươi không dọa ta được đâu.”

Không có một tiếng động.

Chỉ thấy ánh sáng lấp lóa như từ thinh không bay xuống, chiếc khăn lụa thêu vàng ngọc rực rỡ xuất hiện trước cửa căn nhà. Khi chân cô gái chạm xuống sàn gỗ, mới nghe tiếng vòng trên tay nàng kêu ‘đinh’ một tiếng khe khẽ.

“Chiêm Dao Luật.” Như Yên mỉm cười, hoàn toàn không có vẻ ngạc nhiên. Dao Luật cũng không che mặt. Chẳng nhìn qua lão Tứ, nàng ta bình thản bước vào phòng, ánh mắt dừng lại trên con dao đặt trước cổ hắn.

Như Yên cũng chẳng vội rút dao về. Nàng trở sống dao nhịp vào cổ hắn, cười tươi như hoa.

“Ta đã nói là ả sẽ tìm ngươi thôi mà. Tình son ý sắt nhỉ?” Nàng vừa nói vừa bĩu môi. Dao Luật liếc mắt qua nàng, cười nhẹ.

“Thôi bày trò đi, cô muốn gặp ta làm gì?” Đến nhổ con dao ghim trên vách, Dao Luật nói mà không nhìn ai. “Đã sớm biết ta ở đây, còn định giả vờ? Bắt được Mạc công tử rồi mới nghĩ đến uy hiếp ta trao đổi?”

“Ai bảo ta bắt hắn trao đổi?” Như Yên chớp mắt, ngữ điệu đột nhiên thay đổi. Nàng rút dao về, cười hì hì mà ngồi xuống cạnh bên, chống tay lên vai hắn. “Là hắn tìm tới ta, chúng ta hòa giải với nhau, cô tự nhiên ở đâu chạy đến phá rối. Chứ ta làm sao biết cô ở đâu đi đâu mà cho người theo dõi hay dụ cô đến đây?”

“Này, ngươi nói có phải không?” Thúc khuỷu tay vào hông hắn, Như Yên hất cằm. “Giải thích cho Dao Luật cô nương đi chứ. Ngươi đến đây chỉ để tìm ta, cô ta lại xồng xộc đến bảo ta bắt ngươi kìa.”

“Công tử…” Như Yên chưa nói hết, Dao Luật đã sốt ruột đưa mắt nhìn sang, ánh mắt chạm vào mắt hắn. Hắn nhè nhẹ gật đầu, thấy vẻ kinh ngạc lạ lùng thoáng qua gương mặt Dao Luật. Nàng thốt trong cổ. “Nhưng cô ta… với A Ban…”

“Ta làm gì?” Như Yên nhướn mày, nghiêng đầu nhìn Dao Luật. “Không biết chuyện mà nói bậy, người ta gọi là đặt điều đấy, Dao Luật cô nương. Ta đã bảo, cô có xấu bụng thì giữ lại cho cô, đừng nghĩ xấu rồi đổ riệt cho người khác, suy bụng ta ra bụng người. Ta bị cô hãm hại, bị các người ức hiếp, rốt cuộc các người đổ lỗi cho ta là sao? Đến chuyện riêng của ta, cô cũng không để yên mà phải hại ta đến cùng mới vui sao, Dao Luật cô nương? Cô biết rõ ràng cái gì thì nói ra, đừng có thừa cơ lấp lửng, đổ tiếng oan cho ta…”

“Thôi đi!” Lần này, lại Dao Luật nóng nảy ngắt lời Như Yên. Nàng nhìn lướt qua tay Như Yên vẫn giữ chặt lấy tay hắn, rồi thở ra, nhìn lên trần nhà. “Vậy ra Mạc công tử cho cô biết hành tung của ta?”

“Thôi vờ vịt đi.” Như Yên lại bĩu môi cười. Nàng đỡ hắn lại chỗ ngồi cũ, lắc lắc đầu mà nói qua vai. “Các người thừa biết Tước là người của ai, lúc sai phái gã thì lại chẳng nghĩ đến việc định thừa cơ lôi ta ra mặt? Các người chỉ đang chạy loanh quanh diễn ta xem.

“Tất nhiên ta cũng biết ý các người, nên ta cứ đến.” Nhún vai, Như Yên để hắn ngồi dựa vào tường, tựa lưng vào vai hắn mà nhìn Dao Luật vẫn đứng giữa phòng. “Ta mà không đến, từ nay khó sống nổi. Các người cũng cần có ta mới hoàn thành được kế hoạch của mình… Ít nhất, là với cháu của ta. Có nên gọi nó vào không?”

Câu nói cuối, Như Yên hướng về cửa mà nói lớn. Mọi người trong phòng dường giật mình nhìn ra, thấy kẻ đã đứng dưới thang chẳng biết từ lúc nào. Nguyễn Phúc Huệ thản nhiên kéo tà áo bước lên nhà, cúi đầu thi lễ với Như Yên.

“Cô cô, đã lâu không gặp.” Anh ta vẫn mỉm cười như thể họ đang đứng trong phủ đệ tại Phú Xuân. Như Yên đáp lại bằng nụ cười hòa nhã tương tự.

“Ta vẫn còn món lợi tức năm trước chưa kịp đưa cho cháu. Tất cả là tại bọn họ.” Nàng hất cằm về phía Dao Luật, tỏ vẻ bất mãn rõ rệt. “Lần này cô ta lại còn định để cháu ở ngoài, xem ta có sơ hở thất thố gì thì ra tay trừ khử đấy phải không?”

“Một khi đã biết là cô cô, sao cháu còn dám làm gì?” Nguyễn Phúc Huệ vẫn nở nụ cười trơn chuội, lắc đầu. “Chuyện cô cô bị bắt cóc làm mọi người đều lo lắng, không ngờ cô cô đã trốn ra được, thật là may. Nhưng cũng vất vả cho cô cô quá…”

“Không sao, nhờ thế mà ta biết được nhiều chuyện, cũng quen biết được cô nương này.” Như Yên xua tay cười. Nàng đưa mắt nhìn lại một lần nữa những người trong phòng, nụ cười mở rộng. “Xem nào, ở đây ta có những ai? Một sứ giả Chân Lạp, Chiêm Thành; một thân tín của triều đình Đại Thành, từng là tướng quân Chân Lạp; một người có tí teo ảnh hưởng tới việc cơ mật của Nam Hà; và một tông thất dòng chính của chúa. Đủ để lập một triều đình nho nhỏ rồi đấy nhỉ? Mà nếu chưa đủ thì ta lập sau cũng được.”

Như Yên bổ sung thêm một câu sau một khắc ngẫm nghĩ. Những người còn lại đưa mắt nhìn nhau, không ai vội lên tiếng. Dao Luật nhìn hắn vẫn hướng mắt về phía cửa sổ trổ ra sông, gương mặt không biểu thị lấy một thái độ nào.

Thấy ánh mắt Dao Luật, Như Yên ngoảnh đầu lại, kéo tay áo hắn.

“Này, nói gì đi chứ.” Nàng cau mày, hướng mặt hắn về phía mình. “Ngươi bảo muốn ta ở bên ngươi, rồi bỏ cho ta lo liệu mọi sự như thế đấy à?”

“Ta… đã bảo không rõ việc ở đây, tùy nàng.” Hắn hạ giọng thì thầm, tuy hiểu tất cả mọi người đều nghe được. Như Yên nghiêng vai để ánh sáng soi đến, gương mặt hắn hiện rõ với người bên kia phòng.

“Người này…” Nguyễn Phúc Huệ thận trọng lên tiếng, nửa như ngạc nhiên nửa như vỡ lẽ. Sự việc ồn ào mấy năm trước về vị tướng của Đại vương Chân Lạp, anh ta cũng nghe qua. Kẻ bằng hữu cũ là Trương Thiêm Lộc cho anh ta biết không ít tin tức. Dù sau dạo ấy, Nguyễn Phúc Huệ đã được điều về Quảng Nam, không rõ việc xảy ra khi chúa Nghĩa mất, lời đồn đại trước đó cũng biết được mấy phần. Với thái độ của hai người trước mặt, sự việc dường như đang rõ rành rành.

“Kẻ chuyên gây họa.” Như Yên dằn dỗi xoắn tay áo hắn khi quay đầu lại. “Hắn gây họa nhiều đến nỗi bây giờ mọi việc bung bét hết cả. Bên Chân Lạp, Chiêm Thành lẫn Nam Hà, cả một phần triều đình Đại Thành đều muốn xẻ thịt hắn ra tế voi. Ta chẳng có yêu cầu gì, chỉ muốn bình ổn sống vui vẻ một chút cũng không được.”

“Cô cô định…” Nguyễn Phúc Huệ lại bỏ lửng câu nói, hơi ngoảnh đầu nhìn Dao Luật. Nàng ta vẫn khoanh tay đăm đăm hướng mắt về phía người ngồi sau Như Yên.

“Chúng ta hợp tác.” Mím môi, Như Yên quyết định nói thẳng. “Cô Dao Luật muốn triều đình Nam Hà chừa đường sống cho triều đình Chiêm Thành, ta muốn có tự do, hắn muốn được ân xá. Ở đây, chỉ cháu mới có khả năng cho chúng ta những điều ấy.

“Ngoài ra, còn những lão gia ở Quy Ninh muốn được chút ân huệ trong việc làm ăn, người ở Hội An muốn hất bỏ sự thống trị của họ Hoắc, người trong triều đình muốn đưa ngôi vị trở lại cho dòng chính tiên gia, quân sĩ ngoài biên ải muốn được trở về nhà, chúng dân muốn an ổn… Tất cả đều muốn có điều gì đó, tất cả đều muốn ủng hộ cho cháu.” Thấy gương mặt Nguyễn Phúc Huệ sắt lại, cơ hàm cứng ngắc, Như Yên chầm chậm nói tiếp. “Chỉ có cháu mới khiến mọi sự thay đổi. Chúng ta cần cháu vì cuộc sống của chúng ta, chúng ta sẽ đem cuộc sống của mình phù trợ cháu. Hai anh cháu không có chí lớn, chỉ muốn sống an nhàn. Cháu hùng tài đại lược, xuất thân long phượng, sao lại không muốn kế tục chí khí của cha? Còn ai có thể xứng đáng làm người thay thế vị trí chủ nhân của chúng ta hơn cháu?”

“Cô cô… quá lời rồi.” Nguyễn Phúc Huệ cắn môi lắc đầu, nhưng lời nói rất mỏng. Phía sau anh ta, Dao Luật bước tới một bước. Như Yên hướng mắt về phía nàng ta, khóe môi cong cong.

“Cô Dao Luật tìm tới hầu gia chẳng phải cũng chỉ vì thế? Cô bắt cóc ta lúc trước chẳng phải cũng chỉ vì thế?” Như Yên cười. “Chẳng lẽ cô không muốn hợp tác với ta?”

“Ta không tin cô.” Dao Luật nói mà môi hầu như không động. Thấy vẻ mỉa mai thoáng qua mắt cô gái bên kia phòng. Nàng ta lại choàng tay qua người bên cạnh, lắc đầu.

“Cô Dao Luật, trước nay cô là người thế nào, cô hiểu được cái gì?” Như Yên cười trong cổ. “Cô chỉ đi tính kế người khác, tình cảm cũng bị cô đem ra làm công cụ, đàn ông bị cô đùa trong tay – Rồi cô nhìn đâu cũng thấy người ta tính kế nhau. Cô hy sinh vì chí lớn, vì chúng dân thiên hạ, quê hương xứ sở, làm sao mà hiểu được tình cảm bình thường của nhi nữ?”

“Cô là nhi nữ?” Dao Luật lành lạnh nhếch môi, chợt gật đầu. “Cô đúng là nhi nữ, một đứa trẻ con. Luôn không nghĩ đến người khác mà chỉ biết ý thích bản thân. Không biết mình đã làm được gì cho người khác chưa nhưng chỉ yêu cầu người ta phải hết lòng vì một mình mình. Chỉ giỏi yêu cầu hành hạ người khác chứ bản thân chịu uất ức tí tẹo là làm mình làm mẩy. Cái gì cũng muốn cho thật nhiều, bắt người khác chịu đựng mà bản thân không chịu chấp nhận khiếm khuyết của người. Tính cách ấy, quả Dao Luật này không hiểu được.”

“Cô…” Như Yên ngẩn người, má nàng thoáng đỏ. Nàng nghiến răng hầm hừ. “Cô hùng tâm đại đảm, tấm lòng rộng lượng hy sinh vì chúng dân thiên hạ thì tìm chúng dân thiên hạ mà hy sinh. Ta nhỏ nhen chỉ giỏi bắt nạt hành hạ người thì ta tìm người để cho ta bắt nạt mà nhỏ nhen hành hạ. Nước sông không phạm nước giếng, huống gì là đến cậu ông trời như cô?”

“Thôi đi.” Lần đầu tiên trong đêm này, hắn đành phải bất đắc dĩ chủ động lên tiếng. Vừa nhẹ kéo tay Như Yên về phía sau, hắn vừa ngoảnh về Dao Luật mà nhỏ giọng. “Việc Như Yên vừa nói, hẳn các vị còn cần suy nghĩ cho thấu đáo. Đêm đã khuya rồi, nơi này tồi tàn chật hẹp lại nhiều người lạ, không tiện ở lâu, mọi người nên về bàn tính suy nghĩ. Chúng tôi ở đây đợi.”

Ném về phía Như Yên cái nhìn cuối cùng, Dao Luật mới chầm chậm gật đầu, lại kề tai Nguyễn Phúc Huệ thì thầm. Nguyễn Phúc Huệ liền cáo từ Như Yên, cùng Dao Luật rời khỏi. Lão Tứ cũng đi theo tiễn họ một quãng.

Tiếng xe ngựa vừa rời đi, Như Yên liền giật tay khỏi tay hắn. Nàng vuốt lại tóc, vẫn còn có vẻ tức giận. Lắng tai nghe một lúc nữa, khi mọi thanh âm đều đã yên ắng, hắn vừa mở miệng định nói thì ánh bạc trong tay Như Yên đã lấp loáng nhoáng qua cổ hắn. Hắn không tránh con dao nhỏ phóng qua, để lại vệt xước dài trên cổ.

“Ngươi…” Thấy vết thương của hắn, dường như chính Như Yên mới là kẻ giật mình. Nàng bối rối cau mày. “Sao lúc nãy ngươi nhảy ra lôi được ta?”

“Gần chết thì đuôi thằn lằn cũng giẫy.” Hắn đưa tay quẹt máu trên cổ, lấy làm may mắn vì vết thương chỉ xước ngoài da chứ không sâu. Như Yên không biết võ công, ra tay lại chẳng biết khống chế nặng nhẹ. “Ta thấy nàng bị nguy hiểm sao ngồi yên được?”

“Thấy mình bị nguy hiểm thì không phản ứng?” Như Yên nhướn mày. Nhưng nàng cũng nhanh chóng lấy khăn lau vết thương, rắc thuốc lên cổ cho hắn. Nàng nghĩ đi nghĩ lại rồi đâm giận, lầm bầm trong cổ. “Thế ta mới bảo ngươi ngồi yên, ả chỉ dọa thôi chứ làm gì ta?”

Khi cúi đầu, lẫn khi quay lưng lại, nàng đều không nhận ra ánh mắt hắn.

Ngồi yên, đó là tất cả những gì nàng nói, yêu cầu và bắt hắn làm. Độc dược đã không được giải, để hắn trở thành hình nhân cho nàng chơi trò múa rối.




Hồi 35: Con cờ
Monday, August 6, 2012 Author: Trường An

Ba dòng sông Chiên Đàn, Ô Da và Thu Bồn chảy qua vùng Duy Xuyên, đổ về phía Đông đến bãi Đông An thì hợp thành dòng Chợ Củi nằm giữa ranh giới Duy Xuyên và Diên Phước, ra đến cửa Đại Chiêm. Hai vùng Diên Phước, Duy Xuyên nổi tiếng về nghề nuôi tằm dệt lụa, địa thế thuận lợi của dòng sông khiến một khu chợ sầm uất được hình thành nơi đây. Bến đò dọc ngang những dòng nhánh sông, bãi sông tại Thanh Chiêm trở thành trung tâm cho các chợ lớn nhỏ: Thi Lai, Trà Nhiêu, La Đáp, Cẩm Lệ, Đông Ba, Bình Long, Phong Thử, Trà Nha, Điện Châu… Khu dinh phủ Chiêm Thành cũ nay được sửa sang thành trấn dinh của các quan lại Quảng Nam nằm ở xã Cần Húc, huyện Duy Xuyên[1], qua đò đến sông Kẻ Thế và Bao Nghĩa, vòng tới Thanh Chiêm. Trên bãi sông Chợ Củi, người họp đông đúc, vải lụa muôn màu như hoa gấm dệt trên những quán hàng. Hai bên dòng sông, những bãi dâu xanh mướt trải dài quanh những xóm làng lạch cạnh tiếng khung dệt, những dải lụa phất phơ bay trên khung phơi che cả nhà cửa trong làng. Đi trên lối vào làng tưởng như lạc giữa những dải lụa, sa, nhiễu, lãnh, đũi muôn sắc muôn hoa, sợi tơ còn óng ánh trong nắng. Đám trẻ con bên sông đang nướng ve ve, mùi thơm bay lừng khắp bãi.

Đến cả người trên lầu cao dường như cũng phảng phất thấy mùi hương ấy theo gió len vào rèm trúc.

“Sống ở đây có phải hơi quá ồn ào?” Hé tấm rèm nhìn ra bãi sông, Nguyễn Phúc Huệ nói qua vai. Sau lưng anh ta, người thanh niên thấp bé phốp pháp cười.

“Đây là quê bà ngoại chúng ta, kể cũng là đất lành. Về nơi này vui thú điền viên, mùa xuân bắt chim mía, mùa thu săn cá trôi, cũng rất bận rộn.” Nhón tay cầm chiếc bánh đậu trong đĩa, bóc lớp giấy gói mà đưa lên nhấm nháp, Nguyễn Phúc Thông lại nhẹ lắc đầu. “Nơi chợ quê này cũng đâu thể ồn ào bằng phố thị?”

“À…” Một bên khóe môi động khẽ, Nguyễn Phúc Huệ nhìn lại một lần nữa đám trẻ con rồi quay về bên bàn. Khu nhà của Nguyễn Phúc Thông được xây dựng giản dị như một nhà vườn nhỏ, góc sân có lầu ngắm trăng nhìn ra sông. Ngồi xuống bên bàn, Nguyễn Phúc Huệ lại ngoảnh đầu nhìn qua cửa bên kia của lầu đến bãi dâu mướt mát xanh quanh làng. Câu hỏi của anh ta hầu như chẳng liên quan đến câu trước. “Tước đâu rồi?”

“Gã hẹn anh ngoài bãi dâu, vào nhà không tiện.” Nguyễn Phúc Thông nói nhanh. Miếng bánh đậu xanh vẫn còn trong miệng, anh ta nhìn qua người anh trai, giọng nói hơi hạ xuống. “Kẻ này không đáng tin, anh còn sai gã đi làm gì?”

“Không dùng được việc này thì dùng việc khác.” Cúi đầu chỉnh tay áo, Nguyễn Phúc Huệ cười. “Vả lại, là người ta đến tìm gã nhờ liên lạc với ta, không phải ta sai gã đi làm việc.”

“Như thế mới đáng lo.” Nguyễn Phúc Thông lắc đầu. “Anh còn chưa nhìn thấy tấm gương Hoắc Phương đó sao?”

“Ta không phải như gã họ Hoắc đó.” Nguyễn Phúc Huệ bật cười. “Mà y cũng không phải vì thế mà bị tội, chẳng qua trong thời điểm này, y trở thành con cờ, chốt thí của người ta đó thôi. Nếu muốn làm phản, y làm phản lâu rồi. Chẳng qua lúc chính sự rối ren thì kẻ thuận nước đẩy thuyền cũng nhiều, kẻ muốn thừa cơ đâm dao sau lưng nhau càng lắm. Chiến sự với người Chiêm phức tạp, thể nào cũng có kẻ trục lợi, Hoắc gia liền trở thành con bài cho người ta mặc cả. Bây giờ mọi kẻ đang tự hỏi nên đánh con bài này thế nào? Hoắc gia là thân tín của tiên chúa, bắt tội chúng cậy thế làm càn, thậm chí câu kết ngoại bang, dẫn đến hậu quả ngày hôm nay, ắt chẳng phải chỉ một mình Hoắc gia bị tội – Mà chúa công hiện tại mới là người thiệt hại nặng nhất. Cha cậu ta thuộc dòng thứ, lên ngôi chỉ vì sự lựa chọn của tiên gia, cậu ta bây giờ lại làm toàn những việc hồ đồ. Số phận của Hoắc gia bây giờ phụ thuộc vào diễn tiến ở Phan Rang, người Chiêm chịu bình định thì thôi, chứ nếu có sự gì xảy ra, thêm một cái án của Hoắc gia, ngai vị của Phúc Chu khó vững. Người ta bây giờ đang âm thầm tìm thêm chứng cứ, chờ đợi thời cơ. Phúc Chu phái Phúc Nhuận xuống Quảng Nam cũng là để ngăn ngừa điều tiết tình hình, thăm dò liệu định với các phe phái, có thể là chỉnh cả án cho Hoắc gia. Phúc Chu bây giờ thân mình còn khó giữ, bảo toàn sao được cho Hoắc Phương? Chỉ có thể tránh người ta lấy họ Hoắc làm cớ mà đánh thẳng lên Phú Xuân.”

“Nói như vậy, Tiến quận công cũng…” Nguyễn Phúc Thông chớp mắt, thấy người anh trai lắc đầu, nụ cười vẫn ở trên môi.

“Nếu thế thì Tiến quận công đã cho giam Hoắc Phương vào ngục rồi, lần chần làm gì? Ông ấy có làm thế thật, Phúc Chu cũng chẳng dám nói gì, chỉ có thể đưa người đến năn nỉ định án lại. Nhưng có người đến báo, Tiến quận công bỏ qua được sao? Hẳn ông ấy cũng bị đốc thúc nhiều lắm.”

“Nhưng Phúc Nhuận lại không cản việc soát nhà?” Nguyễn Phúc Thông vẫn cau mày thắc mắc.

“Đã bảo, Hoắc gia là một con bài.” Nguyễn Phúc Huệ cười trong cổ. “Phúc Chu bây giờ chắc cũng đang suy tính nên làm gì với nó. Kẻ khác muốn đánh vào Hoắc gia với tội câu kết ngoại bang, há cậu ta lại không thể dùng Hoắc gia xử tội tất cả những kẻ ‘câu kết’ với Hoắc Phương? Từ những lão gia ở Quy Ninh cho đến bọn quan trong Tàu Ty cục, thậm chí quan lại cao cấp hơn nữa, nghe Hoắc Phương bị tội đã chẳng thấy lạnh lưng? Kẻ khác có thể đe dọa cậu ta, Phúc Chu chẳng lẽ không có cách dọa lại? Hoắc Phương bây giờ như cá nằm trên thớt, chỉ chờ xem con dao nào bổ xuống. Mà cũng có thể, vì nắm giữ quá nhiều bí mật như thế, cuối cùng lại chẳng có kẻ nào dám động vào y.”

“Mọi kẻ còn đang định giá?” Dường vỡ lẽ, Nguyễn Phúc Thông chớp mắt. Miếng bánh đậu xanh rơi vụn lả tả giữa những ngón tay tròn trịa của anh ta. Nguyễn Phúc Huệ không trả lời, đưa mắt nhìn trời.

“Bọn người ấy tới tìm ta lại có việc gì?” Anh ta hỏi, nửa như tư lự, nửa như cười.

Nụ cười ấy vẫn vướng vất bên khóe môi Nguyễn Phúc Huệ khi anh ta khoanh tay nhìn người thanh niên đang đi qua khoảng đất phơi lụa. Dáng vóc thấp bé của gã như bị nuốt chửng giữa khoảng đất trời rộng lớn, cái áo vải thô trở nên lạ lùng giữa gấm lục sa hồng. Nắng gió đã làm da gã đen thêm, khiến sắc diện vốn đã tối ám lại càng khó nhìn ra đường nét. Một bộ dạng không phản ánh được tuổi tác thật, càng không phản ánh được con người thật của gã.

“Tước.” Nguyễn Phúc Huệ lên tiếng trước khi gã thanh niên vạch tấm lụa đang bay vào mặt mà tiến lại. Từ sau khi trở về từ phủ đệ của công nữ Ngọc Phương, gã đã tự tiện đổi tên, và Nguyễn Phúc Huệ đã dễ dãi đồng ý. Cái tên của một hạ nhân chẳng quan trọng, huống hồ là những cái tên kỳ dị mà nàng công nữ nọ thích đặt cho thuộc hạ của mình.

Từ sau biến cố xảy ra với chúa Nghĩa, phủ đệ của công nữ Ngọc Phương cũng giải tán khi nàng ta quyết định đến Quảng Nam sinh sống, gã thanh niên này liền quay về phủ đệ của Nguyễn Phúc Huệ cầu xin anh ta nhận lại. Việc của Nguyễn Phúc Tín qua đã lâu, không ai còn nhắc, vả lại cũng muốn nghe ngóng tin tức của Po Chongchan, Nguyễn Phúc Huệ đồng ý. Quả nhiên, chẳng bao lâu sau liền nghe tin Chiêm Thành đánh Bình Khang, rồi vua Bà Tranh thua trận, Po Chongchan đưa người về Chân Lạp. Biết Po Chongchan rời đi, Tước xin về phương Nam đưa tiễn, gần đây mới trở lại Quảng Nam – Cùng với tin nhắn của một số người.

Gã cúi mình, lầm bầm một câu chào. Vẫn khoanh tay, Nguyễn Phúc Huệ chỉ gật đầu. Đưa mắt nhìn quanh, anh ta nói nhanh ngay khi Tước vừa thẳng người lên.

“Thế nào?” Không nhìn Tước, Nguyễn Phúc Huệ hỏi trống không. Mím môi, gã thanh niên nhỏ bé có đôi mắt lồi hơi kỳ dị gục gặc đầu.

“Họ bảo rất vui mừng khi chủ nhân đồng ý gặp. Ba hôm nữa, hẹn ở Tây Phong lầu.” Gã nói cũng nhanh như chủ nhân, thấy Nguyễn Phúc Huệ quay lại, nhướn mày.

“Tây Phong lầu? Người như ta tới Tây Phong lầu?” Anh ta hỏi, cười khẽ. “Gặp ở một nơi phô trương như thế, nói được cái gì?” Dù Tây Phong lầu đông đúc hỗn tạp, có thể ra vào mà không mấy ai để ý, cũng là nơi tai vách mạch rừng hạng nhất. Hơn tám phần những tin đồn vừa thật vừa giả trên cảng Hội An là từ Tây Phong lầu truyền ra.

“Họ bảo muốn kết bạn với chủ nhân là chính, năm tháng còn dài, việc còn nhiều phức tạp, không có gì phải vội.” Tước mềm mỏng nói, dường như đã chuẩn bị sẵn câu trả lời. Nguyễn Phúc Huệ nheo mắt nhìn gã một lát, rồi phất quạt trong tay.

“Thôi được, nhưng nhắn với họ, ta cũng không rảnh rỗi nhiều thời gian để suốt ngày đi uống rượu kết bè kết bạn.” Anh ta nói, phất tay áo định đi. Tước vội gọi lại, lấy trong áo ra một bọc vải, dâng hai tay lên cho Nguyễn Phúc Huệ.

“Đây là quà mọn ra mắt của họ.” Gã vốn không khéo nói, chỉ lúng búng trong miệng. Nguyễn Phúc Huệ gật đầu, không mở túi vải ra mà cất nó vào tay áo, rời đi cũng nhanh như khi đến.

Nhìn quanh một lúc, Tước cũng cúi đầu bỏ về hướng bãi dâu.

“Bỏ ra!” Sau những tấm lụa treo trên bờ sông chợt vang lên tiếng nói của một cô gái. Nấp trong đám cỏ cao đến ngang đầu, khuất sau lớp lớp lụa dày, cô gái ăn mặc như một thôn nữ hất bàn tay của người đàn ông râu tóc tua tủa che gần hết mặt bên cạnh. Nàng quắc mắt. “Chưa bị phát hiện thì ta đã chết ngạt rồi.”

“Trước khi đi thám thính phải thăm dò địa hình.” Vẫy bàn tay bị một vết cắn đỏ tấy, hắn vẫn điềm tĩnh nói. “Ai lại rúc vào một đám cỏ lông lẫn hạt bay tứ tung thế này?”

“Nếu không phải ngươi chiếm chỗ bãi dâu, ta sao phải tới đây?” Cô gái vẫn bừng bừng tức giận mắng. Mặt mũi lem luốc bùn, làn da nàng ở những chỗ hở ra đã đỏ hồng. Hắn đưa mắt nhìn sang, chợt mỉm cười.

“Hóa ra nàng nhìn thấy ta trước?” Nên nàng ta chạy sang bãi cỏ này tránh hắn. Tiếc là hắn đến đây không phải để xem hai kẻ kia bàn tính sự gì.

Nàng liếc mắt qua hắn, đưa tay che mũi mà đi khỏi đám cỏ. Vào mùa thu, bông cỏ bay trắng khoảng đất dưới bờ sông. Không buồn gạt cỏ bám đầy tóc tai quần áo, hắn đi theo nàng về hướng bãi dâu. Nàng đã cẩn thận đem theo một rổ bòn bon, trông có vẻ như vừa từ chợ về. Hắn với tay bốc lấy một trái, bóc vỏ ăn.

“Chua quá.” Ném nửa trái bòn bon còn lại xuống ruộng, hắn lắc đầu. “Thứ trái này ở Đại Thành rất ngọt, lại to nữa…”

“Ngươi đến đây làm gì?” Đã đi đến giữa đồng, Như Yên nóng nảy ngắt lời hắn. Hắn vừa mở miệng, nàng đã cắt ngang lần thứ hai. “Ngươi đang ở chung với Chiêm Dao Luật, phải không?”

“Đừng nói ngươi thấy Tước ngoài đường nên bám theo.” Mím môi, Như Yên quay người nhìn thẳng vào hắn, mắt bừng bừng lửa giận. “Ngươi là hạng nào mà lọt vào được Hội An? Chiêm Dao Luật xuất hiện hôm trước, hôm sau thấy mặt ngươi. Người vừa gặp Chiêm Dao Luật, ra cửa đụng phải ngươi. Các ngươi định phá ta đến lúc nào?”

“Ta không định…” Hắn vừa nói, Như Yên đã hừ mũi.

“Ta bắt ả, ngươi thả. Đánh nhau, ngươi về phe ả chống lại ta. Ả ở đâu là có ngươi ở đó. Bây giờ các người ở Chân Lạp thành bè thành bạn, bày mưu tính kế xâm nhập vào đây. Ta có ngu ngốc mới đi tin ngươi.” Chỉ tay vào mặt hắn, nàng gầm gừ trong cổ. “Đến lúc ta phát hiện ra nơi các ngươi lẩn trốn, cho pháo đến san bằng, đừng bảo ta không nói trước.”

“Nàng…” Hắn định nói, nhưng lại không biết nói sao với cơn giận của Như Yên. Dù những lời buộc tội của nàng hoàn toàn vô lý. Thả Dao Luật là Ngô Lãng, truy diệt toán người của Hoàng Tiến là quân Nam Hà, Như Yên mới là người theo dõi Dao Luật, hắn chỉ thuận tiện mà lòng vòng quan sát xung quanh. Dù biết hai người chẳng ưa thích nhau, Dao Luật đã làm gì khiến Như Yên giận đến mức chỉ nói tên nàng ta đã thịnh nộ tới bốc hỏa? Nàng như đã hoàn toàn trở về bộ dạng tiểu yêu tinh không nói lý lẽ ngày xưa, tất cả lời giải thích của hắn không lọt vào tai nàng một chữ.

Vả lại, hắn có gì để giải thích? Ta chỉ tới tìm nàng, sự thật đơn giản đó đơn giản đến mức chẳng ai tin.

“Nàng…” Hắn vừa mở miệng định nói lần nữa, một làn chớp bỗng xẹt ngang qua đuôi mắt. Theo bản năng, hắn vội nắm lấy Như Yên, lăn tròn vào ruộng dâu. Mấy mũi tên nữa đuổi theo bọn hắn, liên tiếp như được bắn cùng một lúc. Hắn chỉ vừa kịp ngẩng đầu để nhìn ra hướng tên đang bắn từ một lầu cao dựng trong làng.

Tên vẫn không ngớt bắn theo. Ôm lấy Như Yên, hắn lăn qua ruộng dâu, rơi xuống dòng sông cạnh đó. Lẩn dưới bóng cây cùng bèo, bọn hắn bơi ra chiếc thuyền phía xa. Trong thuyền không có người, chỉ có lưới đánh cá cuộn vung vãi trong khoang, hẳn là của một đoàn ngư dân đang đi chài cá gần đó. Khu vực này gần chợ Củi, người đi lại đã đông hơn, bọn hắn cho rằng kẻ trên lầu không dám đuổi theo, liền nấp vào trong khoang thuyền chài trống.

Đến lúc quay nhìn lại, Như Yên mới thấy trên tay hắn găm một mũi tên. Mím môi, hắn nhổ mũi tên đi, cẩn thận bẻ nó thành gỗ vụn ném xuống nước.

“Hẳn kẻ ở trên lầu đó thấy chúng ta.” Xé vạt áo buộc nơi bị thương, hắn nói như giải thích. “Nhưng hình như nhìn thấy tình trạng của chúng ta, gã cho rằng ta chỉ là nam nữ tình cờ đi lại gần đó, định dùng mấy mũi tên ‘giải quyết’ cho xong.”

“Ngươi làm sao để bị thương được vậy?” Dường không để ý đến lời hắn, Như Yên nhìn vết thương trên tay hắn, nhướng mày. Giọng nàng vừa tò mò vừa chế giễu.

“Bị bắn một phát thì tốt hơn.” Hắn mỉm cười. “Thấy người bị bắn rơi xuống sông, đỡ mất công thắc mắc.”

“Tên có độc thì sao?” Như Yên vẫn nhìn chằm chằm vào tay hắn. Hắn nhíu mày.

“Có lẽ…” Lời chưa nói hết, khoang thuyền đã chợt chao nghiêng đi trong cơn đau buốt thấu tới tận óc.

Trong bóng tối, hắn nghe tiếng nước chảy. Tiếng nước chảy dưới lưng, róc rách len qua bờ đất đá và những chiếc cọc cắm trên bờ cạn, thanh âm khiến hắn ngỡ mình đã trở về khu nhà ven dòng Mekong phương Nam. Ngay cả tiếng côn trùng, ếch nhái kêu vang, mùi ẩm của nước trộn lẫn với bùn trong không khí cũng tương tự. Có cả mùi khét của dầu đốt đèn. Khi hắn cử động bàn tay, có thể cảm thấy bề mặt nham nhám của lớp gỗ làm sàn. Mở mắt, thứ đầu tiên hắn nhìn thấy cũng là xà gỗ trên mái cao ám khói.

Chỉ có cảm giác tê buốt lâm râm trong kinh mạch cho hắn biết việc đã xảy ra là có thật.

“Ngươi cả ngu ngốc cũng tăng tiến vượt bậc.” Thấy hắn mở mắt, người bên kia phòng hừ lạnh. “Hay ngươi cho rằng mình là Kim Cang bất tử?”

Vừa nói, nàng ta vừa bước lại gần hắn. Căn nhà gỗ nhỏ hẳn được dựng trên sông, bóng tối đã buông phủ trong sự yên ắng của đêm khuya. Trên tay nàng, hắn thấy sợi dây cột mấy chiếc bao vải quen thuộc, liền cười.

“Thì đã giải được độc đó thôi.” Mấy thứ ngãi mà Như Yên từng cho, hắn vẫn luôn giữ bên mình. Vừa rồi hẳn cũng nhờ chúng mà độc dược được giải.

“Thế mới bảo ngươi ngu ngốc. Có thứ giải được mọi loại độc à?” Như Yên cau mày, chân đá vào hắn đang nằm trên sàn. “Lần này ngươi trúng Thiên Tiên Tử, nếu không phải ta từng biết loại độc ấy trước đây, cho người bào chế thuốc giải sẵn, thứ cỏ rác này không ngăn được ngươi xuống gặp Diêm Vương đâu.”

“Thiên Tiên Tử?” Hắn nhíu mày, lục lọi trí nhớ trong đầu óc vẫn còn lùng bùng. Cái tên này sao lại nghe quen kỳ lạ?

Như Yên cũng không buồn giải thích thêm. Nàng nhìn lại lần nữa những chiếc bao nhỏ trong tay rồi ném xuống cho hắn. Cơn giận vẫn ở đầu mày nhưng khuôn mặt nàng đã dịu đi mấy phần. Hắn vẫn không đưa tay chạm đến mấy cái túi vải, chỉ chăm chăm nhìn nàng. Đây là lần đầu tiên hắn thấy lại diện mạo thật của nàng sau chừng ấy thời gian. Thấy ánh mắt của hắn, Như Yên hừ khẽ trong cổ mà quay đi. Hắn định chống tay ngồi dậy, nhưng thân người bải hoải không chút sức lực.

“Không cần tốn công vô ích, ta chưa giải hết độc trong ngươi đâu.” Đã quay lưng, Như Yên lại nghe hắn loạt soạt cử động mà lên tiếng. Ngồi xuống bên chiếc đèn góc phòng, nàng cười nhạt. “Ngày mai ta cứ thế này mà cho thuyền ra cửa Đại Chiêm, ném ngươi lên tàu về Chân Lạp. Sẵn tiện xích cổ ngươi lại, đưa chìa khóa cho thuyền trưởng đem về cho anh trai ngươi.”

“Nàng…” Hắn chớp mắt. Tiểu yêu tinh này quả thật đã nói là sẽ làm. Lọt vào tay nàng ta thì khó yên bình mà thoát. Hắn đành đổi hướng. “Biết ta đến cùng Chiêm Dao Luật, nàng không nghĩ ta cũng có ích lợi gì sao?”

“Không.” Như Yên với tay lấy cái lược trên chiếu, vừa chải tóc vừa lãnh đạm trả lời. “Ta thấy đủ, cũng biết đủ những kẻ nhờ vả ngươi làm việc nhận được loại kết quả gì.” Nhẹ thì hắn chuồn mất giữa đường, nặng thì hắn khiến kết quả xoay chiều ngược lại. Hết lần này đến lần khác, những việc nàng đặt vào tay hắn đều xôi hỏng bỏng không. Nàng đã phải trả bằng tính mạng của không chỉ một người.

Hắn im mất một lúc.

“Lần này nhờ ta mà nàng mới thoát.” Việc can hệ đến vận mạng, hắn đành làm lơ xem như không biết ý nàng vừa nói, mặt dày mày dạn tranh cãi. “Ta dù không làm nên việc gì, cũng có thể bảo vệ cho nàng…”

“Rồi lăn ra như con heo chết.” Như Yên nhếch khóe môi, vẫn không ngẩng lên. “Nếu bây giờ ta cho người tới giết Chiêm Dao Luật, ngươi chẳng phải là kẻ đầu tiên chạy đến cứu ả ta?”

Hắn lại thấy mình không còn điều gì để nói. Chải xong mái tóc, Như Yên đi kiểm tra lại bếp lửa giữa phòng. Nàng ăn mặc như phụ nữ làng chài, áo đơn quần cộc, khoác áo dày mùa thu. Mấy năm này vất vả, nàng có vẻ càng nhỏ bé hơn.

“Nàng ghét nhìn thấy ta đến vậy?” Một lúc, hắn đành thở dài. Biết rõ đây là câu không nên hỏi, cũng không đáng hỏi, hắn vẫn thử. Chèo kéo được nàng mở miệng trò chuyện thì còn có cơ thuyết phục, vẫn hơn giận dỗi im lặng cả đêm.

Y như rằng, Như Yên ném về phía hắn một ánh mắt hầm hầm nổi giận.

“Ghét, vô cùng ghét.” Ném miếng than đất vào bếp lửa, nàng giậm chân đứng lên về chiếu ngồi. “Ngươi cũng quên cái ý định ngu xuẩn bám dính lấy ta, kéo ta về cái làng chài của ngươi đi! Ta không bao giờ theo ngươi.”

“Ta cũng nghĩ thế.” Hắn khe khẽ thở ra, hướng ánh mắt về trần nhà. “Đáng lẽ ngay từ lúc nàng kể cho ta chuyện lúc nhỏ, ta đã phải nghĩ ra điều đó rồi.

“Nàng bảo, đây là chỗ nàng muốn tới. Nhưng rồi nàng không vừa ý một số chuyện, một số người, nàng chưa làm quen được, nàng mới nảy ra ý định bỏ trốn. Nếu lúc đó nàng theo ta, có thể bây giờ nàng sẽ hối hận.” Giọng hắn lành lạnh đều đều như tiếng nước chảy dưới sàn. “Như chuyện hôm nay, đáng lẽ nàng không cần phải tự mình đi thăm dò, nàng vẫn cứ đến. Những việc không cần đến nàng, nàng vẫn cứ làm, tự ném mình vào cả những nơi không ra gì. Ngay cả chuyện với ta lúc trước cũng vậy. Chống lại nó hoặc tham gia vào nó, nàng mới cảm thấy vui.”

“Ta cũng không định bảo nàng theo ta. Ta đã bảo, chỉ không an tâm mà đến đây tìm nàng. Rồi lại không an tâm thấy nàng ở những nơi như thế này. Ta…” Hắn cũng vốn không nghĩ tới nàng lại trở thành như thế. Trước đây, hắn chỉ nghĩ nàng ở lại Phú Xuân hoặc Hội An, điều động đám người dưới làm việc. Đến khi phát hiện ra nàng ở trong núi, dấn thân vào một việc mờ ám mà Dao Luật nhất định không chịu tiết lộ, hắn mới giật mình. Đến đây, thấy hành vi cùng cách sống của nàng, cách nàng đẩy người thân thuộc cuối cùng ở nơi này như Hoắc Phương vào hiểm cảnh; gặp nàng, nghe nàng nói, hắn cảm thấy trong nàng là hố sâu hun hút. Hố đen đang lớn dần, như thể rồi sẽ nuốt chửng nàng, hoặc nàng sẽ sa chân vào nó.

Nghe những gì nàng nói, hắn không thấy giận, cũng chẳng buồn. Có lẽ là lo lắng, cũng có lẽ là thương tâm.

Bao nhiêu tháng năm, nàng trong mắt hắn cũng vẫn là cô gái nhỏ ngày nào, không thể phân rõ giữa đáng thương hay đáng tiếc.

Bên kia phòng, nàng cúi đầu, bóng lửa chập chờn trong mắt. Khi căn nhà đã rơi vào im lặng hồi lâu, nàng chợt lên tiếng, với tiếng cười rất khẽ.

“Ngươi muốn ở lại đây thì làm cho ta một việc.” Nàng ngẩng nhìn hắn, mắt cong cong. Ngồi trong bóng tối, nàng nhợt nhạt như một sinh linh thuộc về bóng tối. Tiếng cười của nàng mềm như nước, lạnh như nước.

Nàng luôn luôn biết kẻ nào có thể dùng. Bất kể đó là ai.

 

 

Chú thích:

[1] Trong thời Tự Đức, vùng này là xã Văn Đông huyện Diên Phước, tiếp giáp với xã Thanh Chiêm. Địa giới hai huyện Diên Phước và Duy Xuyên được phân chia khác nhau trong các thời kỳ.

 




Hồi 34: Lời nói
Wednesday, August 1, 2012 Author: Trường An

“Lâu thuyền kích cổ đáo Ô Long
Bách nhị sơn hà thử yếu xung.
Liệt chướng huyền nhai thanh xúc xúc,
Mạn thiên phách lãng bích trùng trùng.
Tiên triều sự nghiệp truyền di tích
Nam quốc hưng đồ chí cựu phong.
Nạp cấu tàng ô hà hải lượng,
Cử gian vô xứ bất triều tôn.”[1]

Nam quốc hưng đồ chí cựu phong…” Khe khẽ đọc bài thơ đề trong bức tranh treo trên vách, quạt nhẹ đập vào lòng bàn tay, người thanh niên mặc cẩm bào chợt mỉm cười. “Nếu bài thơ này được làm đã lâu, thì quả thật là…”

“Người mang mệnh đế vương hầu hết đều là ngọa hổ tàng long, thân không nuôi chí cao thì cũng là nghĩa lớn, thế mới là phúc phận của dân.” Phía sau, một thanh niên khác mình mặc võ phục nhà quan, đầu đội kim quan, lưng đeo kiếm bạc cười nói theo. Người đứng trước liếc mắt nhìn lại, phảng phất ý cười trong mắt.

“Em Nhuận lâu không gặp, lên chức Chưởng cơ, quả nhiên nói năng có khác.” Ngồi xuống bên bàn trà gần cạnh, thanh niên mặc cẩm bào cười. “Nghe nói chúa công rất tin dùng em?”

“Lúc nhỏ là bạn chơi, chúa công còn trẻ, khi vào triều không tránh khỏi đôi lúc thân mật quá trớn, lại làm cho người khác chê cười. Em tuổi còn trẻ, công lao không, tài năng không có nơi kiểm định, chỉ nhờ phúc cha tập ấm, chúa công biết dùng vào đâu mà tin?” Người thanh niên trẻ cười, ngẩng nhìn bức tranh trên tường, đưa đầu ngón tay chạm vào nét mực đen nhánh. “Anh Huệ nhận ra thư pháp của tiên chúa?”

“Nét vẽ thì ta không rõ, nhưng chữ viết thì ta nhận được. Người trong triều nào cũng phải nhìn thấy mấy lần.” Nâng tách trà ngún khói lên môi, thanh niên mặc cẩm bào lơ đãng trả lời. “Hoắc gia có thứ này trong nhà, giống như kim bài miễn tử.”

“À, thế…” Người thanh niên trẻ như định hỏi rồi lại thôi, chỉ chăm chú quan sát bức tranh dài chừng một sải. Tranh vẽ cảnh cửa biển với thuyền lầu, vọng gác, vách núi quanh co, sóng lẫn với trời. Góc tranh có một bài thơ không đề lạc khoản, nét bút viết theo lối Chân, đơn giản hữu lực. Lại gần, dường cảm thấy bức tranh tỏa ra một mùi hương dìu dịu, không giống mùi mực, cũng chẳng phải mùi hoa.

Bức tranh này vốn không được treo, chỉ cuộn lại để trong hộp kín, có lẽ vì thế mà mùi hương vẫn còn lưu cữu. Trong cuộc khám xét Hoắc gia, người ngồi bên kia – Chưởng cơ Nguyễn Phúc Huệ - đã phát hiện ra nó, đem về Chiêm dinh. Mà người cùng đến với anh ta, Chưởng cơ Nguyễn Phúc Nhuận, tới bây giờ mới được thấy.

Đã biết là thủ bút của tiên chúa, anh còn đem về đây làm gì? Nguyễn Phúc Nhuận vốn có ý định hỏi. Lời anh ta chưa thốt ra hết, Nguyễn Phúc Huệ đã biết ý, liền mỉm cười.

“Ta vốn định xem ý Hoắc Phương khi đem bức tranh này đi. Nhưng y chẳng có phản ứng gì cả.” Thổi lớp khói trên tách, Nguyễn Phúc Huệ lắc đầu. “Thái độ của y cứ như đang xem kịch vui, ngồi chờ xem bọn ta làm gì được y vậy. Như chuyện bức tranh này, hẳn họ Hoắc đang chờ chúng ta hai tay dâng trả lại.”

Có thể phải thế thật, Nguyễn Phúc Nhuận quay đầu nhìn lại người anh họ, nhưng không nói ra. Anh ta bước lại ghế đối diện bên bàn, tự rót cho mình một tách trà.

“Hoắc Phương không phải kẻ nóng nảy hồ đồ, dù ta có phát hiện chứng cứ tạo phản trong Hoắc gia, y cũng cứ khoanh tay đứng nhìn thôi.” Nhìn lớp nước sóng sánh trong tách, Nguyễn Phúc Nhuận trầm ngâm nói. “Nếu chưa có ý của chúa công, y sẽ không làm chuyện bứt dây động rừng.”

“Nhưng hẳn y hiện thời cũng đã thấy nóng gáy rồi.” Nguyễn Phúc Huệ bật ra tiếng cười khẽ. “Ai chẳng biết thời thế thay đổi, thân phận cũng đổi thay? Tiên chúa che chở cho họ Hoắc để mượn tay quản người, nhưng đến đời sau thì có khi lại trở thành ‘Hoắc gia cậy thế được sủng ái mà làm loạn’. Chuyện y dùng tiền bạc nhúng tay vào Tàu Ty cục, thao túng mua quan bán tước, nếu bị truy cứu đến cùng thì còn lôi ra được bao nhiêu việc, từ buôn lậu hàng cho đến chuyển lậu người. Chưa cần đến mớ khế ước vay mượn, chiếm lậu đất đai, cầm cố bất hợp pháp…, ta chỉ cần gọi Hoắc Phương đến hạch tội một buổi, uy tín Hoắc gia đã chẳng còn gì. Ta có tha về thì người đòi nợ cũng kéo đến chật mấy dãy phố, ép chết y mà chẳng cần ta động tay.”

“Vẫn là còn phải chờ ý quan Trấn thủ và chúa công.” Mặt không đổi sắc, cũng chẳng thể hiện thái độ nào, Nguyễn Phúc Nhuận nhũn nhặn cười. Nguyễn Phúc Huệ đưa mắt nhìn qua anh ta, chỉ im lặng nhếch môi.

‘Ý của quan Trấn thủ và chúa công’, Nguyễn Phúc Nhuận nói, nhưng chỉ đúng một nửa. Quan Trấn thủ Chiêm dinh Nguyễn Đức Bảo là một cựu thần công lao to lớn đã được phong đến Tiến quận công, cũng khiến chúa phải e dè tôn trọng mấy phần. Dù vậy, Nguyễn Phúc Nhuận này tuy chỉ là một Chưởng cơ nhưng lại là con trai của cố công tử Nguyễn Phúc Thuần oai danh lừng lẫy một thời, từng ra trận cùng Nguyễn Đức Bảo. So về tình cảm cá nhân, ngay cả Nguyễn Phúc Huệ cũng không có tiếng nói với quan Trấn thủ Chiêm dinh bằng cậu ta. Sự có mặt của cậu ta ở đây hẳn chẳng phải tình cờ.

Dù quan Trấn thủ Chiêm dinh có ý gì, cũng phải vượt qua viên Chưởng cơ thân tín của chúa – điều mà cậu ta chắc chắn không thừa nhận.

Cậu ta chắc hẳn cũng không nói ra ý định của mình với kẻ thương buôn bên sông Hoài kia.

Cũng không định hỏi thêm, Nguyễn Phúc Huệ chống tay lên bàn, nheo mắt quan sát bức tranh trên tường. Nét mực đen thẫm dường như đang lấp lánh trong nắng hắt vào.

“Người nuôi chí cao mới là tạo phúc cho dân? Hay là ngược lại?” Chợt nhẹ cười, Nguyễn Phúc Huệ như nói với ánh nắng trên tranh, không nhìn đến người đối diện. “Vua Nghiêu Thuấn muốn nhường ngôi cho người tài chứ không phải con mình, người ta mới xem là minh quân. Đến Khải nối ngôi Vũ, người đời đã xem là đức kém đi một bậc. Mà nhà Hạ sinh ra, thiên hạ từ đó mới bắt đầu đại loạn. Một kẻ lên ngôi, cả họ làm vua. Cái gọi là chí hướng, chẳng biết mấy phần vì thiên hạ, mấy phần vì tư lợi? Rốt cuộc có kẻ nào làm vua mà lại truyền ngôi cho người họ ngoại đâu?”

“Quy chế đã sinh ra thế thì phải theo, không ắt sẽ loạn.” Nguyễn Phúc Nhuận vẫn khiêm nhường nói, tay khoanh trong áo. “Không phải có ngôi vua mới có người muốn làm vua, không phải vì có cái lợi mới có người tư lợi. Xưa nay nước chảy chỗ trũng, người nào cũng đều muốn làm theo chí của mình. Vũ cũng đâu phải muốn truyền ngôi cho Khải, là tự Khải khởi binh cướp lấy, cái lệ cho thiên hạ bắt đầu từ đó. Nếu không phải là người đánh giết người đoạt ngôi thì cũng là cha truyền con nối. Nước không thể một ngày không có vua, chính là đạo lý ấy. Không có vua, người người sẽ giẫm đạp lên nhau, từ cao đến thấp, nhà dột từ nóc rồi.”

“Em Nhuận còn nói thiếu, nếu không phải ở trong dạng ấy thì hẳn lại là loại rối gỗ bù nhìn, danh bài trưng lên cho kẻ khác làm vua, ví dụ như ở phương Bắc.” Nguyễn Phúc Huệ lành lạnh cười, lắc đầu. “Ta trách mắng chúa Trịnh, nhưng nghĩ lại, một tên chăn ngựa thì làm gì có thể nghĩ được việc ‘mượn thiên tử lệnh chư hầu’, đem giăng bức bình phong nhà Lê cho họ Trịnh? Căn nguyên sâu xa là từ lúc nào? Họ Nguyễn này nói mình trung thành với nhà Lê, nhưng là thật à? Năm nào Thái Tông mờ ám chết đi, Lê Nghi Dân giết Nhân Tông, bảo rằng Nhân Tông là con tư sinh của Thái hậu, rồi kẻ bị khép tội giết Thái Tông lại được minh oan vô tội. Như vậy, Thái Tông bị kẻ nào sát hại? Nhưng rồi trăm quan mượn cớ báo thù cho Nhân Tông, giết Nghi Dân, lập Thánh Tông, lòng trung thành của họ nằm ở đâu vậy? Hay là cái bè phái đã theo Nhân Tông ấy thấy không tin tưởng Nghi Dân, quyết không chịu thiệt? Thánh Tông minh oan cho người nhưng lại không truy cứu cái chết của cha, chẳng phải vì chính cái triều đình lập ngài ấy cũng là bọn họ?

“Ông Nguyễn Đức Trung phò vua lên ngôi, thân làm quốc cữu, họ Nguyễn danh thế không ai sánh được. Đến chừng Trường Lạc thái hậu bị Uy Mục giết chết, cũng lại họ Nguyễn làm binh biến, có phải vì Uy Mục đã giao lại quyền bính cho họ ngoại bên mình, truy diệt những kẻ có nguy cơ bị lợi dụng để soán ngôi? Bảo Uy Mục thất đức, Tương Dực có hơn gì, sao không ai phế bỏ, chống lại ngoài bọn dân đen? Đến khi Trịnh Duy Sản giết vua, đánh Trần Cảo, ổn định tình hình, họ Nguyễn lại quay sang đánh nhau với họ Trịnh. Triều Lê đại loạn, họ Mạc tiếm ngôi, lại là họ Nguyễn ở Thanh Hóa cầm hịch Cần vương. Kẻ đứng sau triều Lê từ thịnh đến suy, kẻ ‘ngoại thích’ lấy vua làm bình phong cho mình, tùy ý phế lập, lại chẳng phải là họ Nguyễn? Từ Thánh Tông cho đến Chiêu Tông, thậm chí có thể là cả Thái Tổ, Thái Tông, ở đâu chẳng có cái bóng họ Nguyễn phủ lên? Họ Trịnh bây giờ chẳng qua là nông dân thô mộc, tham quyền tham lợi không biết điểm dừng, bị ta ở đây mắng mỏ; chứ trong triều Lê này, từ kẻ được gọi là minh quân cho đến hôn quân, đều giấu những thứ có miệng mà không nói được. Nghệ thuật chơi rối gỗ sau ngai vàng, họ Trịnh cũng chỉ học lại mà thôi.[2]

“Việc trên đời thế nào là tốt, xấu? Quan trọng là biết giới hạn. Chuyên quyền để ổn định triều cương, làm những việc mà vua không làm được, đó là chuyện tốt. Tham quyền tham lợi để vơ vét cho mình, không nghĩ đến việc lớn, thế là có hại. Nhà vua nào cũng cảnh giác với ngoại thích, nhưng lại luôn cần có ngoại thích.” Nguyễn Phúc Nhuận chớp mắt, im lặng hồi lâu rồi chậm rãi nói. “Nhà vua rốt cuộc cũng chỉ là một người bằng xương bằng thịt, nào phải thánh thần. Sau khi họ Nguyễn bị họ Trịnh đánh lui về Thanh Hóa, triều Lê đại loạn, các tướng đánh lẫn nhau, không ai nghe ai, dẫn đến họ Mạc quyền ngày càng cao, cuối cùng đoạt cả ngai vàng. Thiên hạ chia đôi, loạn nối tiếp loạn. Người gọi ‘loạn thần’ vốn cũng là đa nghĩa, có thể là kẻ dẹp loạn, cũng có thể là kẻ gây loạn. Ngoại thích có thể là lấn quyền vua, cũng có thể là vây cánh của vua; có thể đoạt ngôi, cũng có thể giữ ngôi; có thể an định, cũng có thể gây loạn. Thời bình thì gọi là công thần thế gia, thời loạn thì bị gọi thành quyền thần tặc tử. Người ngây thơ chỉ biết trắng là trắng, đen là đen, đem tốt xấu gán vào trong chữ, mới không hiểu rằng kết quả trước mắt đấy là minh chứng, chứ nào phải là lời nói.”

“Mà có thể, họ Trịnh cũng chẳng làm sai.” Nguyễn Phúc Huệ cười nói qua bàn tay đặt hờ trên môi.

Nguyễn Phúc Nhuận đưa mắt nhìn lên, nhưng lần này không trả lời.

Nguyễn Phúc Huệ cúi đầu uống cạn trà trong tách. Ngồi quay lưng về phía cửa sáng, gương mặt anh ta khuất nửa trong bóng mờ. Nhịp đầu ngón tay trên thành sứ, đôi mắt vẫn không rời khỏi bài thơ trên bức tranh, Nguyễn Phúc Huệ gật gật đầu.

“Quan trọng là kết quả, chứ chính trị cũng chỉ là trò lừa gạt bằng lời nói thôi, phải không?” Nguyễn Phúc Huệ nói, rất nhỏ, dường như Nguyễn Phúc Nhuận cũng không nghe được. Như thể anh ta chỉ đang tự hỏi mình.

***

Khi tiếng trống thu không vừa dứt, người lính cuối cùng rời khỏi Hoắc gia trang, cánh cửa nặng nề từ từ khép lại. Hoắc Phương dừng chân dưới lan can trông ra khoảng vườn nhỏ, nhìn bóng chiều tím sẫm đang phủ xuống những bụi hoa cúc đủ dạng đủ màu được trồng xen với cỏ. Chập tối, các loài hoa đêm bắt đầu bung cánh, hương dìu dịu tỏa lan. Sen trên hồ đã tàn hết, để lại những cụm lá vàng rời rã. Con chim muộn bay lên từ dưới mái thủy đình, đập cánh lao xao.

Bóng tối phủ nhòa những vạt cỏ bị dấu chân giày xéo, những cành hoa nghiêng đổ, đá cảnh xô lệch. Những con chim trong dãy lồng treo dưới hiên sau mấy ngày xao xác sợ hãi đã mệt mỏi bơ phờ không buồn động đậy. Ngay cả bộ bàn ghế đá trong thủy đình cũng đã bị dời đi để kiểm tra. Đèn lồng chưa kịp thắp, chuỗi đèn treo từ buổi Trung thu đã đứt mất một nửa, đang thểu não lay động trong gió. Trong nhà, tiếng xôn xao vọng khắp các dãy phòng khi gia nhân sắp xếp bãi chiến trường mà toán lính lục soát để lại. Không đến mức như những buổi khám xét nhà cửa của kẻ bị cáo giác bình thường khác, toán lính dưới sự chỉ huy của hai vị Chưởng cơ thuộc dòng tông thất đã không đập phá đồ đạc, cướp bóc hay đánh người trong nhà. Tuy vậy, cuộc lục soát trong mấy ngày liên tiếp đã không để chừa lại một tấc đất phân gỗ nào chưa bị chạm tới.

Người trong nhà sau mấy ngày im lặng nặng nề đã bắt đầu vừa làm việc vừa lao xao ồn ào. Sự xuất hiện của toán lính từ Chiêm dinh khiến không ít kẻ kinh hãi, cả các thủ hạ, bạn bè của Hoắc gia từ nơi khác cũng đã chạy tới ‘tiếp ứng’, không phải chẳng có người định lao vào cản toán lính kia. Y đã phải ngăn tất cả bọn họ lại – một việc khiến y bận rộn đến mức chẳng có thời gian xem thứ gì đã bị phát hiện trong nhà. Hiện tại, y cũng chưa vội vào hỏi han, chỉ dựa vai vào cột lan can mà nhìn hoàng hôn chuyển dần vào tối trong mảnh vườn và chiếc hồ nhỏ. Bầu trời phản chiếu trên mặt hồ loáng thoáng sắc tím xanh rạng rỡ, nhanh chóng biến thành một dải sương xám buồn bã. Một con nhái nhỏ bằng hai ngón tay nhảy qua mấy chiếc lá sen tàn, rơi tõm xuống nước. Bầu trời trên mặt hồ lập tức biến hình loang loáng ánh đèn nhòa nhạt.

Có lẽ vì mải nhìn theo con nhái, y đã không để ý đến phía sau, chợt ngoảnh lại khi cô gái còn cách y khoảng vài bước chân. Hiểu Lam bê một khay trà nhỏ trong tay, thấy y liền cười.

“Hoắc bang chủ, uống trà không?” Vừa nói, nàng vừa đặt khay trà xuống lan can, lấy cái ly nhỏ đang đeo bên hông chứ không dùng ly trong khay. Nàng vốn rõ y không thích dùng chung vật dụng với kẻ khác.

“Cám ơn.” Đón ly trà nóng mà Hiểu Lam đưa tới, Hoắc Phương nhẹ giọng gật đầu. Mấy ngày này, khi y bận rộn tiếp khách bên ngoài, Hiểu Lam là người canh chừng việc lục soát bên trong. Sự việc xảy ra khiến người đều bối rối, chỉ có Hiểu Lam nhanh chóng phân cử những cô gái tùy tùng của mình tỏa ra các phân viện, sắp xếp trấn an người, tiếp đãi quan quân. Nàng mềm mỏng lịch duyệt, tư thái đoan trang, cũng khiến người khác vừa vì nể vừa tôn trọng mấy phần, không gây khó dễ. Nhấp môi, y lại hỏi. “Bọn họ nói gì không?”

“Không.” Hiểu Lam lắc đầu. Hai vị quan rút đi, toán lính sau một ngày canh gác trong nhà cũng được lệnh lui về Chiêm dinh, chẳng ai tỏ một thái độ nào. Ngay cả với những rương hòm mà họ khiêng khỏi gia trang. “Quản gia đã ghi lại những vật bị tịch thu, giờ đang kiểm kê những đồ bị mất một lần nữa xem còn sót gì.”

“À…” Hoắc Phương thở ra rất khẽ, như định nói rồi lại thôi. Biết những thứ bị tịch thu sẽ cho y biết cách đối phó với những câu hạch hỏi, chứ không phải là tình trạng sắp tới. Tránh được tội chết chứ khó tránh tội sống. Chỉ nội việc bị quan quân tràn đến xét nhà cũng đã là vết nhơ khó tẩy. Nhất là, vị quan ấy thậm chí chưa cần hỏi ý thượng cấp để làm việc này. Trong sự lo lắng của các thủ hạ và đồng bạn, y linh cảm được không ít ý hả hê và dò xét. Lúc này, hẳn mọi kẻ đang dỏng tai chong mắt chờ đợi hành động tiếp theo của quan Trấn thủ.

“Chưởng cơ Nguyễn Phúc Nhuận là người của chúa công, hay ta đến hỏi ý thử?” Cúi đầu một lúc, Hiểu Lam nhỏ nhẹ đề nghị. Hoắc Phương ngẫm nghĩ rồi lắc đầu.

“Lúc này trăm ngàn ánh mắt đang nhìn, đừng đến tìm anh ta vội.” Vả lại, y nghi ngờ rằng Nguyễn Phúc Nhuận đã chẳng ngăn cản quan Trấn thủ cho lính đến Hoắc gia. Nói là chờ đợi hành động của quan Trấn thủ Chiêm dinh, chẳng bằng thẳng thắn rằng đó là chờ đợi thái độ của Nguyễn Phúc Nhuận.

Dù y đã từng trà rượu vài cuộc, hàn huyên đôi lúc, hợp tác mấy dịp với chúa Nam Hà hiện tại, cũng chẳng thể cho rằng cậu ta sẽ che chở Hoắc gia theo cái cách mà cha cậu ta đã làm.

Nhất là khi y mất dấu Như Yên, không thể tìm ra bóng dáng nàng ở đâu.

“Như Yên cô nương đâu rồi?” Hiểu Lam cũng có cùng điều suy nghĩ với y. Hoắc Phương lại lắc đầu. Sau mấy ngày ăn no uống đủ ở Hoắc gia, Như Yên liền biến mất, thay thế bằng toán lính đến từ Chiêm dinh – vì một tai họa mà nàng ta là kẻ gây ra. Y đã đợi, nhưng Như Yên còn chẳng cho người tới đánh tin. Và rồi, trong y đang có một nghi hoặc ngày càng lớn: Y đã lại trở thành món tế thần của tiểu yêu này.

Nhưng đây không phải là những trò chơi vô thưởng vô phạt ngày xưa. Lần này, y có thể sẽ phải trả giá rất đắt. Y cũng chẳng nghĩ nàng ta xem đây là một trò vô thưởng vô phạt.

Từ Quy Ninh trở lại, nàng ta đã mang theo nhiều mưu tính mà y không lường được. Cái thế lực đứng sau nàng ở Quy Ninh, cái thế lực mà nàng đang muốn nhờ cậy lẫn thao túng, dù là Linh lão hay Ngụy lão, cũng đều có chung một ước muốn: Hất Hoắc gia khỏi Quy Ninh, Phú Yên, Phan Rang. Chiêm Dao Luật muốn tranh thủ sự ủng hộ của bọn họ, Như Yên hẳn nhiên cũng không để yên. Một lời hứa xa xôi chẳng bằng cái lợi ngay trước mắt, nàng ta muốn ra tay triệt y ‘làm bằng’ cũng chẳng lạ. Mà điều kiện Chiêm Dao Luật đặt ra cũng chỉ để Như Yên thuận nước đẩy thuyền. Nàng biết rõ quan hệ của y với những lực lượng tranh tối tranh sáng, những thế lực mà nàng cũng có phần góp chân vào. Nàng biết rõ đường đi nước bước trong gia trang này. Y đã bị tung hỏa mù mới không nghĩ ra.

Đúng hơn, y vốn chưa bao giờ nghĩ, Như Yên sẽ dồn y đến chỗ chết. Y đề phòng nhiều kẻ, ngoại trừ nàng.

“Dù có bị theo dõi, ta cứ đến thăm dò ý quan Trấn thủ một phen, cũng là chuyện bình thường mà.” Sau một hồi nghĩ ngợi tính toán, Hiểu Lam nói. “Ông ấy ở Chiêm dinh đã lâu, với chúng ta cũng đâu phải là người lạ, lễ tết vẫn đưa quà mừng nhau luôn. Dò xem thái độ của ông ấy thế nào, chúng ta có thể thừa cơ định liệu…”

“Chu cô nương,” Hoắc Phương chợt mỉm cười, ngắt lời Hiểu Lam. “Cô đã đến đây bao nhiêu năm rồi?”

“Hình như là bảy, tám năm.” Hoắc Phương nhè nhẹ gật đầu, nụ cười lành lạnh vẫn phảng phất trên môi. “Có còn nhớ, lúc ấy ta đã hỏi: Cô đến đây để làm gì? Như Yên cũng từng bảo, cô ngốc quá.

“Lúc ấy, hình như ta đã nói: Con người chỉ có thể quan tâm đến mình trước tiên. Cái gì là thân nhân, đồng bạn, thậm chí cả huyết thống, cũng chẳng theo ý mình muốn được. Nếu ta không hợp ý người, người cũng sẽ chẳng theo ý ta. Nhưng người ta vẫn đối với nhau đầu môi chót lưỡi, vẫn che giấu ngọt nhạt với nhau, chưa đến lúc lật bài thì chưa biết mặt. Thứ cô cần biết không phải là thái độ hiện tại của họ đối với mình ra sao, mà là mình có giá trị gì với họ. Mục đích, động cơ, lý do, hoàn cảnh, tâm tính, lựa chọn… cô phải nhìn được những điều ấy để tìm ra sự thật, không phải là mấy lời nói gió bay.” Đặt ly trà xuống khay, y không nhìn đến Hiểu Lam mà hướng mắt lên khoảng trời đã đổi màu tím sẫm, bóng tối đã lan đến đám cỏ dưới hàng hiên. “Chẳng phải là họ phản bội cô hay gì hết, chỉ là vì cô không nhìn ra, hiểu lầm mục đích hay lựa chọn của họ đấy thôi. Mai này, khi cô về Vân Nam, gặp lại những người cũ, cần phải thuộc điều đó nằm lòng mới được.”

“Bang chủ…” Hiểu Lam chớp mắt, nhìn lên Hoắc Phương. Y vẫn đang mỉm cười, nụ cười mềm mại nhu hòa, không hướng về ai mà cũng chẳng dành cho ai.

“Cây cao gió lớn, biển rộng sóng nhiều, muốn bảo toàn lấy thân thì ta cũng nên học Tào Tháo rút về Quan Trung xây Đồng Tước đài đi vậy.” Hoắc Phương nghiêng đầu nhìn xuống Hiểu Lam trước khi quay lưng đi về gian nhà chính. “Chiến cuộc phức tạp, quan hệ của ta với Bái Nhật giáo Chiêm Thành không chừng cũng trở thành gai trong mắt người.”

Khi chiến tranh xảy ra, khi đã có kết quả, quan hệ của y với Oc-nha That cũng sẽ đổ vỡ, kéo theo là mối quan hệ với toán người tại Vân Nam. Sở dĩ y vẫn còn lưu dùng toán người tại Vân Nam chỉ vì muốn mượn thanh thế họ liên lạc với Bái Nhật giáo phương Nam. Một mối quan hệ vừa quá nguy hiểm vừa không đem lại lợi ích nào trong ván cờ sắp đến.

Y là một thương nhân, thành thạo theo ý người mà hành động. Có những cuộc trao đổi thua lỗ vẫn nên làm.

Đèn hành lang chưa thắp, Hiểu Lam vẫn chăm chăm nhìn theo bóng áo màu khói lẫn vào thứ ánh sáng nhức mắt hắt từ phía bên kia nhà. Y không còn mặc tang phục, nhưng dáng vẻ chừng ấy năm vẫn không đổi khác.

Y luôn luôn đi trước, không bao giờ nhìn lại phía sau.

 

 

 

Chú thích:

[1] Bài thơ của chúa Nghĩa viết về cửa biển Tư Hiền, dịch nghĩa:

“Thuyền lầu đánh trống đến Ô Long,
Hai trăm năm sông núi này hiểm yếu.
Núi dựng giăng ngang xanh vời vợi,
Bên trời sóng vỗ biếc trùng trùng.
Di tích tiên triều còn lưu lại,
Mưu hưng Nam quốc giấu đã lâu.
Lòng biển bao dung nhơ lẫn tạp,
Trên đời không đâu chẳng triều tôn.”

[2] Họ Trịnh của Trịnh Duy Sản giết Lê Tương Dực, đánh nhau với Nguyễn Hoằng Dụ trước đó không phải là họ Trịnh của chúa Trịnh sau này.

 




Hồi 33: Biến động
Saturday, July 28, 2012 Author: Trường An

Trong ánh trăng, màn sương buông trên sông như dệt bởi muôn hạt cát sáng lấp lánh.

Trong không khí dường thoảng mùi ngai ngái của mưa. Hương hoa cùng hơi đất ẩm luẩn quẩn len vào các khung cửa, thổi qua những lớp màn dày.

Qua những khung cửa và lớp màn dày, gió cũng chỉ còn như hơi thở mơn man nhẹ hẫng. Hương hoa và hơi đất man mác trong căn phòng kín, như có như không. Tiếng đinh đang của chiếc chuông gió dưới hàng hiên như vọng lại từ xa lăng lắc, đều đặn tựa tiếng nước rơi. Một cơn gió lớn chợt thổi mạnh, khiến tiếng chuông rung dồn dập, làn sương duềnh lên, thổi vào phòng làn hơi giá tràn hương lạnh.

Hắn mở choàng mắt trong tiếng chuông vang, nhìn sững vào bóng tối. Ánh trăng mờ nhạt chiếu qua kẽ màn rơi đúng vào khoảng trống trước giường. Ánh sáng như lất phất bay qua theo gió, vệt mờ loáng thoáng chiếu qua bóng tối lúc mất lúc còn.

Nhìn bóng lá in trên màn một lúc lâu, hắn mới rời mắt nhìn lên đỉnh màn. Nghe tiếng gà gáy xa xa lẫn trong thanh âm côn trùng rả rích. Buổi đêm chưa qua nhưng ánh trăng đã mờ, mùi nước ẩm trong không khí càng lúc càng nặng. Hắn nhắm mắt nằm thêm một lúc nữa, đã thấy gió thổi mạnh, mưa bắt đầu lộp độp rơi. Mưa bóng mây vừa qua, lại một đợt sấm ầm ào kéo tới, tiếng gà gáy canh tư lẫn chìm trong mưa vọng xa xa gần gần.

Không thể ngủ lại, hắn liền ngồi dậy, kéo lại áo lên vai, đến bên cửa sổ mở toang. Bóng tối chưa qua nhưng màn đêm đã nhạt, không gian xanh lờ mờ. Nhìn lên màn mưa mù mịt một hồi lâu, hắn đóng cửa sổ. Lại góc nhà lấy nón áo tơi, hắn mở cửa ra ngoài vườn, nhảy qua tường rào ra đường chứ không đến cửa chính.

Căn nhà hắn đang ở nằm trong khu phòng trọ dành cho các thương nhân ngoại quốc ở phía bên kia cảng. Đèn đã tắt hết, thành thị chìm trong bóng đêm, mưa càng phủ lên sắc tối mù mịt. Không đem theo đèn, hắn thẳng một đường đi qua cảng chất san sát các kiện hàng cùng những căn nhà tạm, qua khoảng đất trống dành để họp chợ đến khu nhà có vẻ lụp xụp hơn của thợ thuyền. Trong buổi sáng, khu nhà này ồn ào bao nhiêu, đến đêm tối lại nhếch nhác bấy nhiêu. Nhiều nhà không đóng kín cửa, vang tiếng thở ồ ồ của đám người nằm chen nhau bên trong. Đường đi lầy lội, thoảng mùi bùn rác khăm khắm của những gì thải ra buổi sáng. Hắn dò dẫm đi để không va phải một vài thứ vứt chỏng chơ hay nằm lệch ra giữa đường, hướng mắt nhìn lên để xác định một vài ngôi nhà cao được xây tầng hiếm hoi. Ngoài sòng bạc của chủ nhân Tây Phong lầu, chỉ có một ngôi nhà khác có mái gác lửng, biển hiệu treo dọc trổ lên mái thành một đường thẳng đứng trong đêm.

Trong mưa ào ạt, hắn không khách khí mà dùng tay đập mạnh lên cửa nhà. Đợi một lúc, tấm ván cửa được đẩy hé sang bên, ngọn lửa trên ngọn đèn dầu lạc soi tỏ nửa khuôn mặt người vừa ra mở cửa. Một cô gái khó mà nhìn ra tuổi, mắt nhắm mắt mở, áo mỏng khoác xộc xệch trên vai ló đầu ra. Cô ta chưa hỏi, hắn đã nói ngay:

“Tôi đến mua rượu.” Vừa nói, hắn vừa đặt tay lên rìa cửa, ngăn cô ta đóng sập lại. Cô gái như vừa tỉnh ngủ, nhìn đến bộ dạng hắn rồi màn mưa rầm rập ngoài trời, liền nghiến răng.

“Không bán!” Cô ta có lẽ còn muốn mắng thêm vài câu, nhưng hắn đã nhẹ tay đẩy cô ta sang bên, nhanh như mèo lách qua khe cửa hẹp. Bên trong nhà là một quán rượu nhỏ, bàn đã được dựng sát vào tường. Hắn đến quầy, nghiêng người qua mà nhấc lấy một vò rượu. Cô gái kia lảo đảo quay người lại, rít lên qua kẽ răng, chỉ tay mắng. “Ngươi… Đồ ăn cướp…”

“Lưu manh.” Một tiếng nói phía trên lầu tiếp lời cô gái nọ. Người đứng trên bậc thang nghe như cười. “Nhưng có vẻ đến mua rượu chứ không định cướp. Chị Hồng, để ta tiếp vậy, chị đi ngủ đi. Chưa đủ chuyện hay sao còn gây ồn ào?”

Mấy lời cuối nghe như dỗ dành. Cô gái kia liền phất tay, trừng mắt nhìn hắn rồi đóng cửa, quay vào nhà trong. Cái đèn dầu lạc cũng theo cô ta biến mất, trả lại bóng tối đen đặc. Người trên lầu lại nói như cười.

“Trời chưa tỏ đã đi mua rượu, vậy thì lên đây mà uống.” Không đợi mời, hắn đã cởi áo tơi, đi đến chân cầu thang gỗ. Nghe tiếng loạch xoạch trước khi ánh sáng mờ hắt xuống, soi đường đi lên. Căn gác lửng thấp chỉ đủ để ngồi, bề ngang được chia làm mấy phần, ngăn bằng tường gỗ, cửa che liếp dệt bằng chiếu, mỗi vuông nhỏ hẹp lại được trải tấm chiếu mỏng. Lúc này, mỗi ô chiếu đều có tiếng thở, tiếng ngáy nhỏ như của nữ giới. Người vừa mời hắn lên để ngọn đèn dầu lạc trên cái tủ nhỏ đầu căn gác của mình, uể oải chỉ tay. “Ngồi đó đi!”

Trong ô gác nhỏ hẹp này, chỉ duỗi tay đã chạm phải người đối diện. Hắn đặt vò rượu lên chiếu, khoanh chân ngồi xuống trong khi cô gái mặc áo người Thượng vo tròn cái chăn nhét vào góc. Hắn nhìn khuôn mặt nàng chẳng thay đổi kể từ khi gặp hắn đêm trước, hơi nhướn mày.

Trong mấy ngày này, lính tráng tràn ngập Hội An, kiểm soát gắt gao người qua lại. Dù đã lẩn ở đây, nàng vẫn còn cẩn thận mang lớp mặt nạ này ngày cũng như đêm.

Hoặc giả nàng cũng chỉ vừa trở về hay đang làm việc gì đó. Nàng không có vẻ ngái ngủ, chỉ bực bội. Hắn có thể thấy rõ vẻ bực bội trong mắt nàng khi quay lại.

“Đến đây làm gì?” Nàng hỏi trỏng. Câu hỏi cùng giọng điệu đột nhiên khiến hắn mỉm cười.

“Cô dẫn ta tới đây.” Đúng ra, đêm trước hắn cứ lẽo đẽo đi theo nàng đến tận đầu khu nhà này, cho đến khi nàng lên tiếng đuổi. Nhưng nhìn qua nhìn lại khu nhà một lúc, hắn cũng có thể đoán ra nàng đang ở đâu. Ngừng một thoáng, hắn nhún vai. “Nhà này chẳng phải lúc nào cũng tiếp khách sao?”

Phía dưới là quán rượu, nhưng các phòng lại ngăn ô làm chỗ trọ, thực chất là nơi ở của các cô gái ăn sương. Chẳng sang trọng giàu có được như các tửu lầu, nơi tầm hoan của bọn người bến bãi chỉ đơn giản có vậy. Trong tình hình này, muốn tìm nơi ẩn trốn, nàng quả tình cũng có thể trà trộn vào tận đây, để rồi mỗi tối lại viện cớ ra ngoài tìm khách mà lang thang khắp nơi đến đêm mới trở về. Cũng có thể, đội lốt gái ăn sương, nàng có thể gặp gỡ nhiều kẻ mà chẳng lo sợ bị nghi ngờ.

“À…” Nàng liếc mắt qua hắn, nhếch môi. “Hóa ra là tìm hoa vấn rượu. Không ngờ cũng thật có nhã hứng.”

“Thì sao?” Nhấc vò rượu lên, ngả lưng vào góc tường, hắn mở nắp mà uống. Nhìn lại nàng mím môi cau mày, khóe môi hắn tự động cong lên. “Cô biết gì về ta chứ?”

“Tất nhiên ta không biết.” Nàng trừng mắt, đổi giọng. “Vậy quan khách làm ơn nói rõ ngài thích dạng nào, cao thấp mập ốm ra sao, để ta cho gọi người bồi tiếp.”

“Cô đã nói sẽ tiếp ta.” Hắn chỉ cười. Đổi lại là cái trừng mắt ác liệt hơn.

“Ta đổi ý, giờ ta đi ngủ. Ngươi xuống dưới gọi người, mặc sức làm gì thì làm.” Lôi cái chăn trong góc ra, nàng dùng chân đá hắn. “Hay để ta gọi mấy cô bên cạnh lôi ngươi sang?”

“Ta đến tìm cô.” Biết không thể đùa dai hơn, hắn đành hạ giọng. Trong ánh sáng lù mù, hắn thấy bóng của mọi loại cảm xúc kéo qua mắt nàng như đèn kéo quân. Cơn giận đợt sau lớn hơn đợt trước.

“Xéo!” Nàng gằn giọng, chỉ tay ra phía cửa thang. Hắn khoác lại bộ mặt tươi cười thản nhiên, lắc đầu.

“Nếu biết khách bị một cô nương ở đây đuổi đi lúc trời đang mưa, cô nghĩ người ta sẽ xôn xao chú ý thế nào?” Việc bị người chửi mắng, hắn nghe mãi thành quen, ứng phó mãi thành lệ. Đôi mày cong cong của cô gái trước mặt xếch ngược trên đôi mắt như bốc hỏa. Nàng co chân như định đá hắn lần nữa, nhưng cuối cùng thu chân về, quàng cái chăn lên người lùi ra sau.

“Bao nhiêu năm, sao chỉ có thói lưu manh không biết xấu hổ là tăng tiến?” Nàng lầm bầm trong cổ. Nhưng khoảng không hẹp yên ắng khiến hắn nghe không sót một lời.

“Muốn ta kể cho nghe lý do không?” Hắn cười. Chuyện hắn lập một khu đánh bạc uống rượu bên bờ biển, ngày ngày tróc tiền của người, đến kẻ ‘bằng hữu’ đế vương tính tình cuồng dị nọ, nếu đem kể hết phải mất cả tháng.

“Ngươi muốn làm gì thì làm, ta đi ngủ. Cứ ngồi đây cho đến khi họ dậy mà lôi ngươi xuống.” Nàng trừng mắt thêm lần nữa, tung chăn qua đầu mà quay người nằm sát vào tường, quyết không để ý đến kẻ phiền nhiễu nọ. Tức giận mắng chửi hắn là việc hoàn toàn tốn công vô ích.

Từ ngày đầu tiên cho đến bây giờ, có bao giờ hắn không làm phiền nàng?

Sau mấy ngày biến mất, có vẻ đã thu đủ dũng khí, trát da mặt đủ dày, hắn đủ hứng khởi để nửa đêm về sáng mò tới, quyết tâm làm ruồi nhặng đập không chết, đuổi không đi. Mà tất cả lời nàng nói ra đều hóa thành nước đổ lá khoai, không lọt nổi vào đầu hắn một chữ.

Có kẻ này lẵng nhẵng bám theo, làm gì cũng không tiện. Đáng lẽ nàng nên lường trước tình hình ngay khi vừa thấy mặt hắn. Nên xông hương hay đánh ngất hắn ném xuống thuyền về Chân Lạp? Hay phòng xa hơn nữa, tìm người thích sát Đại vương Chân Lạp rồi đổ tội cho hắn để kẻ này không thể rời khỏi Đại Thành nửa bước? Hay bắn tin cho anh trai hắn, bắt giữ hắn lại?

Khi nàng vừa nghĩ đến việc xích cổ hắn rồi giao khóa cho Mạc Cửu, bên kia ô phòng chợt nghe tiếng ‘kịch’ khe khẽ như vò rượu được đặt xuống sàn. Tiếng cười mỏng như tiếng thở dài vọng trước khi hắn cất tiếng nho nhỏ thì thầm.

“Đêm trước, ta thấy lính vào soát Hoắc gia trang.” Ngả người dựa vai vào góc tường, hắn nhìn nàng cuộn tròn trong chăn, cười nói với giọng hoàn toàn nghiêm túc. “Việc hẳn chỉ vừa mới báo đến Chiêm dinh, chưa thể về phủ chúa ngay được. Hoắc gia bị lục soát đầu tiên trong vùng, âu cũng là sự lạ. Dù có danh thế của chúa trước che chở hay không, một thế gia như họ Hoắc hẳn không phải là mục tiêu nghi ngờ đầu tiên khi xảy ra chuyện. Ngay cả khi có mật báo cũng phải chờ lệnh thượng cấp. Trấn thủ Chiêm dinh làm thế này khiến cho mọi người đều ngạc nhiên.”

“Mà nghe nói, ngay khi vừa lên ngôi, chúa đã ban cho Trấn thủ Chiêm dinh ấn đồng, kiệu son, mặc nhiên như chủ một cõi, toàn quyền sắp đặt.” Ngừng hồi lâu, không nghe nàng lên tiếng, hắn gật đầu nói tiếp. “Ta cũng nghe phong thanh rằng tiền đồ Hoắc gia dạo này rất mong manh, có lẽ là thật rồi. Nếu muốn xử lý bất cứ ai, chỉ cần xảy ra chuyện là có thể tùy nghi vu vạ. Ngay cả khi không làm được, việc bắt bớ khám xét nghi kỵ cũng đủ làm người hoang mang, danh tiếng dựng xây bao lâu sứt mẻ tổn hại không ít.

“Mà việc này, ta không nghĩ là không có sự đồng ý của nàng.” Hạ mắt nhìn xuống, nghiêng người đến tấm chăn, hắn trầm giọng nói để người ô bên không thể nghe. “Nàng ở đây trốn kẻ nào thế?”

Đúng ra, hắn định nói: Việc xảy ra hẳn nằm trong dự định của nàng. Nàng không có sức ảnh hưởng tới một vị quan lớn như Trấn thủ Quảng Nam, nàng cũng đã không xuất hiện để trấn an đám thuộc hạ còn lại ở Thương Trúc trang đang rối loạn sau vụ cháy Mai Lâm viện – mà hắn nghi ngờ rằng thậm chí họ không biết sự trở về của nàng. Nhưng chính vì nàng không xuất đầu lộ diện, đầu mối nghi ngờ lại bị đẩy cho Hoắc gia, hắn chẳng thể nghĩ khác hơn.

Nàng vẫn tiếp tục im lặng, chỉ nghe tiếng thở nhè nhẹ đều đặn. Nhìn nàng một lúc lâu, hắn nhếch môi, hướng ánh mắt về phía ngọn đèn đang cháy gần cạn dầu. Nghe tiếng mưa rải rác lẫn trong mùi của ban mai.

“Chuyện xưa chuyện nay, quả đều cùng một dạng.” Dầu hết, ngọn lửa chuệch choạc nghiêng đổ, ‘xèo’ một tiếng rồi lịm tắt. “Người bảo đế vương vô tình, kẻ ở cạnh đế vương lại càng vô tình.”

“Trước đây, có một câu chuyện xưa.” Khi hắn đã nghĩ nàng nhất quyết im lặng, tiếng nói nhẹ tênh lại chợt vọng trong bóng tối. “Một vị đế vương vung gươm lập quốc, đánh đuổi kẻ thù xâm lấn, lập thành triều đại mới, rồi giết đi vài cận thần, phế người này người khác. Vài năm sau, đế vương qua đời, con trai ông lên kế vị khi còn rất nhỏ. Trong triều đình lúc này, quyền bính thuộc về một vị quyền thần cùng bè phái của ông ta, những người đã được vị đế vương lập quốc kia tin dùng. Vị vua trẻ đến tuổi trưởng thành, trong nỗ lực giành lại quyền hạn, đã vời một cựu thần xưa về triều. Rồi nhiều việc xảy ra, vị quyền thần kia bị giết chết, gia đình bị biếm truất, bè phái bị truy diệt. Năm năm sau, nhà vua trẻ chết một cách bí ẩn, đến lượt vị cựu thần giúp đỡ vua phải lên đầu đài, cả ba họ bị xử trảm. Ai cũng thương xót vị cựu thần kia, nói ông ấy bị oan mất rồi. Người ta trách cả vua, cả triều đình, cả những người đối nghịch với viên cựu thần ấy, coi đó là nỗi oan khiên nhất đời.

“Nhưng mà, trong dân gian có truyền một câu hát về thời đại ấy, là thế này: ‘Đời vua Thái Tổ, Thái Tông, Lúa gạo đầy đồng trâu chẳng buồn ăn’. Nghe hệt như thời Nghiêu Thuấn.” Nghe tiếng cười mảnh như chỉ vương qua khoảng trống hẹp, lành lạnh như tiếng mưa. “Đất nước bình yên, dân chúng sung túc như thế, là bởi vì ai? Trong những năm tháng ấy, là ai nắm giữ quyền hành, quản lý đất nước để có thành quả kia? Hay sau khi vị quyền thần nọ chết đi, triều đình loạn đến mức vua chẳng ra vua, hậu chẳng ra hậu, bề tôi chẳng ra bề tôi, cuối cùng trở thành một cuộc đại biến chẳng ra gì? Đế vương kia làm sai cái gì? Quyền thần nọ làm sai cái gì? Việc làm của vị cựu thần ấy có phải là đúng không? Đạo đức nói suông hay tranh chấp quyền lực nơi cửa ngọc đền vàng có làm ra gạo cho dân được không, có giữ đất giữ nước được không, thậm chí có giữ thân được không?

“Kẻ bên trong không biết thức thời là hại, kẻ bên ngoài chỉ biết nói chuyện đạo đức suông, thương tâm hão nghe lại càng giả dối.” Tiếng cười mỏng mảnh lại vang lên, nghe tiếng chăn loạt soạt khi nàng dụi mắt. “Chỉ giỏi nói đế vương vô tình, trong khi cả thiên hạ này đều là vô tình bậc nhất. Kẻ đọc sách đầy bụng càng thở ra giọng không ngửi được. Người hiểu chuyện không nói, kẻ chẳng biết gì lại giỏi ba hoa.”

Các người đều chỉ biết đến mình rồi lại bảo kẻ khác vô tình, nực cười. Có lẽ nàng đã nói câu ấy, cũng có thể không, khi tâm trí đột nhiên bị bóng tối ám mùi khói che phủ. Trong cơn mơ màng, nàng nghe tiếng trống điểm canh xa xa. Người bên kia không trả lời, mà nàng cũng không để ý.

Khi nàng thức dậy, ánh nắng đã chói chang bên ngoài. Căn gác hoàn toàn trống trải.

Nếu không có tấm chiếu thay liếp che ô cửa đã được cẩn thận hạ xuống, nàng còn ngỡ đêm qua đã nằm mơ.

Khi hắn rời khỏi khu nhà bên cảng, nắng đã rực trên những mái nhà ướt nước, nhưng hắn chỉ trở về khu nhà trọ khi nắng đã gần tắt. Gian nhà nhỏ đã đóng cửa, hắn không gọi mà trèo cửa leo vào. Vừa đặt chân sang bên kia, đã nghe tiếng bật đánh ‘tách’ trong đám cỏ dưới rào, hắn vội rút chân lên, tránh được một cặp bẫy lởm chởm răng nhọn bật lên từ mặt đất dưới cửa.

“Anh không biết mở cửa à?” Trong cửa sổ, một người đàn ông nghiêng đầu nhìn ra, nhưng giọng nói lại là của nữ giới.

“Quên chìa khóa.” Hắn thận trọng nhảy xuống khoảng đất có vẻ an toàn xa xa cánh cửa, hàm hồ đáp. Thật ra thì hắn cũng không nhớ đã nhét chìa khóa ấy vào đâu, khi hầu như không đụng đến ổ khóa của ngôi nhà này.

“Nửa đêm bỏ đi…” Hắn đẩy cửa vào nhà, người đàn ông có giọng nói của phụ nữ quay lại, một bên khóe môi chợt cong, nửa như cười nửa như cau mày. Hắn gật đầu, lại bên bàn rót trà mà uống.

“Thèm rượu.” Hắn nghĩ không cần giải thích, nhưng vẫn nói. Một lý do hầu như là đương nhiên. Dù sao khu nhà này với khu nhân công bên cảng không xa nhau lắm, hắn tìm đến quán rượu nơi hỗn tạp như thế vẫn tiện hơn là nghênh ngang ra vào quấy rối trung tâm phố thị. Nếu nàng ta đã biết hắn nửa đêm mò dậy bỏ đi, hẳn cũng chẳng khó khăn gì tìm ra nơi hắn đến.

Nhưng có trời mới nghĩ ra rằng Như Yên dám đến ở tại một nơi như thế. Mà có khi, bị hắn quấy rầy hôm nay, nàng đã sớm khăn gói rời đi ngay lúc vừa thức dậy.

Cô gái đội lốt nam nhân vẫn đứng bên cửa sổ, khoanh tay quan sát hắn bằng đôi mắt không rõ tâm tình. Khuôn mặt nàng ta đã được một hàm râu che giấu những đường cong mềm mại, làn da nâu rám nắng được trát thêm càng đen, nàng đã hoàn toàn có vẻ là một thương nhân Nam Dương. Mối quan hệ của nàng và triều đình Chân Lạp dễ dàng nhờ vả một chiếc thuyền cùng thủy thủ đoàn từ Nam Đảo có thư tín đóng dấu thông thương của Nam Hà, thành công lọt qua vòng vây tra xét gắt gao ngoài cửa Đại Chiêm. Ngôi nhà này đã được đoàn thương nhân Nam Đảo bao trọn, nàng cũng không ngại dùng thân phận thật nói chuyện với hắn.

Với thân phận hắn bây giờ, nếu không nhờ vả nàng ta, nữ quan Chiêm Dao Luật của nhà vua Chân Lạp, hoàn toàn không có khả năng bước vào một nơi như Hội An.

Mà một khi đã đồng ý cho phép hắn đi theo, nàng ta cũng đã đặt không ít điều kiện cùng sự kiểm soát – có thể cả những mưu tính riêng của mình. Hắn không nghĩ mình có một khắc nào lọt qua khỏi sự theo dõi của nàng, nên đã không tìm đến Như Yên ngay khi bắt gặp nàng ở Thương Trúc trang. Đúng hơn là ở ngoài Thương Trúc trang. Trong đêm trang viện bị cháy, khi đám đánh nhau ồn ào vừa bắt đầu trên sông, hắn đã nhanh chân rời xa hiện trường, đi về phía trung tâm phố chợ. Thấy đám cháy, mọi người chạy đến bao vây lùng sục trang viện, hắn đã rời đi rất xa. Từ lâu, hắn đã biết có một con đường bí mật từ trang viện này ra ngoài, liền chạy đến hướng ấy chờ đợi. Đến gần sáng, Như Yên mới xuất hiện – với dáng vẻ của một thôn nữ gánh hàng ra chợ, ‘lão nông phu’ bên cạnh nàng có một cái phất tay áo đầy vẻ quen thuộc.

Nhưng hắn không xuất hiện, cũng không đi theo hai người ấy, chỉ ngửa cổ nhìn lên đám mây sáng rực hồng phía chân trời.

Hắn thậm chí không lùng tìm bọn họ, tin rằng nàng sẽ lại xuất hiện. Chỉ cần ở bên Chiêm Dao Luật, đứng xa xa mà quan sát diễn tiến trong thị thành này, hắn sẽ lại gặp nàng. Nàng sẽ không ở xa bọn họ.

Trong những ngày lang thang trong ngoài thành thị này, hắn cũng gặp gỡ tiếp xúc bao nhiêu người, đủ để Dao Luật không thể nghi ngờ cuộc nói chuyện của hắn với ‘cô gái ăn sương’ nọ. Nàng ta cũng có bao nhiêu việc để quan tâm hơn là từng bước chân của hắn. Hắn có đi tìm rượu hay tầm hoa vấn liễu cũng chẳng phải là việc của nàng ta. Chuyện vạ vật đầu đường xó chợ của hắn cũng bình thường như ăn với ngủ.

“Hôm nọ, Hoắc gia bị lục soát.” Im lặng một lúc, Dao Luật liền đổi hướng câu chuyện. Nàng chầm chậm nói khi thấy hắn quay đầu. “Nghe đâu, không tìm được chứng cứ gây rối hay tạo phản, nhưng quân của Chiêm dinh cũng bắt được cái gì đó.”

“Hoắc Phương phản ứng thế nào?” Hắn không có lấy một cái chớp mắt, cũng không hỏi đến thứ đã bị tìm ra. Rốt cuộc, chỉ cần có một sự việc, rồi sẽ có lý do. Quan trường cũng như thương trường, đều là chốn minh tranh ám đấu. Bất cứ thứ nào tìm được trong Hoắc gia, dù là khế cầm mượn bất minh hay tiền tài không rõ nguồn gốc, đều có thể châm ngòi cho một bất lợi lớn hơn. Với địa vị cùng mối quan hệ như của Hoắc gia, có tẩu tán cũng không thể hết những ‘chứng cứ mờ ám’ họ có trong nhà.

Quan Trấn thủ Chiêm dinh đã đánh một đòn bất ngờ, có lẽ thu về cũng chẳng ít.

“Anh ta mà lại không lường được tình huống này? Chỉ là nó xảy ra nhanh quá thôi.” Dao Luật phảng phất cười, nhưng đôi mắt đầy đăm chiêu. “Hoắc Phương có lẽ cũng không nghĩ quan Trấn thủ lại không hề nể mặt cả Hoắc gia lẫn Thương Trúc trang? Nếu lần này Chiêm dinh không bỏ qua, đến Phú Xuân cũng chẳng can thiệp được.

“Mà cũng có thể, Chiêm dinh không bỏ qua, thì Phú Xuân cũng chẳng nương tay đâu.” Ngừng một khắc, Dao Luật nhẹ gật đầu.




Hồi 32: Trả lời
Saturday, July 21, 2012 Author: Trường An

Giữa đêm, trăng vằng vặc sáng trên nền trời xanh thẫm.

Mùa này vườn mai chỉ còn đôi cụm tứ quý vẫn còn nở, kết quả trên đài hoa đỏ thẫm. Trong gió nổi, cành lá rậm rạp rung rinh, in xuống nền cỏ dày những mảng tối lớn, khiến ánh sáng lọt qua càng chói rõ. Đã lâu không có người qua lại, cỏ mọc cao, đá tảng đã phủ rêu xanh, nền gỗ của căn nhà đọng sương ươn ướt. Ổ khóa hoen rỉ kêu kẽo kịt một lúc rồi mới bật mở. Trong nhà, màn cửa, chăn đệm đã được dọn, chỉ còn vài bức tranh vẽ hoa mai trên vách. Căn nhà này vốn đã đơn sơ hơn các khu đình viện khác, lúc này chỉ còn bóng trăng chiếu qua cửa sổ, lạnh lẽo rợn người.

Không vào nhà, nàng đứng ở bậc cửa, ngẩng nhìn trăng trên cao rồi đưa mắt nhìn quanh vườn mai. Ngập dưới bóng tối, tất cả những gì nàng thấy chỉ là những mảng sáng tối không ngừng lay động theo gió.

Sự yên ắng rõ ràng đến nỗi ngay cả một người không biết võ công như nàng cũng có thể nghe được sự di chuyển trong đêm. Bóng đen mặc áo dạ hành vút qua khóm trúc mà lọt vào trong viện, dừng lại trước nàng.

“Người đã tới.” Y nói, hầu như cùng lúc với tiếng ồn ào đột nhiên phát ra ngoài cửa trang viện. Thấp thoáng bóng lửa chiếu qua đỉnh bức tường trúc dày. Tiếng kim loại cùng thanh âm xôn xao ồn ào cũng vọng rõ trong đêm. Kẻ vừa tới búng tay, nói như giải thích. “Có một thuyền buôn Chà Và đi ngang, ta chặn lại gây sự. Người trong trang thể nào cũng kéo ra xem.”

“Vậy làm thôi.” Nàng gật đầu, lại phía bên kia vườn mà nhấc lên hũ rượu nho nhỏ, hất nó lên cỏ. Trong không khí đã nồng nàn mùi rượu, nàng chỉ làm để ra dấu cho kẻ kia hành động.

Nhưng y đứng yên, hơi nhíu mày nhìn quanh.

“Sao lại đốt khu này?” Y thắc mắc. Nàng nhướn mày.

“Đây là khu vực ngoài cùng chuyên dùng để tiếp khách, không đốt nó chứ chẳng lẽ chạy vào tận bên trong? Ta cũng chưa muốn ‘lạy ông tôi ở bụi này’ rõ rành rành đến thế.” Vừa nói, nàng vừa sốt ruột vẫy tay. “Làm đi!”

Nghe tiếng thở ra khe khẽ, kẻ kia rút mồi lửa, châm đám bùi nhùi mà ném vào vườn. Khi hai người rời khỏi khu viện, đã nghe tiếng lách tách khe khẽ khi mùi khói thoang thoảng bay. Giữa những bức tường trúc dày, mỗi đình viện như một thế giới riêng biệt, kẻ ở ngoài không dễ gì nhìn được động tĩnh bên trong.

E rằng đến khi khu vườn cháy hết, người ngoài mới phát hiện ra đám lửa.

Vò rượu trên tay Như Yên vẫn còn một nửa, nàng nâng nó lên, ngửa cổ uống. Đến lúc kẻ bên cạnh phải đưa tay giật lấy.

“Ta không phải ếch để cõng người về mà không bị để ý.” Y cau mày. Vò rượu bằng đất hồng, chứa thứ nước không mùi không vị, nhưng uống một hớp đã say. Đều đặn mỗi năm, hai vò rượu được đem tới cho Thương Trúc trang, cất giữ dưới hầm. Vừa rồi, nàng đã đem số rượu ấy đi rưới hết làm mồi dẫn lửa, còn lại vò này.

“Vậy ngươi uống đi.” Như Yên liền đưa vò rượu sang, bật cười khi thấy vẻ mặt y. “Năm nào ta cũng giữ người ở lại uống rượu, nhưng không ai ở cả.”

“Đằng nào người cũng phải đi, nên tiểu thư muốn mượn cớ để xem như chính mình xua họ đi. Cười nhạt còn hơn khóc thầm.” Chắp tay sau lưng, kẻ kia đều đều nói bằng giọng không rõ cảm thái. Như Yên nhìn y, rồi lại mỉm cười.

“Thật sự, ra đi thì tốt hơn chứ, phải không? Kẻ cứ nhất quyết ở lại nhưng nếu đã không giữ được thì chỉ phiền muộn cả ta lẫn người. Đi hay ở chỉ quan trọng ở cách thức thôi.” Nàng nhẹ gật đầu với trăng trên trời. Nghe tiếng cười mảnh như lá trúc bên vai.

“Đi hay ở thì quan trọng gì? Kẻ bên cạnh mà không nhìn thấy nhau thì cũng như không, kẻ ở xa mà lại nhung nhớ thì chia tay chẳng lẽ để tự hành hạ mình?” Nheo mắt, y nhìn theo nàng đến vầng trăng trên cao, âm điệu chợt có đôi vần ngân nga như hát. “Muốn bỏ hay muốn giữ, cũng chỉ là ý muốn của bản thân.”

“À…” Như Yên thốt khẽ, như định nói nhưng lại thôi. Nàng dường đã có thể nghe tiếng lách tách sau lưng trong muôn vàn thanh âm lá cây rào rào lay động. Nàng ngoặt vào một khoảng trúc đã được vạt trước, len qua mà đi tắt đến khu viện phía trong. Trời vẫn còn quang tuy gió đang ngày càng mạnh. Vào gian viện thơm nồng hương hoa, hai người vòng ra sau vườn, nơi có một cái giếng nhỏ. Kẻ bên cạnh cúi người mở cửa giếng trong khi Như Yên vẫn khoanh tay nhìn trăng vằng vặc giữa trời.

“Diêu,” Nàng gọi, y chỉ gật đầu chứ không ngẩng lên. “Mai là Trung thu, đi chơi với ta không?”

“Tiểu thư cần người hóa trang?” Diêu cười khẽ, mở rộng miệng giếng dẫn sâu hút xuống đất. Đường hầm này ăn thông ra ngoài trang, chìa chỉ có một người giữ. Như Yên quay người nhảy xuống giếng, cười trong cổ.

“Không có ngươi thì ta có thể đi đâu?” Trong bóng tối, vì y cúi đầu, nàng đã không thấy hàng mi y khẽ chớp vì câu nói của nàng.

Quay nhìn một lần nữa con đường trúc, ánh lửa đã tan nhòa dưới trăng, y nhè nhẹ thở dài trước khi nhảy theo nàng.

Trăng, vẫn vằng vặc sáng.

Ngày rằm tháng tám, thị thành Hội An huyên náo với ánh đèn muôn sắc đủ làm nhòa cả ánh trăng. Đám cháy ở gia trang ngoại ô đêm trước mới được báo về dinh phủ, khiến một toán lính được phái đến canh chừng cổng lũy trước phố thị, nhưng vẫn chẳng khiến sự ồn ào nhộn nhịp này bị ảnh hưởng. Ngày rằm may mắn trời quang mây tạnh, những vòng nhang treo dưới mái nhà tỏa hương trầm thơm ngát đọ cùng hoa. Trên lối đi giữa hai dãy nhà phố, đèn được chăng giăng giăng, những chuỗi giấy ngũ sắc dài bay lật phật. Những chuỗi đèn lớn nhỏ khác được treo trước cửa nhà, dưới những tàng cây, trên các cột cao, chăng qua cả mặt sông. Theo thông lệ, nhà đèn giữa sông ngày Trung thu do tất cả thế gia trong vùng cùng tạo lập, lung linh sáng chói hơn hẳn những buổi lễ thường. Đám trẻ đã đem đèn nối đuôi nhau chạy khắp các ngõ. Mùi bánh thơm quẩn quanh lẫn hơi khói sáp. Hương rượu nồng thoảng giữa gió sông. Tiếng hát điệu ca vang lẫn tiếng cười. Sau lễ cúng trăng, càng về khuya thị thành càng ồn ã.

Mà sự hiện diện của toán lính từ phủ tới hầu như chẳng được ai để tâm, bọn họ dường cũng chẳng hứng thú với công việc đang được giao. Khi nàng cầm chiếc đèn con cá đi ngang qua, bọn họ chẳng nhìn nàng lấy một cái liếc mắt.

“Lính tráng thế này thì hỏng bét.” Nghiêng đầu, nàng lẩm bẩm với mình. Dù gương mặt đã được hóa trang đổi khác, nàng đang mặc một bộ váy áo của người Thượng – bọn họ thế nào cũng phải cẩn thận để tâm đến kẻ bên ngoài chứ?

Nhưng cũng có thể không phải do nàng không đủ gây chú ý – khi tiếng chiêng trống bất chợt vang lên từ ngôi nhà lớn bên sông, tập trung tất cả ánh mắt người trong thành. Đám trẻ lẫn thanh thiếu niên từ xung quanh chạy về bờ sông chờ đợi xem chiếc đèn lớn cùng pháo hoa sắp bắn. Nàng nhanh chân bước theo bọn họ, nhưng nửa đường lẩn vào một góc khuất dưới lùm cây. Chuỗi đèn đang được treo quanh cây lại rất thích hợp che đi nàng cùng trang phục Thượng với sắc đen đỏ và hoa văn sặc sỡ. Một chiếu rượu được trải dưới gốc cây, vẫn còn nửa bình rượu, nàng liền nhấc lên uống cạn. Nghe tiếng ‘viu’ nho nhỏ trước khi tiếng pháo nổ giòn, kéo theo thanh âm hò reo huyên náo của lễ mở đèn sau lưng.

Nhón tay bốc lấy miếng bánh trên đĩa, gió thổi bóng đèn lay động bất chợt khiến nàng giật mình ngẩng đầu nhìn lên. Ngoài nàng, vẫn còn có kẻ không đến bờ sông xem lễ. Nhìn thoáng qua nàng, kẻ ấy bước đi, bóng dáng chẳng mấy chốc đã gần như bị muôn ánh đèn che khuất.

Chớp mắt, ngẩn người trong khoảnh khắc, trước khi kẻ ấy khuất sau khúc quanh ngập ánh sáng, nàng vội vàng đứng dậy đuổi theo.

Đường giữa hai lối phố chợt vắng tanh, chỉ còn vài ông lão ngồi dưới hiên nhà đối ẩm. Lối đi dài, kẻ ấy chầm chậm bước, nàng ngập ngừng theo sau. Hết con đường, kẻ kia quành về phía cầu ngói dẫn sang khu phố Nhật Bản. Đèn hoa sen đã được thả kín dày mặt nước dưới cầu, chầm chậm trôi về phía dòng sông lớn. Khói nhang chợt nhòa trong bóng tối như sương giăng. Khi nàng ngẩng đầu nhìn lên, chợt phát hiện ra kẻ ấy đã đứng lại trên cầu, quay người nhìn xuống nàng.

“Cô nương, theo ta làm gì?” Kẻ trên cầu cười. Tiếng nói khiến tim nàng nảy lên một nhịp. Mi mắt khẽ rung, nàng mím môi, chỉ tay về phía khu phố bên kia cầu.

“Ta chỉ đang muốn đi đến đó.” Hơi hất cằm, nàng nói, bước lên cầu mà đi qua. Đã bước sang phía bên kia cầu, nàng chợt ngoảnh đầu nhìn lại. “Ngươi… anh không định sang?”

“Có.” Kẻ ấy lại mỉm cười, bước đi mà tấm ván gỗ trên cầu hầu như không động. Nàng quay lưng đi trước, đến lượt kẻ ấy lại chầm chậm bước sau nàng.

Từ sau ngày Mạc Phủ bế quan tỏa cảng, khu phố Nhật Bản đã không còn nhộn nhịp như xưa, chỉ còn vài gia đình nhỏ của người Nhật ở lại. Trong ngày Trung thu, bọn họ cũng chuộng tổ chức lễ nhỏ trong gia đình hơn là tham gia đám đông ồn ào. Những chiếc đèn cá chép treo trên cột trước nhà đang vẫy chiếc đuôi mềm mại trong gió cùng tiếng ca líu lo của bọn trẻ trong vườn sau bức tường cao. Một quán rượu vẫn còn mở cửa, nàng liền vén rèm đi vào. Tiếng cửa gỗ rung động sau nàng như người kia vẫn đi theo.

Quán nhỏ, chỉ có đôi ba chiếc bàn thấp trong căn phòng he hé cửa nhìn ra khoảng vườn phía sau, lúc này không còn vị khách nào. Ngồi xuống bên bàn cuối phòng, đẩy cánh cửa gỗ mở rộng để gió trong vườn lùa vào, nàng ngẩng nhìn người vẫn đứng cạnh cửa ra vào, mỉm cười.

“Uống rượu không?” Vừa nói, nàng vừa ra dấu về vị trí đối diện. Người chủ quán lơ mơ sau quầy chợt tỉnh, vội đứng dậy. Gọi vài món ăn cùng rượu, nàng nhìn kẻ kia chầm chậm bước tới phía bên kia bàn, kéo vạt áo mà ngồi xuống. Nàng nhìn khuôn mặt kẻ ấy qua những bông cỏ lau thay cho cỏ bông bạc và những chùm hoa sao được cắm trên bàn. Trong quán chỉ có một ngọn đèn lù mù sau quầy, ánh sáng từ chiếc đèn con cá của nàng không đủ soi sáng gương mặt bị che khuất sau mái tóc dày rối nọ. Nàng không để tâm đến gương mặt, chỉ chú tâm đến đôi mắt kẻ đối diện, nhưng cũng tuyệt không nhìn được.

Người chủ quán bê mâm rượu đến, nàng vén tay áo, rót rượu ra hai chiếc ly nhỏ, đẩy đĩa bánh tròn trăng trắng đến phía bên kia bàn. Không đợi mời, kẻ kia cầm ly uống cạn. Đẩy bình rượu cho khách, nàng chỉ chống tay ngồi nhìn, ý cười trong mắt càng lúc càng sâu.

Tiếng pháo hoa nổ vẫn đều đặn vang đến góc quán vắng. Trăng in bóng chiếc đèn hình con cá trên thảm cỏ ngoài hiên. Tay nâng ly lên rồi hạ xuống, kẻ kia đã uống đến ly rượu thứ mười, nàng mới chậm rãi lên tiếng.

“Anh đến đây để làm gì?” Vẫn tựa cằm lên tay, nàng cười hỏi. Nghe tiếng hò reo đầu sông bùng vỡ trong một loạt pháo hoa đặc biệt ồn ào. Khi tiếng ồn dịu xuống, người đối diện mới trả lời, bằng giọng gần giống như nàng.

“Ta đi theo một người.”

“Ồ,” Nàng khẽ khàng thốt, nghiêng đầu. “Thế đã tìm được chưa?”

“Có lẽ.” Bên mép ly rượu, dường như kẻ ấy loáng thoáng mỉm cười. “Nhưng không biết có nên gặp hay không.”

“À…” Lần này, nàng chỉ khẽ gật đầu, hướng ánh mắt về phía cửa đang mở rộng. Mành trúc mỏng lay động trong gió, để mùi hương của hoa đêm phả vào phòng. “Ta cũng từng muốn gặp một người, nhưng khi ở cạnh bên rồi thì nghĩ rằng không gặp lại hơn. Thế mà hễ thấy bóng là lại đuổi theo, hễ thấy người là lại không đừng được chạy đến. Dù ta không muốn gặp kẻ ấy chút nào, thật đấy.”

“Rồi ta lại nghĩ tới ngày xưa, khi chúng ta có thể ở bên nhau rất bình thường. Không là gì, chỉ ở bên nhau thế thôi. Ta có nói gì, làm gì; kẻ ấy có làm nên chuyện ngốc nghếch điên rồ gì; chúng ta cãi nhau ra sao, rốt cuộc vẫn có thể làm hòa, chẳng cần nghĩ ngợi. Mối quan hệ như vậy chẳng phải là tốt hơn sao?” Xoay ly rượu giữa những ngón tay khi ánh mắt vẫn dõi theo chiếc bóng mỏng mảnh của dải lụa bay trên chiếc đèn con cá, nàng mơ hồ cười. “Có thể ta đuổi theo kẻ ấy chỉ vì những ảo ảnh của ngày xưa đó thôi. Ta bao giờ cũng muốn níu kéo những thứ không thuộc về mình, ngay cả mối quan hệ với kẻ ấy. Vì muốn có điều này, ta lại làm ra việc khác, cuối cùng chẳng có được thứ gì. Cuối cùng, thứ gì cũng trật chìa lỡ dở cả. Không muốn gặp, có thể cũng chỉ vì không biết phải sắp xếp những sai lầm như thế ra sao.”

“Cô ấy cũng từng bảo, vốn chưa bao giờ yêu ta.” Người đối diện nàng nói, sau khi nàng im lặng một lúc lâu. Nàng đưa mắt nhìn kẻ ấy, vuốt sợi tóc rơi lên mắt, hạ mi nhìn xuống đĩa bánh trên bàn.

“Yêu hay không yêu, rốt cuộc nghĩa là thế nào? Khi còn nhỏ tuổi, ta đã nghĩ, yêu đương hẳn giống như trong các sách truyện, ca kịch, bài hát – Người gặp gỡ nhau, yêu thích nhau, rồi muốn ở bên nhau trọn đời. Nhưng rồi không hẳn thế. Không ai có thể yêu được một mình cả. Thứ mà họ nhìn thấy ở người khác, cũng chỉ là ý muốn của bản thân mình. Có kẻ muốn tình cảm, có kẻ muốn yên bình, có kẻ muốn chỗ dựa, cũng có kẻ muốn phiêu lưu… tất cả những điều đó, họ đặt vào đối tượng mà mình nhắm tới. Người ta yêu rốt cuộc cũng chỉ là chính bản thân mình.” Cười hắt ra rất nhẹ, nàng nhìn bóng ngón tay mình trên mặt bàn gỗ, nghe tiếng pháo hoa rời rạc rồi lặng dần. “Đi ngược lại thì chỉ dẫn đến hủy hoại cả mình lẫn người, tình cũng chẳng còn, việc gì mà phải cố chấp như thế?”

Khoảng yên lặng tràn đến theo làn gió, trước khi tiếng ồn ào trở lại từ đầu sông sau khi tiếng pháo đã dứt. Một hồi chiêng trống vang động báo hiệu cho buổi tiệc đêm đến hồi náo nhiệt nhất, người xem tản về các chiếu rượu mà họ đã bày.

“Cô ấy bảo, cũng chưa từng hiểu thế nào là yêu hận.” Sau hồi lâu, người đối diện nàng chợt nói. Trong bóng tối, nàng dường cảm thấy ánh mắt ấy dõi vào mình, đăm đăm không chớp.

Nàng cười.

“Con người thay đổi trong chớp mắt, thứ mình cảm thấy trong quá khứ có thể nào phải là điều mình thấy trong hiện tại. Chuyện yêu đương nhiều khi cũng chỉ là si mê thoáng chốc, càng không thể áp đặt cảm xúc nhất thời làm vĩnh cửu. Ta cũng đâu phải chỉ từng yêu có mỗi một người. Nếu kẻ nào cũng đến kéo áo ta đòi món nợ ấy, ta biết phân thân làm bao nhiêu mà trả?” Uống cạn rượu trong ly, nàng lắc bình rượu đã cạn sạch, đặt nó xuống bàn. “Anh đuổi theo cô ta đến tận đây, định để làm gì?”

Tay nàng vừa rời khỏi thân bình, đã bị bàn tay khác nắm lấy.

Nàng cau mày, dường như giật mình vì nhiệt độ bất thường của bàn tay nọ. Làn da lạnh như nước dưới đáy biển khơi, như sương trên mặt đá. Nhưng nàng không rút tay về, chỉ đưa mắt nhìn lên. Khuôn mặt nàng đã được hóa trang cẩn thận, màu da tối sắc đồng, hơi ram ráp thô, mày đậm, một vết sẹo ở đuôi kéo một bên mắt xuống, môi tai tái. Nhưng bóng tối nhập nhoạng phủ mờ mọi sắc màu lẫn hình khối, để lại ánh mắt nàng dõi vào đêm, sáng như mặt hồ đông đặc ánh trăng.

Nàng không nhìn được khuôn mặt người ngồi quay lưng về ánh sáng, khuất trong hốc tường tối. Nàng chỉ đưa mắt nhìn lên như thể quan sát bóng đêm lay động.

Bàn tay kia cũng nhè nhẹ buông tay nàng. Nhẹ như tiếng thở trong bóng tối.

“Ta…” Kẻ kia hơi cúi đầu, lại cười khẽ. Tiếng cười cũng nhẹ như tiếng thở. “Đêm hôm đó, khi bị bỏ lại trong rừng, báo lại cho người làm việc xong, ta đã chạy theo cô ấy. Không biết đường hướng, không biết thủy thổ, ta chỉ nhắm giao điểm mà thuộc hạ của cô ấy thúc ngựa đi và tiếng ngựa ta đã nghe được mà chạy tới. Ta trước nay quen thuộc với núi rừng, rồi cũng đâm chủ quan như thế. Có lẽ là ta cũng chẳng kịp nghĩ nhiều. Đúng như cô nói, hễ thấy bóng là chạy theo, vậy thôi.

“Tất nhiên rồi, làm sao ta có thể tìm được bọn họ giữa rừng? Thế là ta phải quay về. Ta về phương Nam, nhưng rồi ngay lập tức quay trở lại, tìm đến đây trước khi mùa gió nồm kết thúc. Cũng chỉ vì không tìm được cô ấy trong rừng, ta không thể yên lòng. Ta chỉ muốn tìm thấy cô ấy, thế thôi.” Thu tay về, lùa những ngón tay vào tóc bên trán, người đối diện nàng nói khi nghiêng mặt nhìn qua nàng ra khoảng sáng trăng trắng mờ ngoài cửa. “Trước nay vẫn vậy, chỉ là ta cứ lẽo đẽo theo cô ấy, không cách nào bỏ được.”

“Đã bỏ rồi đó thôi.” Có thể nàng không cố tình, lời nói tự nhiên bật ra. Nàng không nghĩ mình sẽ nói điều đó, liền khỏa lấp bằng tiếng cười mỏng tang. “Lo lắng cũng chỉ là tưởng tượng quá nhiều, tự rước phiền vào mình, người ta chưa chắc đã cần.”

Người kia mím môi, như định nói rồi lại thôi. Nàng gọi thêm một bình rượu nữa, rót cho cả hai cùng uống. Ngồi thêm một lúc, tiếng ồn bên ngoài thưa thớt dần, chỉ còn nghe đôi tiếng đàn ca khe khẽ vẳng. Người chủ quán bắt đầu thu dọn quán, đóng mấy tấm ván cửa chỉ để một khoảng đủ đi qua. Thấy vậy, nàng liền đứng dậy trả tiền, rời khỏi quán.

Trở về phía cầu ngói để đến bến sông, nàng dừng chân trên cầu, khoanh tay nhìn vài chiếc đèn hoa sen còn sót lại đang chầm chậm trôi về nơi ánh trăng đang loang rộng. Trăng loang loáng sáng trên đầu sóng lăn tăn, viền lên bóng của những chiếc thuyền. Ngọn đèn hình long phượng kết trên chiếc bằng giữa sông vẫn lung linh sáng. Thị thành đã yên ả, chỉ còn những chuỗi đèn đủ sắc tỏa sáng giữa những căn nhà san sát. Những vòng nhang vẫn còn đang cháy, mùi trầm dìu dịu quện lấy hương hoa. Vài nhóm người vẫn còn tụ tập bên bờ sông rì rầm khe khẽ. Trên lầu cao, rèm lụa phất phơ, tiếng đàn ca thưa thớt vọng.

Nhanh đến thế, nàng nghĩ với đôi chút ngạc nhiên quen thuộc. Phồn hoa huyên náo của phố thị tan nhanh đến thế, khi màn vừa khép, cửa vừa đóng, người vừa quay lưng, ánh đèn chưa kịp động. Chỉ cách vài bước chân, đã thấy mình đứng giữa ánh sáng muôn màu quạnh quẽ.

Nàng nghĩ đến căn nhà nằm giữa những bức tường trúc hẳn đã thành tro bụi, bất chợt lại cảm thấy không đành lòng. Loại cảm xúc này tựa như ánh trăng rơi trên mặt nước, loáng thoáng lướt qua mà không chạm được đến đáy sâu.

“Dạo này, ta thường ít khi cảm thấy buồn, cũng không nghĩ nhiều. Cũng cảm thấy, nếu cứ sống như thế này mãi thật tốt.” Nhìn theo bóng tối nằm phía bên kia dòng sông, nàng nói. Sàn gỗ không rung, chẳng có một âm thanh, nhưng nàng biết người kia đã dừng lại sau mình. “Lúc trước, ta vẫn thỉnh thoảng tự hỏi, ngày đó mình có sai không? Khi ta bảo hắn đi, nói không muốn gặp nữa, ta có sai không? Nhưng rồi cứ thế, thời gian trôi đi, sai hay đúng cũng chẳng còn cần thiết. Người ấy chắc cũng thế khi quay lưng bỏ đi. Anh có thể về phương Nam rồi quay lại đây mà chẳng cần nghĩ ngợi, cũng không ngại ngần. Kẻ ấy một khi đã đi rồi thì vẫn có thể trở lại, nhưng rốt cuộc không trở lại. Nếu có trở lại, hẳn cũng chỉ vì vài câu hỏi vẫn muốn được trả lời.”

“Ngày hôm qua, ta đã đốt đi một thứ từng rất quan trọng, nhưng ta không đau xót gì vì nó hết. Đau thương quyến luyến, khắc cốt ghi tâm, không nỡ buông bỏ, rốt cuộc chỉ là chuyện trong sách vở, chẳng thật chút nào.” Khóe miệng cong cong, nàng cười với vầng trăng vằng vặc sáng như trong đêm đó và mãi mãi sau này. “Câu trả lời của ta, rốt cuộc chỉ là vậy thôi.”




Hồi 31: Toan tính
Saturday, June 30, 2012 Author: Trường An

Tháng tám năm Quý Dậu, triều đình Nam Hà ra lệnh đổi trấn Thuận Thành làm phủ Bình Thuận. Tả trà viên Kế Bà Tử cùng ba người con được đưa về nhận chức Khám lý, Đề đốc, Đề lãnh và Cai phủ. Họ phải ăn mặc theo lối người Kinh và tuân theo sự sai phái của triều đình Nam Hà.

Gió bấc nổi, đưa đoàn thuyền quan viên tiếp quản Panduranga về phương Nam, mang theo chiếu lệnh của chúa Nam Hà.

Vùng đất phương Nam, sau mấy tháng xáo trộn vì chiến tranh, lại trở về tình trạng yên ắng tạm thời.

Những chiếc thuyền đầu tiên từ phương Bắc đã cập bến Hội An. Thuyền hàng từ những vùng trong núi xuôi về, hàng hóa ngày ngày chất chật cảng. Các dãy nhà trọ đông hẳn lên, tấp nập không ngớt. Xe ngựa xe hàng ồn ã trên các nẻo đường.

Gia trang của Hoắc gia nằm ở ngoại đô thị thành Hội An cũng đông đúc người, từ các thương nhân phương Bắc vừa cập cảng tới người Thượng đến bàn chuyện mua bán, các nhà buôn trong vùng ghé qua chào hỏi... Hai cánh cửa luôn mở rộng cho những chuyến xe lại qua. Người trong mọi trang phục và sắc áo đi lại trước tiền viện nhà không ngớt.

Cho nên, khi ‘người đàn ông’ mặc trang phục Thượng cất đi nón và khăn che mặt, Hoắc Phương vẫn không ngạc nhiên nhìn thấy khuôn mặt phía sau.

“Dao Luật cô nương.” Vẫn ngồi, ngón tay chạm lên cằm, Hoắc Phương chỉ nheo mắt cất tiếng như chào. Nàng ta tới đây khi trời vẫn sáng, hẳn cũng đã nắm rõ hoạt động trong khoảng thời gian bận rộn nhất của Hoắc gia. Lẩn lút đến vào buổi tối càng thu hút ánh mắt kẻ theo dõi, đường đường gửi thiếp để đi bằng cửa chính quả là cách khôn khéo hơn – Nếu như nàng ta không dẫn vài cái đuôi bám theo.

Dao Luật gật đầu đáp lời Hoắc Phương, kéo lớp áo hơi rộng mà ngồi sang ghế đối diện. Nàng độn nhiều lớp dưới áo, thân hình trở nên to ngang như đàn ông. Làn da ngăm ngăm khiến phong sương không ghi dấu trên gương mặt nàng, chỉ thấy đôi chút mệt mỏi trong ánh mắt.

“Người liên lạc của Nam Hà vừa đến tìm chúng tôi.” Vừa ngồi xuống, không đợi Hoắc Phương lên tiếng hỏi, Dao Luật đã nói ngay. “Người liên lạc của dinh Bình Khang tới hỏi phu nhân của họ.”

“Thế sao?” Hoắc Phương nhướn mắt. Khi bắt Như Yên đi, bọn họ đã bắn tin tới cho dinh Bình Khang, Chưởng cơ Phò mã chồng nàng, nhưng đó là việc của Dao Luật. Dao Luật nhìn nhanh qua y, nhíu mày.

“Cô ta trốn mất rồi.” Nàng thận trọng nhấn từng tiếng, nhìn phản ứng của Hoắc Phương. Y thoáng ngạc nhiên, rồi có vẻ vỡ lẽ, rồi lại như suy tính.

Nàng đã tin phản ứng của y, nếu không sớm rõ y là kẻ diễn kịch đại tài.

“Sao các người để Như Yên trốn đi được? Mà nàng ta không về Bình Khang à?” Đúng như một người không hề biết chuyện, y hỏi. Dao Luật chỉ nhẹ lắc đầu.

“Cô ta có mấy người thuộc hạ bám theo, không cần phải lo. Vả lại, cô ta hẳn đã có dự định.” Nàng thở ra, cùng diễn với y một thể. “Cô ta không về Bình Khang, cũng không thông báo cho ai, chúng ta lại mắc phải tội làm hại con tin, đã không còn có thể trao đổi với Nam Hà lại bị họ khép tội ngược.”

“Vẫn chưa nói với Chưởng cơ Phò mã, chưa đến lúc.” Ngón tay nhịp nhẹ lên thành ghế, Dao Luật nghiêng người để nhìn thẳng vào Hoắc Phương. “Hoắc bang chủ quen nhiều, có thể giúp tôi để tâm dò xét?”

“Nếu tiểu yêu có ở quanh đây thì đáng phải canh chừng chứ.” Hoắc Phương cười khẽ. “Nhưng người của Chưởng cơ Phò mã tự dưng hỏi tới thì hẳn cũng bị đánh động rồi. Nàng ta một khi đã trốn ra, núp trong bóng tối lại chẳng bày trò giật dây cho người đánh nhau? Công việc ở Quy Ninh vẫn ổn chứ?”

“Không có gì lạ.” Dao Luật qua loa trả lời, hiểu tại sao Hoắc Phương lại nhắc đến Quy Ninh. Như Yên, trong thời gian ở trang trại Linh lão đầu, đã móc nối được với một số người nơi ấy. Họ Trần lẫn nhà chồng nàng là những thế lực không nhỏ tại địa phương, chưa kể đến những ‘người quen cũ’. Hoắc Phương có rất ít ảnh hưởng ở Quy Ninh, nơi ấy cũng quá phức tạp để nàng có thể thăm dò được. Với sự quen biết kia, nếu muốn lẩn trốn, Như Yên có thể tìm đến bất cứ ai trong bọn họ.

Huống hồ, Quy Ninh đang là địa phương rất quan trọng.

“Người của Linh lão vừa tới.” Hoắc Phương đột ngột chuyển câu chuyện, ra dấu về phía hòm tiền trên bàn. Vài đồng tiền rơi ra bàn, in chữ Thái Bình theo lối triện. “Họ bảo năm nay triều đình đúc tiền, giá cả giảm xuống một ít, chỉ lợi cho đám thu mua. Nhiều kẻ lại sợ về lâu về dài Nam Hà sẽ giống như Mạc Phủ và Thanh triều, cấm dùng tiền cũ thì số tiền này chẳng biết bán đổ bán tháo cho ai.”

“Nam Hà không có đủ đồng để làm việc đó.” Dao Luật cau mày lắc đầu. Hoắc Phương nhẹ cười.

“Chỉ là kẻ nào tự tiện tung tin đồn ra thôi. Nhưng nếu làm chủ được thông thương với lò đúc Nagasaki, hoàn toàn có thể. Cho nên nhiều người mới lo lắng ra mặt.” Y nhấn mạnh chữ ‘nhiều người’. Không như các thương buôn xoay vòng số tiền vốn liên tục, có những người cất giữ số tiền rất lớn như của để dành – ví dụ như các địa chủ. Mà nơi nào tập trung ruộng đất màu mỡ nhất Nam Hà khô cằn này - là Quy Ninh. Đồng tiền mới đúc ra trước chỉ dùng ở phía Bắc Hải Vân, bây giờ dần dà phổ biến đến phương Nam. Số phú gia địa chủ vốn có nguồn tài lực dồi dào trước đây vẫn có lệ găm giữ tiền đồng để nâng hạ giá thành tùy theo ý muốn thao túng thị trường, đợt tiền đồng mới của triều đình Nam Hà phát xuống đã phá vỡ đi một số toan tính của vài nhóm người.

Nếu để quyền lực phân phối tiền nằm trong tay triều đình, thị trường này cũng sẽ nằm hẳn dưới sự chi phối của Phú Xuân.

Một thứ quyền lực vô hình, mạnh hơn tất cả các đạo quân.

“Nhiều người bất mãn thì đúng hơn.” Dao Luật mỉm cười, hơi hạ sự phòng vệ của mình xuống để đưa ra nhận xét. Trước mắt là việc buôn bán trong mùa gió bấc này ảnh hưởng, về lâu về dài là các thế gia địa phương mất đi cả quyền lực với thị trường về tay triều đình Phú Xuân; kẻ bất mãn với những đồng tiền mới hẳn không chỉ có một, hai người. Dù Nam Hà có đủ khả năng thay thế hoàn toàn những đồng tiền cũ thành tiền riêng hay không, số tiền đúc tại Cựu dinh ngày càng nhiều hơn đã chiếm phần không nhỏ trong thị trường. Rồi sẽ đến lúc, nhất định sẽ đến lúc, chỉ cần một động thái trong lò đúc tiền của triều đình Phú Xuân sẽ ảnh hưởng toàn bộ vùng đất này. “Nôn nóng quá.”

Câu nhận xét sau này thì nàng không thật lòng nghĩ thế. Chúa Nam Hà còn rất trẻ, quá trẻ, và do đó những hành động của cậu ta vẫn thường được gắn với những từ như ‘nôn nóng’, ‘dại dột’, ‘liều lĩnh’, ‘ngông cuồng’, thậm chí là ‘ngang ngược’, ‘bá quyền’. Một cậu chúa trẻ làm ra những việc sai lầm do hoàn toàn không nắm được tình hình thực tế ngoài sách vở là chuyện không lạ. Nhất là khi cậu ta được bảo bọc và ve vuốt bởi những chiến thắng trên chiến trường, nền hòa bình lẫn quyền lực mà cha ông cậu ta đã giành được. Nhưng vẫn có một linh cảm nào đó trong nàng còn cảnh giác. Cậu bé mà nàng từng nhìn thấy trước đây không có vẻ giống một đứa trẻ nôn nóng ngông cuồng. Tuy vậy, nàng hiểu gì về cậu ta?

Chiến thắng ở Bình Khang không đủ để đem lại cho Nam Hà sự yên bình cần thiết, nhất là khi vị chúa trẻ không ngừng khuấy động mọi người lên với những thứ ‘mới mẻ’ cậu ta đặt ra.

Đã ba năm kể từ khi cậu ta lên ngôi, đồng tiền này cũng đã lưu hành được ba năm. Bây giờ lại có người nhắc nhở về nó, hẳn không phải là thời điểm trùng hợp.

“Bất cứ nhà nước nào cũng phải có tiền riêng.” Hoắc Phương nhún vai, dùng giọng trung hòa nhất mà nói. “Chẳng lẽ cứ không vua không chủ hỗn độn mãi được?”

Đây lại là câu mớm mồi của y. Do đó, Dao Luật không trả lời.

“Thứ gọi là triều đình, thực chất cũng chỉ là một nhóm người. Một nhóm người thì cũng chẳng phải thần thánh để cai quản thiên hạ, cũng biết đục khoét móc nối lẫn vơ vét cho bản thân. Đưa quyền lực của nhóm người này cho nhóm người khác, tất có tranh giành. Mà ôm quá nhiều về mình không quản lý được, thì Nam Hà cũng tự giết mình chứ chẳng cần ai làm hại.” Thay vào đó, nàng chỉ cười. Hoắc Phương nhíu mày, gẩy ngón tay dưới cằm.

“Dao Luật cô nương rành rẽ chuyện thương trường hơn vài người tôi biết.” Y mỉm cười, không khỏi cảm thấy mấy phần kỳ lạ. Dù qua lại Nam Hà luôn, Dao Luật vốn lớn lên trên đất Chân Lạp. Người trong núi thuần hậu chất phác, suy tính đến cả những ngõ ngách hậu quả chính trị là việc khó khăn.

“Nhiều người nói như vậy.” Một lần nữa, Dao Luật lại trở về vẻ phòng ngự, lơ đãng trả lời. Hoắc Phương chỉ gật đầu, không hỏi thêm.

“Ngoài việc của Như Yên, Dao Luật cô nương còn có chuyện gì cần đến tại hạ?” Liếc mắt nhìn qua bóng nắng bên cửa, y hỏi. Dao Luật im lặng rút trong tay nải ra một cuộn giấy, đưa cho y.

“Có chút việc cần nhờ đến Hoắc bang chủ, xin bang chủ định liệu.”

Khi Dao Luật đã rời khỏi phòng, cuộn giấy vẫn ở yên trên bàn, chưa được mở ra. Nếu bang chủ muốn thì làm, chúng tôi không gò ép, Dao Luật nói khi vẫn cầm cuộn giấy trong tay. Nàng ta ra vẻ như y hoàn toàn có sự lựa chọn – hoặc chỉ là tay sai không có quyền lựa chọn.

Cánh cửa đã đóng, gọi người đưa khách về phòng bên nghỉ trưa, Hoắc Phương gỡ niêm phong, đọc lướt qua cuộn giấy, đoạn thu nó vào trong tay, mở cửa sau mà bước ra phía hậu viện.

Vừa đến hành lang gian nhà trong, y đã ngửi được mùi thức ăn thơm nức mũi. Cánh cửa gian nhà bên hồ vừa mở, y đã thấy trên bàn giữa phòng là một con gà quay bóng mỡ. Đang xếp rau quanh đĩa gà, cô gái mặc áo xô trắng ngẩng đầu lên nhìn y, cười tươi như hoa.

“Chiêm Dao Luật không ở lại ăn trưa à?” Nàng ta hỏi, đưa đầu ngón tay trỏ dính mỡ vào miệng mút. Y khép cửa sau lưng, khoanh tay bước về phía bàn trà.

“Ta nghĩ ngươi sau này khó lòng rời khỏi đây được.” Vẻ mặt lạnh như tiền, y liếc mắt qua cô gái và con gà quay khổng lồ của nàng ta. “Hết ăn rồi ngủ, ngươi sẽ đi không lọt cửa nữa.”

“Kẻ ốm yếu hom hem, kén cá chọn canh như ngươi thì đừng có ganh tị với ta.” Không thèm để tâm đến lời y, cô gái lăm lăm con dao dài trong tay cắt gà ra từng miếng. “Có ăn chung với ta không, không phải thịt vịt đâu mà sợ.”

Ta không kiêng thịt vịt, y định nói rồi chợt nghĩ ra. Im một lúc, thấy Như Yên chỉ bận tâm đến con gà trên đĩa, y đành đằng hắng.

“Ngươi không cần biết Chiêm Dao Luật muốn làm gì sao?” Nếu không phải việc cần kíp và y không có thời gian rảnh để cù cưa đến hết ngày, y đã bỏ mặc tiểu yêu này với con gà quay. Nhón cái đùi gà mà gặm, Như Yên nhún nhún vai.

“Ta mới đến đây mấy ngày, chưa có ai phát hiện kề kiếm vào cổ đâu mà sợ.” May mà nàng ta chỉ ăn và ngủ thế này có mấy ngày, nếu không sẽ đi không lọt cửa, y nghĩ thầm. Có vẻ nàng đã học được cả cách ăn uống của người phương Nam, cứ dùng tay mà bốc, chẳng còn chút tiểu thư lễ giáo nào.

“Ai muốn giết ngươi?” Y đảo mắt. “Người ta chỉ muốn đốt Thương Trúc trang của ngươi.”

Câu nói này thành công khiến Như Yên ngoảnh đầu lại. Rút trong tay áo ra cuộn giấy, Hoắc Phương ném nó cho nàng.

“Ngươi làm gì chọc giận người ta đến mức này?” Chờ Như Yên đọc xong, Hoắc Phương nhướn mày. Như Yên không vội lên tiếng, cau có quẹt mấy ngón tay đầy mỡ lên mặt giấy, ném nó lại phía sau. Hoắc Phương chống tay nhìn nàng, khóe miệng khẽ nhếch. “Hình như ngươi đang làm mọi thứ bung bét hết cả.”

“Lắm lời.” Như Yên làu bàu. Nhịp tay lên môi, nàng quay về phía y. “Ngươi có định đi đốt nhà ta thật không đấy?”

“Chuyện đó ta không biết.” Hoắc Phương thở ra. Trong một khoảnh khắc, nàng muốn thò tay sang bẻ cổ y. “Ta đang ‘hợp tác’ với bọn họ, mà Thương Trúc trang rõ ràng là cái gai trong mắt, tuy nhiên lại chả có thực quyền gì, chỉ là mấy gian nhà trống. Trong thời điểm này, ngươi lại sổng ra, chúng chẳng tin ta. Muốn thu được lòng tin thì phải chứng tỏ, đúng không? Một gia trang lớn như thế thì giấu đi đâu được?”

“Cho nên ta mới cần hỏi ý ngươi.” Khoanh tay, y nghiêm túc gật đầu. Như Yên cắn môi, không lên tiếng.

Ngươi làm gì chọc giận kẻ khác, y hỏi, đương nhiên có lý do. Đốt Thương Trúc trang chẳng có ảnh hưởng gì đến ai, ngay cả nhóm người của nàng – khi trang viện đã hầu như bỏ trống trong những ngày này. Muốn thử Hoắc Phương đương nhiên có nhiều cách – và phải lường trước cả việc nàng sẵn sàng hy sinh trang viện kia. Kẻ ra lệnh nhắm vào Thương Trúc trang, một nơi không có nhiều ý nghĩa thực tế nào, thậm chí chẳng để làm gì, chẳng qua chỉ là đang nhắm vào nàng.

“Hay là…” Một lúc sau, Hoắc Phương lên tiếng. Như Yên ném cái xương gà vào đĩa, ngắt lời y.

“Đặt ngươi ở địa vị chúng, hẳn nhiên hiểu rõ ‘Hoắc bang chủ’ sẽ không làm.” Nàng liếc mắt qua y, cười nhạt. “Người như ngươi chẳng lẽ chịu bỏ ‘cái hang’ to tướng là chúa công Nam Hà sao? Ngươi cũng hiểu Thương Trúc trang là gì. Nếu nó bị đốt, người tới đây điều tra sẽ chẳng kém cạnh Chiêm dinh bị đốt là bao, ngươi có dại để chui đầu vào rọ không? Ngược lại, nếu ngươi lăm lăm đi đốt hay làm phương hại đến Thương Trúc trang, thì rõ ràng ngươi đã được bảo lãnh để làm việc đó, còn lâu chúng mới tin ngươi.”

“Chúng đặt ra điều kiện chỉ để xem phản ứng của ngươi đấy thôi. Chiêm Dao Luật về luôn rồi à?” Lại xắn tay áo bẻ thêm cái cánh gà, Như Yên ngồi xuống ghế mà nhịp chân ra điều ngẫm nghĩ. “Ả không muốn ngươi chèo kéo đàm đạo thương lượng gì, thì hẳn chỉ là điều kiện đặt ra làm cớ, miễn sao ngươi không thể thực hiện. Có thể đám người ở Quy Ninh lại có tịch rục rịch, phao tin ngươi nửa đường quay lưng lúc này không chừng cũng có cái lợi.”

“Ai lợi?” Hoắc Phương mềm mại mỉm cười khi Như Yên cúi đầu cắn xé cái cánh gà.

Xáo động ở Quy Ninh rốt cuộc cũng chỉ là cái cớ, dù rằng chẳng phải không có nguyên do. Cuộc chiến của Linh lão và Ngụy lão tranh chấp vùng Nước Mặn đã kéo dài chẳng kém mâu thuẫn của Thanh Hải bang và Hồng Thiên hội năm nào. Trong cuộc chiến này, vũ lực chỉ là phương thức cuối cùng để chính thức tiêu diệt đối thủ, việc chính yếu là kết bè lập nhóm mà khuếch trương thế lực. Đến khi có thể nắm được sự ủng hộ tương đối, mới là lúc ra tay.

Mà đồng tiền mới từ Phú Xuân lại chẳng phải là cái cớ tốt biết bao? Y chỉ đang tự hỏi, cái lưỡi câu này móc mồi nhử gì?

“Bọn thương lái mối manh chuyên ép giá người như ngươi lại chẳng bị ghét hắt nước đổ đi?” Như Yên cười. Nàng đột ngột chuyển hướng câu chuyện. “Không cần đám thuộc hạ bị thịt của ngươi, ta đã biết Chiêm Dao Luật lần mò tới đây làm gì. Để tiếp tục công việc cũ của Oc-nha That.

“Ngươi còn nhớ chuyện lão già ấy ép chết ta lúc trước?” Rút khăn lau tay, Như Yên gật đầu, lại bàn bên mà lôi trong hộc ra một tập giấy mỏng đã ngả sắc vàng. “Chuyện theo dõi cái làng bên sông Túy Loan, thuộc hạ Thương Trúc trang vẫn để tâm đến.”

“Cái làng ấy nhìn bên ngoài chỉ là làng làm đồ gốm bình thường thôi. Nhưng có lúc thuộc hạ của ta lại thấy có người múa Mai Hoa quyền trên đống đồ gốm đang hong trong sân.” Cười khẽ, Như Yên đưa cho y xấp giấy, xua tay. “Kể cũng khó mà xác minh lý lịch đám dân tứ xứ đó, nhưng theo dõi lâu ngày thì có kẻ cũng lòi đuôi cáo. Toàn là người quen của ngươi.”

“Chúng quan hệ với Chiêm Thành?” Nhìn lướt qua xấp giấy, đôi mày cau lại, Hoắc Phương hạ giọng hỏi. Như Yên nhún vai, lấy cọng rau khẩy con gà trong đĩa.

“Không chỉ Chiêm Thành, có lẽ thế.” Nàng nhàn nhạt trả lời, ngẫm nghĩ rồi nói thêm. “Mỗi kẻ đều có mục đích của mình, rồi chia phe ra mà đánh nhau, vậy thôi.

“Mà ngươi bị Chiêm Dao Luật đá sang bên lề cũng có lý do đấy nhỉ?” Tặc lưỡi, nàng nói với bóng nắng bên cửa sổ. Nghe tiếng giấy loạt soạt như Hoắc Phương đang lần giở xấp giấy mà chăm chú đọc. Khi y đã buông xấp giấy xuống, Như Yên mới quay đầu lại mỉm cười. “Tuy vậy, ả ta đặt điều kiện thế này là vẫn cho ngươi đường lui, hay cho mình đường lui. Ngươi đằng nào cũng là Hoắc bang chủ, thuyền bè Đường nhân qua đây còn phải ghé vào chào ngươi một tiếng. Đám người kia không ưa ngươi, nhưng chúng thì có thực quyền gì? Nếu có việc cần kíp, ả ta vẫn cho ngươi ‘cơ hội thanh minh cái khó’, quay lại làm đồng minh.”

“Ngươi bảo ta cứ việc bám theo Chiêm Dao Luật?” Đoán ra ý Như Yên, Hoắc Phương nhẹ cười, chống cằm lên tay nhìn lại nàng. “Bằng cách nào?”

“Đốt Thương Trúc trang đi.” Như Yên bình thản trả lời. Bất chấp vẻ mặt Hoắc Phương, nàng nhịp tay tính toán. “Mùa này gió lớn, lửa dễ bốc lan nhanh. Nhưng mưa lớn có khi lại dập được lửa. Nếu ta có thể kềm hãm lửa trong một khoảng nhất định không cho cháy to, đợi cho mưa xuống thì có thể không phải cháy hết. Những gia viện nối với nhau bằng đường trúc, có lẽ chỉ cần hạ bớt trúc để trống một khoảng là có thể cô lập được đám cháy?”

“Ngươi…” Hoắc Phương hé môi, nhưng không thốt thêm được lời nào. Ngẩn người hồi lâu, y mím môi. “Nếu ta không đồng ý?”

“Đốt Thương Trúc trang thì cũng phải tự tay ta đốt, can gì đến ngươi?” Như Yên vẫn lạnh lùng đáp. “Nếu có ai phát hiện, ta chịu trách nhiệm.”

“Ngươi không nghĩ đến rằng Chiêm Dao Luật dụ ta làm việc này là muốn hại ta?” Bám lấy câu nói của Như Yên, Hoắc Phương lắc đầu. “Khi lính tráng của phủ ập đến, phát hiện trong nhà ta có cả thư tạo phản lẫn chứng cứ âm mưu đốt nhà, hất cẳng ta chẳng dễ hơn là phải lao tâm khổ tứ tìm cách gạt ta sang bên?”

“Đã bảo ta chịu trách nhiệm.” Như Yên nói. Bên kia, khuôn mặt Hoắc Phương hiện rõ một thái độ ‘Tin ngươi thì đến xác cũng chẳng còn’. Nàng liền cáu kỉnh tiếp. “Ngươi không cần phải động tay tới, thư từ chứng cứ gì hủy cả đi, phủi tay cho sạch. Nếu Chiêm Dao Luật có hỏi đến thì chỉ cần gật đầu tâng công là được.”

“Ngươi không phải bị người ta chọc điên nên muốn đốt cả Thương Trúc trang?” Không còn cách nào, Hoắc Phương thở dài. Như Yên liếc mắt qua y, rồi quay lại hành hạ con gà trong đĩa.

“Kẻ nào ra cái lệnh quái gở này, ta sẽ bắt chúng trả đủ!” Nàng lầm bầm như chỉ nói cho mình nghe, vặt gãy đôi cái cánh còn lại của con gà quay. “Việc lần này không thể thất bại, không thể để lỡ một sơ hở nào, một bước cũng không. Nếu không, ngay cả chúng ta cũng chẳng còn ngồi đây mà bàn chuyện đốt hay không được đâu.”

Hoắc Phương vẫn còn toan nói, nhưng nhìn thấy ánh mắt Như Yên liền im lặng.

Mắt nàng càng ngày càng tối, càng ngày càng ẩn chứa một thứ ánh sáng dị kỳ. Từ bao giờ nàng có ánh mắt này? Với ánh mắt này, việc đốt một ngôi nhà thiết thân có khi cũng chẳng phải là quan trọng.

Dù cả thế gian này có bốc thành lửa cháy, cũng chẳng quan trọng.

Nàng không thấy thế gian, cũng không thấy lửa, khi mắt nàng tràn ngập bóng tối nằm dưới bầu trời.





Copyright © Trường An. All rights reserved.