Solitude

Cảnh như thị, nhân như thị

Hồi 48: Giấc mơ
Monday, October 1, 2012 Author: Trường An

Chiếm được thành Parik, quân Chiêm Thành thừa thắng tiến đánh Phan Rang. Tin báo vừa chuyển tới Bình Khang, đại quân Nam Hà không kịp phản ứng. Không có cứu viện, Cai đội Chu Kiêm Thắng thủ lũy Phan Rang đành đóng cửa phòng thủ chặt. Chỉ nội trong vài ngày, quân Chiêm Thành đã kéo đến bao vây bốn mặt thành lũy Phan Rang. Cai đội Chu Kiêm Thắng kiên quyết đóng chặt cửa lũy, bày pháo dàn quân thủ cả đêm lẫn ngày. Bên ngoài, quân Chiêm quốc cũng kéo pháo lẫn nỏ, máy bắn đá đến công phá lũy. Đều đặn mỗi giờ, một đợt pháo lại bắn vào lũy. Lũy Phan Rang đóng cửa im ỉm, nội bất xuất ngoại bất nhập, đồng thời không có tiếp tế, đoàn quân bên ngoài quyết bức người trong lũy cạn kiệt sức lực lẫn ý chí mà đầu hàng.

Chỉ trong vài ngày, vẻ hoang mang đã hiện lên trong mắt, trên gương mặt người trong lũy. Đoàn quân cứu viện duy nhất mà họ có thể mong đợi từ Bình Khang vẫn chưa thấy bóng. Cai đội Chu Kiêm Thắng như ngồi trên lửa, không dám chợp mắt nghỉ ngơi lấy một khắc, ăn ngủ luôn tại đài chỉ huy. Càng ngóng về phương Bắc, về phía bờ biển, càng thấy nóng lòng sốt ruột. Nói không chừng, lối đi đến Phan Rang đã bị quân Chiêm Thành ngăn chặn. Bây giờ, đội quân này không chỉ còn toàn là người trong núi xuống đánh phá thành lũy. Không ít kẻ còn ở lại trong đất Phan Rang, Phan Rí đã theo lời hiệu triệu của Oc-nha That, cầm binh khí đầu nhập các đội quân địa phương. Từ Bình Khang đến Phan Rang xa xôi, có thể dễ dàng bị phục kích giữa đường, ngay cả các cửa biển cũng đã bị chặn bằng đủ mọi phương cách, lũy Phan Rang, thành lũy duy nhất của Nam Hà còn lại trên đất Panduranga, như đã bị cô lập giữa đồng cát hoang.

Vùng đất này đã đứng dậy, với hầu như tất cả con người trong nó, khiến quân đội từ phía Bắc đến cũng vô phương xâm nhập.

Trong lúc Cai đội Chu Kiêm Thắng nghiến răng lo lắng, từ phía Tây, một chiếc xe ngựa lộc cộc chạy qua rừng thưa, dừng bên chiến trường do quân Chiêm Thành bày ngoài lũy Phan Rang. Sự xuất hiện của chiếc xe khiến vài kẻ đi ngang tò mò ngoái đầu nhìn. Trong vùng đất cát này, dùng xe ngựa quá khó khăn lẫn rắc rối, không mấy ai sử dụng. Chiếc xe cũng có vẻ được đóng vội vàng, thành chỉ là vài tấm gỗ ghép lại, bánh được lấy từ xe bò, khi chạy kêu lạch cạch loảng xoảng. Chạy qua một paley nhỏ, xe ngựa dừng ngoài toán quân bao vây lũy, rồi chậm chạp tiến lại gần. Người đánh xe mặc áo đơn cổ tròn của Chiêm quốc, lưng đeo đại đao, đội nón lá che kín mặt, dáng vóc thấp nhỏ với làn da đen nhờ nhờ. Ngoài yên cương, con ngựa còn được phủ một tấm da dày tựa áo giáp của ngựa dùng trong kỵ binh.

Thấy chiếc xe lạ, quân lính canh gác gần đó liền chặn lại. Vẫn không quát ngựa dừng chân, kẻ mã phu chỉ vung tay. Cái roi da cốt sắt trong tay gã quất một vòng lớn, đánh dạt kẻ chặn đường. Gã thúc ngựa chạy nước đại xuyên qua khoảng đất mà quân Chiêm Thành không canh giữ chặt, về phía cổng lũy. Đội quân phía sau hoảng hốt gọi nhau, bắn tên nỏ về chiếc xe. Tên cắm vào xe vô số, nhưng kẻ xâm nhập vẫn mắt ngơ tai điếc cho ngựa chạy thục mạng về cửa thành lũy. Lính Nam Hà trong lũy thấy động liền ló đầu nhìn ra, thấy tên mã phu phất lên một lá cờ lớn. Gã giương cung bắn tên vào trong lũy, cuối tên móc theo một tấm thẻ bài. Thấy thẻ bài, Chu Kiêm Thắng vội cho lệnh mở cửa lũy, bắn tên và pháo ra hỗ trợ cho chiếc xe ngựa. Pháo Nam Hà bắn dạt toán lính bên ngoài, cánh cửa lớn của lũy vội vàng sập lại ngay sau khi xe ngựa vào lọt.

“May mà chúng chưa kịp kéo pháo ra.” Xe vừa qua cửa, trong khoang xe vọng ra một tiếng thở phào nhẹ nhõm. Lính Nam Hà còn chưa kịp lại gần, tấm ván đóng xe vốn đã tua tủa tên đã rơi xuống, kéo theo một loạt những tấm gỗ bên cạnh. Có vẻ chiếc xe tuềnh toàng không chịu thêm nổi chấn động đã tự vỡ. Kẻ trong xe kêu lên một tiếng, lôi theo người cạnh bên nhảy ra ngoài.

“Các người…” Thấy hai người lạ, Cai đội Chu Kiêm Thắng vừa đến nhíu mày. Nhưng ánh mắt viên tướng lập tức thay đổi khi nhìn thấy người vừa được kéo từ những tấm gỗ vỡ bụi mù ra. “Kế Bà Tử?”

“Bao nhiêu công mới đến đây được đấy.” Kẻ mặc áo thanh cát nhưng lại khoác trường sam bằng sa đoạn trề môi, gương mặt xanh xao của y trắng một cách kỳ dị. Y đẩy vai Kế Bà Tử về phía Chu Kiêm Thắng. “Muốn giải vây thì phải nhờ ngài Khám lý đây.”

Chu Kiêm Thắng đưa mắt nhìn Kế Bà Tử, người em trai của vua Bà Tranh đã được triều đình Nam Hà phong chức Khám lý quản phủ Bình Thuận. Người đàn ông vẫn còn trẻ, có nước da lẫn đường nét đặc trưng của phương Nam nhưng mặc áo giao lĩnh, đội mũ phốc đầu của quan lại Nam Hà, vẻ kinh hoàng sợ hãi vẫn chưa hết trên gương mặt. Vừa rồi ngồi trong xe kín, nghe tên bắn rào rào vào thành xe, hẳn vô cùng đáng sợ.

“Các người là…?” Nhìn lại hai người kia, Chu Kiêm Thắng thận trọng lên tiếng hỏi. Bọn họ đã dùng thẻ bài của Chưởng cơ Phò mã Nguyễn Hữu Oai trấn thủ Bình Khang, nhưng đưa mỗi một Kế Bà Tử đến đây, hẳn không phải là cách mà đại tướng Nam Hà sẽ dùng.

“Bên ngoài Phan Rang bị chắn đường rồi.” Phác tay, kẻ gầy gò thanh mảnh mặc áo thanh cát kia nói, xác nhận nghi ngờ của Chu Kiêm Thắng. “Quân Man quân Chiêm từ đâu xông ra, đến cả Chà Và cũng nhảy vào ăn hôi. Quan Trấn thủ sợ tướng quân chờ lâu không được, mà cũng phải nhân dịp này hạ bớt thanh thế của đám người kia xuống, mới bảo ngài Khám lý đến đây.”

Nghe câu nói của kẻ mặc áo thanh cát, Kế Bà Tử ngoái đầu, cái nhìn vừa bối rối vừa giận dữ. Y cũng trừng mắt nhìn lại, chỉ ngón tay ra ngoài.

“Thế ngài Khám lý có định để bọn ngoài kia xông vào không?” Y hất cằm, hỏi một câu mà biết chắc Kế Bà Tử sẽ không trả lời. Dù muốn dù không, người hoàng thân Chiêm Thành này chẳng có lựa chọn.

Chu Kiêm Thắng chớp mắt, chợt hiểu ra. Viên tướng này liền đến kéo tay Kế Bà Tử thẳng một đường lên lũy. Bên ngoài, quân Chiêm vừa qua một đợt náo động khi chiếc xe ngựa phá vây chạy vào, đang tập trung dày đặc. Đến vị trí thuận tiện quan sát, Chu Kiêm Thắng rút đao kề cổ Kế Bà Tử, cao giọng sang sảng.

“Nếu còn đánh, chủ nhân của các ngươi sẽ chết!” Viên tướng nói bằng tiếng Chiêm Thành, nhắc lại thêm một lần bằng tiếng An Nam. Nắng trên lưỡi đao sáng quắc chiếu thẳng mắt, Kế Bà Tử trân người đứng yên.

Thấy đám lính bao vây vẫn yên lặng, Chu Kiêm Thắng sốt ruột gằn giọng.

“Ta để chủ nhân của các người ở cửa thành, kẻ nào giỏi cứ bắn vào! Ngày mai mà chưa rút quân, ta và chủ nhân các ngươi cùng chết!” Gần như điên cuồng, viên Cai đội gào lên thị uy. Thành lũy đã đến lúc nguy ngập, chẳng còn cách nào anh ta không dám thử.

Liền ngay sau đó, Kế Bà Tử bị trói ở cổng lũy, nơi vẫn đón nhận những đợt tấn công của quân Chiêm. Lần này, không một hòn tên mũi đạn nào dám bắn vào.

“Khốn kiếp!” Thấy tình thế ấy, Oc-nha That căm giận mắng, đăm đăm nhìn bóng người bị trói trên tường thành. Bên cạnh ông ta, y chỉ khoanh tay quan sát xung quanh, gương mặt không biểu thị lấy một thái độ nào.

“A Ban, lui thôi.” Đến khi Oc-nha That chậm chạp lên tiếng, y mới quay đầu lại. Vị Hữu trà viên của Chiêm Thành lắc đầu. “Không thể làm hại Depatih.”

“Để ông ta sống vô ích.” Y lạnh lùng nói. Kẻ này đã ở trong tay Nam Hà, để Nam Hà mặc tình điều khiển như một con rối, nếu để ông ta sống thì còn họa lâu dài. Chẳng bằng mượn tay Nam Hà giết đi hoàng thân Chiêm quốc, lại càng tạo thanh thế có lợi cho y.

“Không được!” Oc-nha That lên giọng gần như quát. Kế Bà Tử vốn là Tả trà viên của Chiêm Thành, cùng ông có giao tình bao nhiêu năm. Nghĩ lại, Oc-nha That liền hạ giọng. “Nếu để Dapetih bị giết, ta còn lại danh nghĩa gì để khởi binh?”

“Đó là dòng dõi nhà vua, anh em của ta.” Thở ra, Oc-nha That lắc đầu. “Nếu như đến dòng dõi nhà vua, anh em của chính mình mà còn bỏ mặc thì ta có thể bảo ban được ai? Chúng ta vốn rất đơn giản, A Ban. Đánh nhau để làm gì khi mà tình nghĩa, anh em, chủ nhân còn không bảo vệ được?”

Y ngoảnh đầu nhìn nắng, như muốn nói rồi lại không trả lời. Một lúc sau, y nhè nhẹ gật đầu.

“Rút quân.” Đáo giang tùy khúc, nhập gia tùy tục, y biết lúc nào nên tiến thoái. Đúng như y đã từng lo sợ, quân Nam Hà nắm được dòng dõi hoàng thất của Chiêm Thành như nắm được một nửa sức mạnh. Nội một người đã đủ sức đẩy lui được cả một đội quân.

Nếu bây giờ y phát lệnh tấn công, ai là kẻ sẽ bắn vào người bị trói trước cổng lũy?

Kẻ đưa Kế Bà Tử đến đây hẳn cũng đã nghĩ như y. Đưa mắt về phía cổng lũy bên kia, nơi chiếc xe ngựa đã chạy vào, y nhíu mày. Kế Bà Tử hẳn không nguyện ý đến làm vật tế thần cho lũy Phan Rang, hẳn cũng chẳng việc gì phải đi lang thang quanh nơi đang xảy ra chiến trận. Kẻ đem Kế Bà Tử từ Bình Khang đến tận nơi này chắc chắn không xuất phát gần đây, thậm chí đã ra tay trước cả khi y ra lệnh đưa quân đến Phan Rang. Lường trước Phan Rang bị bao vây cô lập, quân Bình Khang không cứu kịp, kẻ ấy liền bày ra trò thí tướng này.

Sở dĩ quân Bình Khang không kịp hành động vì không ai ngờ đến thành Phan Rí lại dễ dàng bị hạ. Từ Phố Hài, Phan Rí đến Phan Rang, đoàn quân của y đã đánh thần tốc quét qua khoảng đất dài. Đem Kế Bà Tử đến đây, kẻ kia còn ra tay trước y một bước.

Hoàng thân Chiêm Thành là lá bài cuối cùng Nam Hà dùng khi nguy cấp. Lá bài này đã được hạ quá sớm. Chặn đứng y.

Có Kế Bà Tử làm con tin, Cai đội Chu Kiêm Thắng của Phan Rang thành công bức toán quân Chiêm Thành giải vây. Toán quân dân chặn đường Bình Khang cũng rút vào trong núi. Cuộc tấn công của Chiêm quốc dừng lại tại biên giới cũ bên dòng Phan Rang vào cuối năm Quý Dậu.

Ngày đầu năm Giáp Tuất đến cùng với tin Phố Hài, Phan Rí bị hạ, Phan Rang nguy ngập, bốn viên tướng liền chết trận báo về, như một cơn bão quét qua bầu trời phương Bắc.

Cuối đông đầu xuân, mưa lại dệt trắng trời đất Phú Xuân. Những lối phố vẫn đỏ màu pháo, câu đối và đèn chúc tết, không khí lễ hội vẫn tràn ngập các ngôi nhà. Tin chiến trận từ phương Nam xa xôi vẫn chưa loan truyền, và rất ít khiến người nơi này phải bận lòng. Chỉ ở giữa những bức tường cao của phủ điện, sự nghiêm trọng căng thẳng mới bao trùm. Dù chỉ là cuộc chiến trên đất ngoại biên, mọi người nơi này đều hiểu mỗi động thái như thế mang ý nghĩa gì.

Tin chiến trận từ Bình Thuận liên tiếp báo về đã nhanh chóng quét sạch hân hoan đón mừng năm mới của người trong phủ chúa. Tin cuối cùng dừng lại ở thành Phan Rí đã bị hạ, viên Cai cơ dũng mãnh của phủ Bình Khang tử trận, đã khiến vị chúa trẻ bãi bỏ buổi yến tiệc ngày cuối tết, truyền lệnh cho các tướng khẩn cấp về triều.

Lệnh vừa được chuyển đi. Nhiều viên quan tướng vốn đã nghỉ phép ngày tết nhất để về quê, không thể một lúc tập hợp. Ngày cuối tết Giáp Tuất, vị chúa trẻ Nguyễn Phúc Chu một mình trong thư phòng mà ngửa mặt nhìn màn mưa trút xuống ngoài hiên, ướt những tấm giấy đỏ, lây rây rắc lên khung cửa như bụi. Lò lửa cháy lách tách sau lưng cậu, bụi tro giấy vẫn còn tung cuộn trong gió hắt vào.

Tin báo vừa từ nơi xa xôi chuyển đến, đã hóa thành bụi tro.

Cậu thanh niên tư lự hướng ánh mắt lên quầng sáng nhợt nhạt của thái dương sau mây xám mù trời. Nghe tiếng người canh cửa báo bên ngoài, cậu cũng chỉ lên tiếng gọi vào chứ không nhìn. Nguyễn Phúc Nhuận vẫn mặc thường phục, gấu áo lấm tấm ướt, bước vào thi lễ với cái lưng vị chúa đang quay lại. Đã biết tính của người bạn này, Nguyễn Phúc Nhuận tự đứng lên, chỉ như vô tình đưa mắt nhìn về phía lò lửa mà tro xám vẫn còn rải rác xung quanh.

“Chuẩn bị về lại Quảng Nam.” Vẫn không quay đầu, chúa Nguyễn Phúc Chu nói với viên Chưởng cơ mới về Phú Xuân ngày Tết, thậm chí thuyền chở anh ta về vẫn còn đậu ngoài bến. “Lần này tự tùy thời mà hành sự, nếu cảm thấy quá gấp gáp thì không cần phải chờ ý ta.”

Vừa nói, Nguyễn Phúc Chu vừa rời khỏi vị trí bên cửa sổ, vòng về bàn viết mà lấy ra một xấp giấy chuyên dùng viết chỉ sai đã đóng dấu nhưng để trống, đưa cho Nguyễn Phúc Nhuận.

“Trấn thủ Nguyễn Đức Bảo đã lớn tuổi, làm việc cẩn trọng nhưng chậm chạp, có việc gấp thì phải tự quyết.” Vị chúa trẻ dặn thêm khi viên Chưởng cơ cúi đầu nhận xấp chiếu thư đã đóng dấu sẵn[1]. Ngừng lời một lúc, đợi Nguyễn Phúc Nhuận ngẩng đầu nhìn lên, Nguyễn Phúc Chu thở dài. “Quan trọng là tàn cuộc phải gọn gàng. Cần huy động bao nhiêu người, động chạm đến ai, cũng nhất định phải làm.”

“Vâng, chúa công.” Chớp mắt, Nguyễn Phúc Nhuận gật đầu nói khẽ. Viên Chưởng cơ lại mím môi. “Chúa công cho cả nửa Bát tuyệt đi theo thần, liệu có quá bất cẩn? Lúc này kinh thành nhiều phức tạp, e rằng cũng không yên ổn.”

“Ta vốn chỉ định giữ Kỳ ở đây, nhưng nghĩ lại thì quả là vẫn còn có chỗ phải dùng.” Khóe môi khẽ nhếch, Nguyễn Phúc Chu lắc đầu. “Đưa Kỳ đến Quảng Nam, thay bằng U, Tráng, Trường, thế cũng đủ rồi. Nơi này cần người tính cảnh giác cao, có sức lực, chứ tình thế tại phương Nam bây giờ cần kẻ giỏi cơ biến, linh hoạt nhanh nhạy, thông thạo chính trường, có đôi chút thể diện để nói chuyện với quan tướng. Ta cũng không phải tay chân bằng đất để không lo được cho mình.”

“Kỳ là người biết cân nhắc, có việc cần ra tay thì để anh ta làm vẫn hơn.” Ngẫm nghĩ hồi lâu, chúa Nguyễn Phúc Chu nói thêm. Nguyễn Phúc Nhuận nhìn vị chúa, lần này không nói tiếp.

Nhưng Nguyễn Phúc Chu không phải đã an tâm. Gõ đuôi bút xuống mặt bàn, đôi mày cau lại, vị chúa sau một lúc im lặng liền thở dài. Dường như không thể giữ trong lòng mãi, Nguyễn Phúc Chu nhìn lên người anh họ vẫn đứng trước bàn, hạ giọng.

“Nếu cảm thấy tình thế nào có thể giải quyết tốt hơn, khanh có thể…” Vị chúa ngừng lời, nhưng Nguyễn Phúc Nhuận dường đã đoán được ý, liền nhẹ lắc đầu.

“Chúng ta cần lời khai của không chỉ một người.” Đó là lý do mà vị chúa đã căn dặn ‘phải thu xếp tàn cuộc cho gọn’. Bọn họ đã tung ra một mẻ lưới lớn, cá to cần lưới chắc, bằng không sẽ kéo theo cả thuyền xuống biển.

“Cứ bắt vào ngục rồi muốn gì chả được.” Nguyễn Phúc Chu khinh mạn nhếch môi. Cũng đã cảm thấy mình đùa hơi quá đà, khuôn mặt vị chúa trẻ đổi liền ngay sau đó. “Cũng không cần lo lắng quá, vào thời điểm này, nghe đến loại tội trạng ấy, kẻ muốn gỡ tội cho chúng cũng không nhiều bằng kẻ muốn ném chúng xuống sông đâu.”

“Lúc khác thì còn kèn cựa tranh đoạt, âm mưu móc ngoặc với nhau, chứ ai có thể đánh cược đốt cả nhà mình?” Cất tiếng cười khe khẽ trong cổ, ánh mắt Nguyễn Phúc Chu lại hướng ra phía màn mưa ngoài cửa. “Vì có Âm mới có Dương, có đạo đức mới có sa đọa, có tốt đẹp thì mới có gian tham. Cái này sinh thì cái kia đồng thời xuất hiện. Chỉ những kẻ quá ngây thơ mới tin rằng có những kẻ giảo hoạt khua môi múa mép trên chính trường, chiến trường mà kích động được muôn người. Vì có ‘gian hùng’ của Tào Tháo nên mới có ‘nhân nghĩa’ của Lưu Bị, hay là ngược lại, vì Lưu Bị ‘nhân nghĩa’ nên Tào Tháo mới là ‘gian hùng’?

“Cứ để bọn người ấy nếm mùi phản ngược của chính những gì mình tạo ra. Chính chúng sẽ tạo dựng cho ta thứ ta cần.” Bóng của nụ cười vẫn mơ hồ trên nét môi, mắt Nguyễn Phúc Chu như thể phản chiếu sắc mưa bên ngoài mà trở thành một màu không rõ ràng. “Khanh lần này làm việc không chỉ cần có hành động, mà còn phải có thanh thế cho rõ ràng, danh phận cho minh bạch, đánh tiếng đánh tin rộng khắp. Việc sau đó càng dễ xử.”

Một lần nữa, Nguyễn Phúc Nhuận chỉ mím chặt môi, không trả lời.

Thứ nhất là danh, thứ nhì là thanh. Đó là điều đúng trong mọi cuộc chiến – không phải chỉ trên chiến trường. Mà ‘danh’ lại là một thứ do con người tạo ra – Thậm chí không phải bằng chính hành động của mình.

Chiêm Thành khai chiến, tình trạng biên giới bị đẩy vào hỗn loạn. Và hơn hết, những viên tướng đã tử trận liên tiếp trong các thành lũy bị hạ tan tành. Cùng với bối rối, giận dữ, phẫn nộ, thương tiếc, lo lắng thì còn có một loại tình cảm khác hơn, sâu sắc hơn, bùng cháy hơn trong tâm khảm mọi kẻ, tổng hợp của tất cả cảm xúc ấy, gần như là tổn thương.

Kẻ địch khai chiến, thành lũy thảm bại, quân tướng tử vong, đó có thể là một thảm họa. Nhưng đồng thời, cũng có thể là một cơ hội.

Kẻ giành được lợi thế trong loạn lạc không nhất thiết phải có chính nghĩa. Chính nghĩa, lý tưởng, niềm tin, hay bất cứ thứ gì mà con người hay dùng để lừa bịp nhau, lừa bịp chính mình, đều là thứ do chính họ tạo ra – cho mình hoặc cho người khác. Đẩy ngàn người, muôn người ra trước trận tiền, chiến đấu hy sinh chính họ chỉ vì mấy lời hiệu triệu, vì những gì họ thấy thật ‘đúng đắn’? Ồ, thật sự là ‘đúng đắn’ – theo cách nhìn của họ. Kẻ kia thật xấu xa, thật ác độc, lúc nào cũng tìm cách hãm hại họ hay những gì họ tôn thờ tin tưởng. Kẻ kia có thể đích thực đã hành động như vậy, cũng có thể. Nhưng điều đó không phải là ‘chính nghĩa’ nằm về phía bên này. Kẻ đứng ở phía Đông hay phía Tây cánh cửa đều bảo người kia đang ‘ở ngoài’ đấy thôi. Việc cần làm là xây nên một bức tường ở giữa. Còn việc tất cả mọi người làm đều là để bảo vệ chính họ.

Những lời nói như thế được thì thầm giữa những bức tường của phủ điện Kim Long, trong những hồi chuông chùa vang vọng hay khói nhang phảng phất. Người cha đã thành danh quá sớm, quy y cửa Phật quá sớm, đồng thời đã qua đời quá sớm chỉ để lại những hồi ức mơ hồ trong thưở thiếu thời vừa đủ nhận thức. Trong ký ức thưở ban sơ ấy, chỉ có những lời này còn đọng lại, trở thành một nỗi ám ảnh triền miên. Nỗi ám ảnh di truyền khắc sâu vào tâm khảm.

Cho nên, Nguyễn Phúc Nhuận im lặng, không ngạc nhiên cũng chẳng gợn bất bình với những lời tưởng rất phũ phàng thốt trên môi vị chúa trẻ. Cậu ta không sinh ra, lớn lên trong giai đoạn ấy, nhưng đã trưởng thành bên những người còn sót lại cuối cùng của một thế hệ. Những người bên trong và bên ngoài, những người chọn cả hai phương cách để tồn tại. Rồi từ đó, đối với họ, chẳng điều gì còn ý nghĩa ngoài nỗi xót xa.

Quân Chiêm Thành tấn công, với sự trợ lực của một người Thanh, với sự ủng hộ của Chân Lạp, thậm chí Đại Thành. Đó có thể là một nguy cơ. Một nguy cơ đe dọa và thổi bùng lên ngọn lửa tiếp ngay sau đó. Những ngọn lửa đã được thắp âm ỉ trong hàng chục năm dài cần có một ngọn gió để bùng lên.

Trong nỗi giận dữ, thương cảm và lo lắng, trong sự phẫn nộ được tạo ra bởi tổn thương và xúc phạm, trong sự xót xa cho cả người lẫn mình, hạt giống mới sinh trưởng, lớn mạnh và thành hình. Một điều được nhắc đi nhắc lại rồi cũng trở thành sự thật. Một thứ được lặp đi lặp lại rồi cũng trở thành chân lý.

Cho nên Nguyễn Phúc Chu vẫn bình tĩnh, chỉ phiền muộn. Đây là điều cậu ta đã tạo ra, hẳn đã đoán được kết quả. Quan sát gương mặt với đôi mắt không rõ sắc màu chập chờn bóng mưa cùng ảnh lửa của vị chúa trẻ, Nguyễn Phúc Nhuận thầm nghĩ. Hay cậu ta đã chấp nhận, cuộc chơi này, định mệnh này. Thứ đã được đặt vào tay cậu ta, như đồng tiền Thái Bình ngày ấy. Thái Bình, phải trả bao nhiêu để có được một giấc mơ?

Hay cũng chỉ như những điều mà cậu ta đang nói, đang nghiền ngẫm, thứ giấc mơ hướng mọi kẻ, muôn vàn kẻ, đi theo bất chấp tất cả, vốn là thứ không bao giờ thành hiện thực? Như bản chất của một giấc mơ? Thứ hiện thực chỉ tồn tại trong tâm tưởng kẻ nhận thức nó?

Nguyễn Phúc Chu đang quan sát màn mưa gần như bằng ánh mắt của người ra đi năm ấy. Cũng cuối những ngày hội, mưa xuân đã rơi dệt trắng đất trời. Người nắm trong tay thiên hạ, nào nắm được gió mưa?

Người đã thấy được giấc mơ chưa, trong mưa của thiên thu? Trong tan vỡ của ngàn muôn giọt nước rơi từ mây xám dệt thành mưa trắng?

“Vậy hãy tróc nã cho hết, đừng để sót một kẻ nào.” Bất chợt, Nguyễn Phúc Chu lên tiếng, giọng nói vẫn nhẹ nhàng như tiếng mưa. “Dùng bất cứ cách gì cũng phải lôi hết chúng về đây!”

 

 

 

Chú thích:

[1] Trong vài trường hợp, vua chúa có thể bí mật cho thân tín của mình tờ chiếu trắng đã đóng dấu để kịp thời hành động. Như vua Gia Long trong thời chiến đem chiếu trắng cho cô của mình tại Phú Xuân để tập hợp lực lượng. Hay Lê Văn Duyệt sau khi qua đời, bị khám nhà cũng phát hiện ra chiếu đã đóng dấu nhưng để trắng của Gia Long, một trong những chứng cứ để luận tội ông.




Hồi 47: Tướng quân
Monday, September 24, 2012 Author: Trường An

“Đừng nói với ta chuyện quốc gia đại sự, ta cũng không biết đâu.” Nguyễn Tân Lễ lắc đầu, nói bằng giọng nửa độ lượng nửa miễn cưỡng. “Tại sao phải đánh nhau, tại sao phải đưa quân đến nơi này đóng giữ, ta không thể thay đổi, chẳng có quyền lực nào để thay đổi. Mà như ta đã từng nói với cô Dao Luật ngày xưa, có phải là ta không tấn công người thì người sẽ để yên cho ta không?

“Cô Dao Luật có biết, khi nhà vua Bà Tranh tấn công Bình Khang, ta chính là người cầm quân giữ thành không? Cô Dao Luật có ở đó khi chuyện xảy ra? Có thấy người gồng gánh bồng bế nhau chạy trốn? Có thấy quân lính giữ tiền đồn bị thảm sát không còn hình dạng? Có thấy người chết đói trên cồn cát, bỏ mạng giữa rừng hoang? Nếu ta không chặn toán quân của nhà vua ấy lại, thảm cảnh đó sẽ không dừng lại chỉ ở Bình Khang.” Ánh mắt trầm tĩnh đến mức gần như lạnh lùng, Nguyễn Tân Lễ nhìn thẳng vào mắt cô gái trước mặt, thở ra. “Quốc gia dân tộc, đất đai lãnh thổ, danh dự hay nghĩa khí, chuyện của ngàn năm trước hay ngàn năm sau, kẻ thất phu này đều không hiểu. Vì sao mà các người đánh nhau, ta cũng không cần phân định đúng sai. Các người có đại nghĩa, ước vọng, tham vọng, tiền đồ nào đó của mình, nhưng các người đâu có ra trận. Bọn họ không phải là con cờ đá trên bàn cờ, bọn họ không phải hình nhân bù nhìn bằng rơm, máu họ cũng đỏ, thịt họ cũng mềm. Bao nhiêu năm nay ở đây, ta chỉ thở phào nhẹ nhõm được khi có toán lính hết hạn đến chào về quê. Còn bằng không, lệnh bảo đi đến đâu thì ta đi đến đấy. Ta không đi, kẻ khác cũng phải đi. Chẳng thay đổi được cái gì hết.”

Nguyễn Tân Lễ đột ngột im lặng. Dao Luật cũng mím môi không lên tiếng. Móc trong áo ra một điếu thuốc của người Chiêm Thành, châm lửa trong lò hương để đốt, Nguyễn Tân Lễ rít một hơi dài, thở khói mù mịt. Mơ màng nhìn đám khói tan đi trong nắng, khóe miệng viên Cai cơ lại nhếch.

“Ngày mới vào quân, vì có sức khỏe mà được cất nhắc lên một vị trí nho nhỏ, ta được lệnh đưa một toán quân đi chinh phạt đám cướp trong núi hay xuống phá nguồn. Đến nơi, ta phát hiện ra nơi trú ẩn của đám cướp đó chỉ là một làng nhỏ, trẻ con nheo nhóc. Chúng ở trong rừng đói kém liền xuống đồng bằng ăn cướp. Thấy tình trạng ấy, ta mủi lòng rút quân về, còn cho đám trẻ ít lương khô. Đến nửa đường, chúng ta bị phục kích. Đám người trong làng ấy giết hết lính của ta, lột sạch quần áo dao kiếm. Ta phá vây chạy được về nguồn, nơi đó cũng đang bị cướp. Lửa cháy khắp nơi. Có đứa trẻ bị giẫm đạp gần như nát bấy.” Giọng đều đều chẳng chút cảm xúc, Nguyễn Tân Lễ như thể đang kể về làn khói trước mặt. “Bây giờ cũng vẫn vậy. Có lẽ những đứa trẻ được ta cho lương khô ngày xưa đã lớn lên, lại xuống núi cướp bóc rồi.”

“Ngô Lãng hay A Ban gì đó, ta thật hối hận đã không giết chết được y.” Môi mím thành đường mảnh như chỉ, Nguyễn Tân Lễ bất chợt đổi giọng. Ngón tay bấm chặt gần gãy điếu thuốc mảnh, viên Cai cơ gằn từng tiếng. “Bọn chỉ biết kê cao gối mà ngủ biết cái quái gì về đạo đức?”

Như còn định nói, Dao Luật lại cúi đầu lặng im.

Rít hết điếu thuốc, Nguyễn Tân Lễ ném tàn dư ra cửa sổ, quay sang Dao Luật mà hạ giọng.

“Cô Dao Luật đường xa đến đây, nghỉ ngơi một lúc?” Từ Phố Hài đến Phan Rí một mình, đường xa cát cháy, cũng không phải dễ dàng. Với cô gái sứ giả này, viên Cai cơ Nam Hà ngoài rất nhiều cẩn trọng cảnh giác vẫn giữ một phần nể vì, gần như thương cảm. Hai nước giao tranh không chém sứ, huống hồ lại là một nữ nhân.

“Dao Luật nên về thì hơn.” Dao Luật nhợt nhạt cười. Cúi mình chào viên tướng, nàng rời khỏi phòng khi Nguyễn Tân Lễ gọi người đưa khách ra. Binh sĩ ngoài cửa trao lại cho nàng con dê trắng. Nàng đến đây với thân phận người đưa lương cho quân, sọt trái cây trên lưng dê đã được đưa đi.

Rời khỏi cổng thành, Dao Luật nhìn lên tường thành cao lần nữa. Trong những pháo đài, có tiếng người ê a hát một bài ca không thành điệu vọng xuống. Nắng tỏa rạng trên dòng sông, chói chang đến nhức mắt.

Vùng đất của cát không bao giờ ngưng gió. Từ biển khơi đến vực sâu, từ ngày chuyển sang đêm. Gió khiến những cồn cát mênh mông đổi dạng thay hình. Gió khiến những chuyển dời rung động đến khó mà nhận biết.

Gió khiến thế giới trong giác quan của con người hóa thành lầm lạc như ảo ảnh chấp chới giữa thinh không.

Đến đêm, gió ào ào nổi như một cơn mưa. Khiến sự chuyển động của toán quân giữa núi rừng lẫn vào trong thanh âm rào rạt vọng từ bốn phía núi.

Đoàn quân đến từ rừng núi không xâm nhập vào Phan Rí theo đường sông biển mà quân Nam Hà quen dùng. Theo lối Thượng đạo, voi và ngựa, có cả trâu, chuyển quân vượt rừng đi về phía Tây Phan Rí. Trăng vẫn còn sáng, soi tỏ khu thành lũy cổ tọa lạc bên sông. Dừng lại ở giữa những mỏm đất đồi, toán quân lăm lăm giáo mác trong tay chờ đợi.

“Đi!” Thấy thời gian đã đến, y ra hiệu cho Chế Vinh. Viên tướng Chiêm quốc dũng mãnh lần này là người dẫn quân tiên phong. Gật đầu, Chế Vinh đưa tay lên môi huýt lên một tiếng lảnh lót, làm hiệu cho toán quân theo sau anh ta.

Toán quân Chiêm Thành vừa xuất hiện trong khoảng đất trống đã đồng thanh hò reo, khua chiêng gióng kẻng, ầm ầm lao về phía thành lũy bên sông. Thấy động, những đồn canh tiền tiêu của Nam Hà cũng gióng trống báo hiệu ầm ĩ. Lính trú trong thành lập tức ùa ra.

Khoanh tay dựa tường thiu thiu ngủ, Nguyễn Tân Lễ đã ngay lập tức tỉnh dậy khi tiếng hò reo của quân tấn công vọng lại. Vớ vội lấy cây thương bên cạnh, viên Cai cơ lao ra khoảng sân giữa thành, đến đài quan sát chỉ huy. Thấy bóng người, Nguyễn Tân Lễ liền xua tay hét lớn.

“C…” Âm thanh đầu tiên chưa kịp thốt ra đã tắt ngấm trong cổ họng Nguyễn Tân Lễ. Tất cả mọi tiếng nói mà viên tướng cố gắng thốt ra sau đó đều không thể thành hình. Kinh hoảng, Nguyễn Tân Lễ đứng chựng giữa sân, tay ôm cổ, khuôn mặt nhăn nhó méo xệch khi cổ họng chỉ phát ra những thanh âm lào khào vô nghĩa.

“Tướng quân?” Viên tiểu tướng ở gần đó thấy vậy vội chạy đến. Thấy vẻ mặt Nguyễn Tân Lễ, anh ta cũng đâm hoảng hốt theo. “Tướng quân bị sao vậy?”

Cằm bạnh ra khi mắt long lên, Nguyễn Tân Lễ chỉ lắc đầu, chạy về phía đài chỉ huy. Chiêm Dao Luật, vừa chạy, viên tướng vừa nghiến răng nghĩ thầm. Cuộc viếng thăm của nàng ta ngay trước khi cuộc tấn công xảy ra và tình trạng của anh ta bây giờ chắc chắn là do cô ta bày trò ma quỷ. Nhưng không có thời gian để hoảng hốt rối loạn bây giờ. Kẻ tên A Ban hay Ngô Lãng gì đó đã đến, sự sống sót của thành trì này phải phụ thuộc hoàn toàn vào một mình Nguyễn Tân Lễ.

Nhà trong lũy được xây thành những dãy dài chạy vòng quanh. Đến một khúc vắng giữa hai dãy nhà cao, Nguyễn Tân Lễ gần như đâm phải một toán quân đang đứng gần đó. Thấy Nguyễn Tân Lễ, đám lính này chạy lại, mỗi người một câu tranh nhau mà nói.

“Tướng quân, địch ở trên núi xuống!”

“Tướng quân, địch từ sông đánh vào!”

“Tướng quân, ở phía Nam cũng thấy bóng lửa…”

Nguyễn Tân Lễ bị đám quân bao vây truy dồn bởi đủ loại báo cáo mà miệng không thể thốt ra tiếng, chỉ có thể gật lắc, đưa tay ra hiệu cho chúng tránh sang bên. Nhưng thấy thế, đám lính này càng tụ dồn lại, càng rối rít hỏi han.

Vừa tức vừa rối, Nguyễn Tân Lễ đưa tay định gạt đám lính qua, chợt cảm thấy bên sườn nhói lên. Một con dao dài đã cắm vào đúng nơi áo giáp lẫn tấm hộ tâm không che chắn.

Nguyễn Tân Lễ kêu không thành tiếng, vội đẩy mạnh kẻ đang đứng cạnh ra xa. Nhưng đám lính này như thể đã lập mưu trước với nhau, càng liều mạng áp sát lại. Trước khi Nguyễn Tân Lễ kịp giơ thương lên, hai ba con dao dài đã cắm ngập vai lưng viên tướng. Nguyễn Tân Lễ mạnh mẽ thiện chiến bậc nhất trong tướng lãnh của Nam Hà, đám lính tuy đông nhưng chỉ mượn gió bẻ măng, thuận thế tiếp cận đánh lén. Thấy dao đã găm khắp người Nguyễn Tân Lễ, chúng mới yên tâm rút đao kiếm định hạ sát viên tướng này tại chỗ.

Gầm lên một tiếng tựa voi ré, Nguyễn Tân Lễ vung thương đánh dạt đám lính đang bao vây. Mũi thương đâm chết ngay một kẻ xui rủi đứng gần nhất. Mắt Nguyễn Tân Lễ hằn đỏ máu, trợn trừng gần như rách toạc mí. Không thể nói thành lời, viên tướng cầm ngang cán thương, bắt đầu xông thẳng vào đám lính đánh lén. Sát khí ào ạt trên thương lẫn cháy bùng trong mắt viên hổ tướng khiến đám lính hoảng sợ lùi lại, bỏ chạy tán loạn vào các ngõ ngách của tòa thành.

Thấy bóng kẻ cuối cùng biến mất, Nguyễn Tân Lễ chống thương, miệng ộc ra một ngụm máu tanh nồng.

Vừa rồi cử động mạnh, miệng các vết thương bục vỡ, phổi bị đâm thủng bắt đầu đau như xé tung lồng ngực, khoang bụng sôi trộn trạo. Dao cắm vào toàn những điểm yếu hại, đâm lút tận cán. Máu ồng ộc chảy tuôn về phía những vết thương. Mắt Nguyễn Tân Lễ tối sầm, trời đất như sụp xuống xung quanh.

Tiếng quân tấn công đã ầm vang bên ngoài thành. Không có chủ tướng chỉ đạo, quân trên thành vội vàng theo thói quen mà vào vị trí chống đỡ. Nhưng khắp bốn phía cũng đang lao xao tiếng các đoàn quân khác lao về. Pháo bắn được vài đợt rời rạc dè dặt rồi bắt đầu tán loạn.

Lũy Nam Hà không có chủ tướng chỉ huy, toán lính đầu tiên của Chiêm Thành đã áp sát được chân lũy, ném bộc phá vào các pháo đài. Voi dùng sức mạnh của chúng ủi sập các bức tường ngăn trở. Đợt quân thứ hai của Chiêm Thành tràn đến, đem theo pháo đã lấy được của Phố Hài mà bắn vào thành cùng với tên lửa từ các dàn nỏ bay như mưa. Nhìn về phía đài chỉ huy vẫn trống, lính Nam Hà càng bối rối hoảng hốt, càng đánh càng loạn. Voi ủi sập được một góc thành, lính Chiêm quốc theo đó mà leo qua khoảng vỡ, tràn vào trong.

Phía trong thành, lửa bắt đầu lan nhanh từ những nơi pháo và tên lửa bắn vào. Không có người điều khiển dập lửa, đám cháy lan đến một khẩu pháo, nổ một tiếng kinh thiên động địa. Tiếng nổ khiến người càng hoảng loạn. Thấy lính Chiêm Thành tràn vào, toán lính gần đó không thấy ai tiếp ứng vội vàng bỏ chạy. Cục diện trong thành bỗng chốc hóa thành hỗn loạn như tổ kiến bị phá.

Đột nhiên, tiếng trống trên đài chỉ huy chợt vang dội. Trong ánh lửa, bóng áo choàng đỏ của tướng quân chỉ huy thành đã xuất hiện trên đài, cầm dùi gõ trống dồn dập. Nghe tiếng trống, lính coi cửa thành phía sau vội mở toang cánh cửa ở phía quân Chiêm Thành không tấn công. Quân đang sợ hãi vội vàng theo cửa mở mà chạy khỏi thành.

Nghe tiếng trống, thấy bóng người trên đài chỉ huy, quân Chiêm Thành nhất loạt hô lớn. Tên cùng giáo bay xé gió về phía bóng áo đỏ trên đài. Không buồn đưa tay đỡ gạt, Nguyễn Tân Lễ dồn sức mà đánh trống lui quân. Không thể chống lại quân công thành, các cửa thành đều đã mở. Nghe trống lui quân, quân trên thành rút chạy. Nhìn về phía đài cao, lính Chiêm Thành đã bao vây toàn bộ khoảng đất dưới đài. Tên vẫn không ngừng bắn về phía người đánh trống, cắm cả vào mặt trống tua tủa.

Có tiếng hét thảng thốt, nhưng Nguyễn Tân Lễ đã không còn nghe được.

Tiếng vang từ cái trống trước mặt cũng đã như vọng lại từ thinh không xa lắc. Tên đã ngừng bắn hay chưa, thân thể đã tê cứng vì cơn đau quá sức chịu đựng, vì máu đã dần dần cạn kiệt cũng không thể nhận biết. Tất cả sức lực, sinh lực của viên tướng chỉ còn tập trung vào hai cánh tay đánh trống. Trống lui quân, trong tình thế tuyệt vọng cực cùng này.

Hai cánh tay tựa như có ý thức của riêng chúng, tiếp tục nhịp trống quen khi tâm trí đã chìm dần vào bóng tối.

Ánh lửa chói gắt trong mắt Nguyễn Tân Lễ đang nhòa nhạt dần chợt sáng lên lần cuối. Trên tường thành đối diện với đài chỉ huy, lửa lại chợt bùng sáng như một quả cầu khổng lồ. Chiếu tỏ một bóng người dường quen thuộc.

Áo trắng nhuốm máu đỏ. Ánh mắt tối tăm hằn tia máu trên khuôn mặt lấm tấm máu tươi. Vết sẹo kéo dài một bên trán như thể lại tiếp tục rỉ máu. Đao sáng lóa trên tay và sát khí lạnh xác như một bóng ma. Trên tường thành đổ nát và lửa cháy ngập trời. Y như kẻ đã biến mất ngày hôm ấy.

Đó là hình ảnh cuối cùng Nguyễn Tân Lễ nhìn thấy trên thế gian.

Khi toán lính Chiêm Thành đầu tiên chạy lên đài chỉ huy, vài kẻ giật mình kêu lên sợ hãi. Hai tay vẫn nắm chặt dùi tựa vào mặt trống, chân dang rộng trong một tư thế vững vàng, Nguyễn Tân Lễ vẫn đứng thẳng trong đài, mắt mở trừng trừng. Máu đổ thành vũng dưới chân viên tướng, loang ra cả nền đài chỉ huy, rơi xuống bên dưới.

Mắt Nguyễn Tân Lễ vẫn mở trừng trừng, khiến những kẻ vừa chạy lên hoảng hốt quay đầu không dám tiến gần.

Dao Luật vạch đám lính đang nhốn nháo mà chạy lên đài. Thấy hình dạng Nguyễn Tân Lễ, nàng ngẩn người. Một cơn ớn lạnh không biết từ đâu chạy dọc sống lưng, siết chặt trái tim nàng.

Viên tướng Nam Hà đã chết. Cái chết phản chiếu trong đôi mắt mở to gần rách mí, gương mặt mang nỗi thống khổ lẫn giận dữ đông cứng vĩnh cửu. Tên găm hầu như không còn một khoảng hở sau lưng, máu lênh láng nền đài.

Tiếng trống lui quân cuối cùng đã tắt ngấm. Nắng sớm lên khi trong thành không còn một bóng lính Nam Hà.

Không biết Dao Luật đã đứng nhìn trân trân cái xác chết đứng của viên tướng nọ bao lâu. Khi nắng cùng luồng gió đầu tiên mang hơi lạnh của rừng thổi qua, nàng chợt rùng mình run rẩy, gần như ngã nhào xuống sàn gạch loang máu. Cơn nôn nao đến trong nàng với từng cơn lạnh dâng ứ đầy lồng ngực, mắt đỏ lên, nàng như muốn hét lên mà không còn sức lực, muốn khóc lên mà chẳng có nước mắt.

Run rẩy bấu tay vào cột chống để đứng vững, Dao Luật nhìn gương mặt đen sạm như sắt của người đã chết, hầu như không thể điều khiển chính bản thân mình.

Đã chứng kiến bao nhiêu cái chết, bao nhiêu tang thương thảm khốc, nàng nghĩ mình đã không còn xúc động. Nhưng đây là người chính nàng đẩy tới cái chết. Trong khi nàng không hề muốn.

Có thể, là do nỗi thống khổ ngập tràn, đông cứng, viễn tuyệt trong đôi mắt, gương mặt của cái chết nọ. Dường như nàng đã nhìn thấy nó - nỗi đau đớn và bi thống, phẫn nộ và tuyệt vọng - trong ký ức mù mờ, trong giấc mơ xa xôi. Những cái chết bị giày xéo trước khi kịp kết hình, những cái chết gào thét trong lòng đất trước khi tan thành cát. Giờ đây trừng trừng nhìn vào nàng như thể sắp cất tiếng thành lời.

Gió thổi tà áo bay lật phật ngang qua nơi nàng đứng. Một người đi qua nàng tới bên cái xác của viên tướng Nam Hà. Lính tráng vẫn sợ hãi mà lấp ló dưới đài, nàng không cần nhìn đã biết ai đang đến.

Y dừng lại trước xác Nguyễn Tân Lễ, quay lưng về phía Dao Luật. Mái tóc đổ xuống lưng, vạt áo nhuốm màu khói lẫn máu vương, dáng đi của y vẫn có vẻ phiêu diêu nhẹ nhàng như lướt trên nền máu đỏ. Khí tức của y vẫn tĩnh tại thanh lãnh, có phần quá trầm tĩnh lạnh lẽo, khiến có cảm giác y giống như một bóng ma còn tồn tại trong ánh sáng ngày.

Y quay lưng về phía Dao Luật, khiến nàng không thể nhìn được thái độ của y. Nhìn ngắm xác Nguyễn Tân Lễ một lúc, y lên tiếng gọi kẻ bên dưới bằng tiếng An Nam. Một nhóm lính Nam Hà đi lên lầu, thấy xác Nguyễn Tân Lễ liền túm tụm lùi lại, dường như muốn bỏ chạy mà sợ y nên phải đứng yên.

“Các ngươi làm rất tốt.” Vẫn không quay đầu, y thấp giọng nói với đám lính vừa lên. “Số tiền còn lại, Tư Tư cô nương sẽ đưa đầy đủ.”

Nghe thế, đám lính Nam Hà thở phào. Một kẻ mau miệng liền vội vàng đỡ lời cho chúng bạn.

“Tướng quân oai nghi thần võ, được giúp sức ngài là hân hạnh của chúng tôi, đâu dám hỏi chuyện tiền bạc…” Gã liến thoắng khoa tay, nói chưa hết câu đã bị y ngắt ngang.

“Không phải vì tiền? Thì vì cái gì?” Y ngoảnh nhìn qua vai, nói như cười. Trong khi đôi mắt sâu tối càng lạnh lẽo ghê người. Cái nhìn của y khiến kẻ đang nói cứng miệng. Một kẻ khác vội òa ra khóc, dập đầu như tế sao.

“Không cần tiền, không cần tiền, chỉ cần tha cho tôi về đi, tướng quân!” Tên lính Nam Hà còn rất trẻ van xin, giọng gần như vỡ ra. Tiếng khóc ong lên, y liền phất tay chán ngán.

“Xuống đi!” Tư Tư sẽ giải quyết đám lính này thay cho y.

Đám lính Nam Hà líu ríu lui xuống. Y đưa mắt nhìn qua Dao Luật, chợt ngửa cổ cười một tiếng ngắn khô khốc. Tiếng cười của y tựa như tiếng cành khô gãy.

“Nguyễn Tân Lễ, cuối cùng đã biết bị lừa gạt và phản bội là thế nào?” Y nghiêng đầu nhìn đôi mắt trợn trừng trắng dã của người chết, bình đạm nói như trò chuyện. Tiếng nói của y không cao hơn tiếng thì thầm. “Bảo vệ chúng? Chúng chỉ cần được chút tiền, được trở về quê, rồi sai chúng chuyện gì cũng được. Mà những thứ như thế, ai cho được chúng?”

Y không cười. Y nói, hay thì thầm, rất nhẹ nhàng trầm mặc. Nhưng Dao Luật lại cảm thấy ớn lạnh đến từng mạch máu, từng thớ da. Cơn lạnh gần như khiến nàng hoa mắt.

“Anh cho người mua chuộc quân lính?” Trấn tĩnh lại, Dao Luật lên tiếng hỏi. Y đã cho nàng vào thành ‘mua chuộc’ Nguyễn Tân Lễ. Dự tính không thành công, nàng tẩm độc câm vào mấy buồng chuối mà Nguyễn Tân Lễ ăn, để viên tướng này không thể cầm quân thủ thành. Nàng đã vào thành với danh nghĩa của người đưa lương thực, toán lính không biết nên đưa sọt trái cây vào nhà bếp. Chuối có buồng có vỏ, ít ai nghĩ đến việc cảnh giác với độc được đưa vào trái.

Nhưng quả thật nàng không có ý định hạ sát Nguyễn Tân Lễ. Không ngờ rằng y đã có thêm kế sách kèm theo.

Nghe câu hỏi, y quay đầu nhìn nàng. Cái nhìn của y sâu và lâu đến mức từng sợi tóc của Dao Luật cũng phải dựng lên sau gáy.

“Cô tin ta?” Khóe miệng y khẽ động như thể cái bóng của nụ cười. Cái cười trên khuôn mặt y còn quỷ dị hơn là nhíu mày nhăn mặt. “Đã bao nhiêu người chết vì cô, cô có biết không? Cô có để ý đến không?”

Lời y vẫn rất nhỏ nhẹ, gần như mềm mại, gần như thì thầm. Từng lời quất thẳng mặt Dao Luật như kim độc.

Không nhìn đến xác Nguyễn Tân Lễ, y phất tay áo bỏ xuống đài. Để lại một mình Dao Luật cùng xác chết đứng trân như tượng gỗ.

Bao nhiêu năm trước, lũy Rạch Năn bị phá hủy, gia đình họ Hoàng bị thảm sát không còn một mạng.

Bao nhiêu năm trước, Dao Luật là sứ giả do nhà vua Chân Lạp gửi đến lũy Rạch Năn.

Những lời Hoàng Tiến nói cùng nàng đã rơi vào tai toán quan tướng Nam Hà. Khiến họ quyết triệt tiêu ‘kẻ phản thần’ Hoàng Tiến.

Y không quên. Bất cứ điều gì. Bất cứ ai. Y càng không tha thứ.

Mỗi kẻ, từng kẻ một, đều sẽ nhận được báo ứng của mình. Ngay cả Càn Khôn.

Ngày cuối năm Quý Dậu, Phan Rí bị hạ, Cai cơ Nguyễn Tân Lễ bị phản quân giết chết trong thành. Chiếm lại thành lũy Parik và lãnh thổ của Chiêm quốc cũ cùng tài vật, vũ khí của Nam Hà với tổn thất ít nhất, đoàn quân của Oc-nha That và A Ban tập trung lực lượng hướng về phương Bắc.




Hồi 46: Thành Lũy
Friday, September 21, 2012 Author: Trường An

Tháng cuối năm Quý Dậu, đội quân do Hữu trà viên Oc-nha That lãnh đạo với sự giúp đỡ của một viên tướng người Đường là A Ban tấn công Phố Hài, tiêu diệt đội quân Nam Hà đóng nơi đây. Thành lũy nơi cửa sông Phố Hài thông ra biển, dòng sông cắt đôi vùng đất xuống phương Nam, đã bị quân Chiêm Thành chiếm giữ.

Nghe tin lũy Phố Hài bị tấn công, đội quân của dinh Bà Rịa tức thời phản ứng. Khi họ đến, cửa tấn Phố Hài đã bị phong tỏa bằng một đội thuyền dàn ngang. Ngoài thuyền chiếm được của Nam Hà và thuyền của cư dân quanh vùng, còn có những chiếc thuyền lạ trông rõ ràng là của bọn Tề Ngôi phương Bắc. Thấy đoàn quân thuyền tấn công, trong lũy phát pháo hiệu, voi trận cũng đã dàn hàng trước cổng lũy.

Cai đội dinh Bà Rịa chỉ huy đoàn quân Nam Hà liền cho quân đổ bộ lên bãi biển, đoàn thuyền chiến hỗ trợ bên ngoài. Toán quân bộ cập bến trên những chiếc thuyền nhẹ, kéo theo pháo, sắp thành đội ngũ mà tiến. Vừa vượt qua bãi cát, phía trước nhóm quân đã ầm vang một tiếng kinh động. Bộc phá được gài trong đất hất tung hàng người đi trước, nhóm quân đi sau vội vàng lùi lại. Đến lúc này, bộc phá trong cát mới được kích nổ, chặn đường rút lui của toán quân Nam Hà. Pháo và thuốc súng gặp lửa nổ tung, cuốn cát bay cao hàng chục trượng. Chỉ trong vài khắc, trên bờ biển chỉ còn la liệt xác người.

“Công thuyền!” Thấy toán quân đổ bộ bị diệt, Cai đội Dực nghiến răng ra lệnh cho đoàn thuyền chiến. Thuyền chiến Nam Hà được trang bị sẵn pháo lớn, súng dài, so với toán thuyền Tề Ngôi tuy thiện chiến nhưng thô sơ thì vẫn có lợi thế hơn khi giáp chiến.

Pháo trên thuyền Nam Hà nổ, hất tung mấy chiếc thuyền con chắn trước cửa tấn. Vừa bắn pháo vừa lừng lững tiến vào, đoàn thuyền chiến Nam Hà bức toán thuyền Chiêm Thành lùi về sau. Đoàn quân của dinh Bà Rịa chủ về thủy chiến trên biển, sắp thành hàng ngũ mà đều đặn nã pháo vào địch quân. Những chiếc thuyền nhẹ áp sát cửa biển, dùng súng và bộc pháo hạ kẻ trên thuyền. Chẳng mấy chốc, toán thuyền Tề Ngôi quay đầu chạy vào sông, kéo theo đoàn thuyền thuộc hạ.

Cai đội dinh Bà Rịa liền cho thuyền vượt cửa biển tiến đến thành lũy trong đất. Đoàn thuyền Nam Hà vừa vào sông, pháo trong lũy đã nổ, một đoàn thuyền nhẹ khác kéo đến chặn đường. Gặp súng và pháo của thuyền Nam Hà, toán thuyền nhẹ vỡ vô số, lính trên thuyền phải nhảy xuống sông trốn thoát.

“Bắn!” Thấy chiến thắng đã gần ngay trước mắt, Cai đội Dực hăng hái ra lệnh. Lời vừa thốt khỏi miệng, viên Cai đội đã nghe thấy tiếng la hoảng hốt ở đoàn thuyền phía sau. Ngoảnh nhìn lại, viên tướng Nam Hà lạnh người khi nhận thấy những dấu đen nhờ nhờ trên mặt nước.

Triều đang rút xuống, và những chiếc chông sắt đã nhô lên khỏi mặt sóng. Có vài chiếc thuyền đã bị đục thủng, thủy thủ trên thuyền kêu la tán loạn. Trên những chiếc thuyền khác, người người cũng hoảng hốt thất sắc. Đã lọt vào trận địa chông này, không thể thoát ra.

Nguyên tấn Phố Hài có cửa biển rộng đến sáu mươi trượng, thủy triều lên cao năm thước, thủy triều xuống sâu ba thước, sóng nước cuồn cuộn. Người bên ngoài vào không rõ đợt triều lên xuống ở cửa biển dễ dàng mắc cạn. Giờ đây, chông đã được đóng kín khoảng cửa sông thắt nút, ngăn toán thuyền lọt bẫy chạy ra. Không còn cách nào khác, Cai đội Dực vội cho thuyền chạy nhanh vào trong sông tránh chông, vô kế khả thi cứu những thuyền đã bị đục thủng.

Nhưng trong cơn hoảng hốt, đoàn quân Nam Hà lại không để ý đề phòng những chiếc thuyền nhẹ vẫn còn chìm nổi phía trước. Đến khi chiếc thuyền nghiêng đi, rung lắc dữ dội, viên tướng Nam Hà mới giật mình nghĩ đến: dưới nước không chỉ có chông sắt.

Đã vào sông, sóng gió giảm bớt, những kẻ thông thạo thủy tính đã nhảy xuống nước đục thuyền. Tiếng la hét truyền đi trên sông. Hai bên bờ, những dàn nỏ khổng lồ được kéo ra, tên bay như mưa vào đoàn thuyền mắc kẹt. Những kẻ rơi xuống sông lập tức trở thành mồi cho dao rựa nấp sẵn dưới lòng nước.

Đầu bên kia, toán thuyền Tề Ngôi lại xuất hiện, chắn giữ cửa sông. Chiếc thuyền lớn của tướng Nam Hà vừa trôi đến, lập tức bị hỏa pháo nhấn chìm trong lửa.

“Lão Đại, ra tay có hơi quá đáng không?” Đứng cạnh sàn chỉ huy, một tên Tề Ngôi quấn khăn xám dè dặt lên tiếng, nhìn chiếc thuyền chủ tướng của quân dinh Bà Rịa từ từ chìm xuống. Tên chỉ huy lực lưỡng có một vết sẹo chạy ngang mặt lầm lì khoanh tay không trả lời.

“Rút!” Thấy toán thuyền của Nam Hà đã bị hạ, Lâm Phi chỉ buông một mệnh lệnh ngắn gọn. Trên những chiếc thuyền bên cạnh, Bát Thanh Ngư nghe lệnh liền cho thuyền quay đầu, theo chủ tướng lui về cảng bên kia, để chiến trường lại cho toán lính Chiêm Thành.

Hoàng hôn đỏ ối đổ xuống, ngập tràn dòng nước nhấp nhô bọt sóng đỏ. Nước cuốn xác người trôi ra biển. Thủy triều đã lại lên, che giấu những chiếc cọc nhọn trong lòng nước. Lính trong lũy đã kéo được vài chiếc thuyền chiến lợi phẩm vào bờ. Súng, pháo và vũ khí được chất lên xe kéo về kho. Vàng bạc, giáp trụ, tài vật có trên thuyền được đem chia nhau.

Nhìn lại đám đông ồn ào lần cuối, y im lặng quay lưng bước vào lũy. Phía sau, cô gái áo lục cũng lặng lẽ đi theo.

“Chỉ có Lâm Phi thôi à?” Đến nơi vắng vẻ, y lên tiếng. Tư Tư đưa mắt nhìn y, cân nhắc rồi mới trả lời.

“Linh lão đầu bảo Lâm Phi là người đại diện cho ông ta. Ý chừng vẫn còn muốn xem tình thế ra sao rồi mới nhúng tay vào.” Ngừng một khắc, nàng nói thêm. “Nhưng Lâm Phi ngoài bọn đàn em Bát Thanh Ngư cũng còn nhiều thuộc hạ. Nếu gã kêu gọi, sẽ còn rất nhiều kẻ gia nhập. Quân Nam Hà giàu có, tài vật để chúng chia nhau cũng đủ hấp dẫn. Dù sao chúng cũng chỉ là hải tặc, ở đâu có lợi thì đến thôi.”

Nếu không còn Lâm Phi, bọn họ cũng có thể dựa vào tiền của để chiêu tập bọn hải tặc khác nhan nhản trong vùng biển này. Đó mới là ý nàng muốn nói. Y nhìn qua nàng, khóe miệng khẽ động nhưng không lên tiếng.

Ý y không hỏi về Lâm Phi lẫn bọn hải tặc. Linh lão đầu chẳng khác gì một con thằn lằn. Lão có thể hy sinh ‘cái đuôi’ Lâm Phi cùng toán cướp được lão nuôi dưỡng trong bóng tối, thoát đi khi cần thiết. Nhưng y cần lão không phải chỉ để phụ giúp vài việc vặt như quân lương hay lính tráng. Lão vẫn còn chùng chình chưa quyết, y vẫn còn chưa yên tâm để hành động.

Lần này triệt hạ cả toán quân cứu viện của dinh Bà Rịa, hẳn sẽ làm Nam Hà nao núng mà không vội vã đem quân tấn công. Nhưng ngồi đợi kẻ địch tập trung lực lượng đánh đến cầm bằng tự sát. Những kẻ đã hứa hẹn kia vẫn còn trông chờ một động thái quyết liệt chắc chắn hơn. Nhưng y lại vẫn còn một điểm chưa giải quyết được, điều có thể ảnh hưởng rất lớn đến chiến cuộc tại nơi này: Vương tộc của Panduranga – Hay nói đúng hơn, những người mang dòng máu hoàng gia của Chiêm Thành. Ngoài nhà vua Bà Tranh đang bị giam giữ tại Phú Xuân, em trai nhà vua là Kế Bà Tử cùng con cháu ông ta vẫn đang nằm trong tay Nam Hà, bị Nam Hà quản thúc.

Không có danh nghĩa chính thống, bọn y dễ dàng bị gọi là toán người phản loạn, dù có mục đích hay lý do gì. Thứ nhất là danh, thứ nhì là thanh, hai điều cần thiết trước hết để bắt đầu một cuộc chiến.

Nắm được dòng dõi vương thất Chiêm quốc trong tay, Nam Hà xem như đã nắm được phân nửa danh nghĩa này. Đất nước, nói cho cùng, chẳng là gì nếu không còn vua. Không còn vua, với chúng dân, dù là Nam Hà hay Oc-nha That lãnh đạo cũng chẳng có gì khác biệt.

“Cô ta đến chưa?” Ngẩng đầu nhìn quanh, Tư Tư chợt hỏi. Vẫn đi trước, y trả lời mà không nhìn lại.

“Đã tới, đi rồi.” Y nhè nhẹ nhíu mày. Đột ngột dừng chân, y chờ Tư Tư đến bên cạnh, đưa tay cho nàng. “Nên ta có việc cần nhờ cô.”

Trong tay y là một phong bao màu đỏ.

***

Trong tay nàng, phong bao đỏ giữa bóng tối chuyển sắc sẫm như máu đông.

Trăng vẫn sáng, tuy đã không còn tròn vạnh như rằm. Con đường giữa lũy ram ráp cát trên đất đá. Đưa tay gõ nhẹ thái dương, ánh mắt nàng lướt qua phong bao rồi đến vầng trăng trên cao. Ánh nhìn vì mấy phần chuếnh choáng mà cảnh vật trở thành chao đảo nhòa nhạt.

Nàng nhắm mắt, đứng giữa đường cố lấy lại trấn tĩnh. Nàng đã uống quá nhiều rượu buổi tối này, càng lúc rượu càng ngấm, khắp người nóng bừng bừng, đầu óc nửa mê nửa tỉnh. Lồng ngực lợn nhợn cồn cào, nàng cúi người gần như ngã xuống đất mà nôn khan. Nhưng rượu có thể vì được bỏ một thứ dược thảo nào đó vào khiến người uống ngầy ngật chứ không chỉ là men đắng, thái dương nàng đau như búa bổ, đầu nặng chân nhẹ chứ không nôn ra được.

Khom người trên đất thở dốc, nàng không nhận ra người bước tới phía sau.

Trong lũy này vốn chỉ có vài đầu lĩnh chỉ huy thay nhau canh giữ. Vì lý do tránh bị tấn công bất ngờ, lính tráng không ở tại lũy cạnh tấn biển mà trú sâu trong đất. Khi thấy một bàn tay đặt lên vai, Tư Tư chỉ nghĩ đến một cái tên duy nhất: Lâm Phi. Ở đây, chỉ có gã quan tâm đến nàng, dám quan tâm đến nàng.

“May quá, đỡ tôi vào nhà với.” Thở ra, Tư Tư mệt mỏi thì thào. Người nọ đỡ nàng đứng lên, đi vào gian nhà của quan tướng. Để nàng nằm xuống phản, kẻ ấy rót một ly trà đưa lại.

“Sao uống nhiều thế?” Người kia hỏi khi nàng chầm chậm nhấp ly trà. Mắt vẫn nhắm chặt chế ngự cơn chao đảo, tai nàng ù đi, nghe tiếng được tiếng mất. Tiếng nói của người nọ, vọng qua khoảng không mê mông, như thể tiếng chuông vang từ xa tít.

Mất một khoảng thời gian để nàng hiểu được câu hỏi ấy.

“Công việc.” Buông ly trà, nàng lầm thầm trả lời. Cơn đau lại thấu lên khiến nàng gục người ôm đầu. Cơn đau khiến nàng đột nhiên đâm ra giận dữ với câu hỏi nọ. “Bao nhiêu năm rồi, không thấy sao?”

Bao nhiêu năm, từ Tây Phong lầu đến Ngưng Yên đình, từ rừng núi đến hoang mạc phương Nam, nàng đã sống như thế. Lấy tiếng cười biến thành rượu ngọt, lấy cơn say biến thành vũ khí, lấy cuộc đời hóa thành chiến trường.

Nữ tử phong trần, có thản nhiên đạm bạc như dòng nước, có tài tình mỹ lệ như sương mai, rốt cuộc cũng chỉ trao đổi tiếng cười, trả vay nước mắt.

“Oán hận rồi?” Người kia im lặng, rồi ngồi xuống ghế bên kia, nhàn nhạt hỏi. Giọng nói nghe như không có ý tò mò, chỉ tĩnh lặng thể vô tình mà hỏi.

“Oán ai?” Nàng cười khi vẫn gục đầu giữa hai cánh tay. Tâm trí chìm dần vào hỗn loạn. “Tôi đã bảo, phải đi trả nợ. Cha đã bán tôi cho chủ nhân. Món nợ ấy trả một đời không hết.”

“Nếu không phải vì thế, tôi sống làm gì?” Thở ra nhè nhẹ, Tư Tư lắc đầu. Ngả lưng nằm xuống phản, nàng co người ôm lấy chân, đột nhiên lại mỉm cười. “Nên có cô Tư cô Năm nào đó thương anh thì hãy lấy cô ta đi, theo tôi làm gì?”

Phong bao đỏ vẫn kẹp chặt giữa những ngón tay nàng rơi xuống. Y nhặt nó lên. Phong bao đã trống. Thứ trong đó hẳn đã được truyền đi.

Lấy chăn cạnh bên, y đắp lên cho Tư Tư, rồi rời khỏi phòng.

Tiếng thở của cô gái rất khẽ, không thể vọng qua lớp cửa dày.

***

Cái tin lũy Phố Hài và toán quân cứu viện của dinh Bà Rịa cùng bị tiêu diệt làm chấn động cả vùng đất phương Nam. Phan Rí, đại bản doanh của quân Nam Hà đóng tại lãnh thổ Chiêm Quốc cũ – nay là phủ Bình Thuận, dày đặc quân canh từ bờ biển vào trong đất. Con sông chảy trước thành lũy cũ của triều đình Chiêm Thành chói ánh đao kiếm giữa ngày. Trên các pháo đài, ổ lũy, pháo đã sẵn sàng chĩa nòng về bốn phía. Voi ngựa lẫn người chộn rộn đi lại. Trên khuôn mặt người nào cũng mang một sắc thái trầm trọng như đang đón chờ bão tố.

Cai cơ Nguyễn Tân Lễ vẫn chưa cho lệnh xuất quân cứu viện Phố Hài. Dinh Bà Rịa sau trận thảm bại đã đóng cửa tự thủ, ban lệnh giới nghiêm cho cả Trấn Biên, Đông Phố. Đã có người đi liên lạc cùng Trấn Biên, nhưng e rằng phương cách điều hai đội quân làm thế gọng kềm khó có thể thực hiện được lúc này.

Ba viên tướng của Nam Hà bị giết chỉ trong vòng vài ngày, bởi một toán quân ‘man di’ của rừng núi chỉ có voi ngựa cùng dao rựa. Cầm đầu toán quân ấy là một kẻ ‘thần thông quảng đại’, ‘Ma vương’, ‘thần linh’, ‘phù thủy’… theo bất cứ cách gọi nào mà người ta có thể nghĩ ra. Câu chuyện một đồn mười, mười đồn trăm về kẻ xuất quỷ nhập thần, mình đồng da sắt, có tài hô phong hoán vũ đã hiệu triệu sấm chớp đến phá tan lũy Phố Hài, điều khiển thủy triều làm lũ nhấn chìm đội quân của Bà Rịa, đã lan khắp hang cùng ngõ hẻm. Càng ngày chuyện càng hoang đường kinh dị hơn, càng ngày càng khiến kẻ nghe chuyện phải lạnh lưng khiếp hãi hoặc say sưa mê cuồng. Kẻ phải đối đầu với y thì khiếp hãi, trong khi người mong chờ y đến thì say mê.

Những tin đồn nhảm chỉ trong vòng nửa ngày đã lan đi như lửa cháy. Chốc chốc lại có tiếng kẻng báo động đánh lên chỉ vì cây lay lá rụng, gió thổi cát bay. Những toán quân không chỉ canh phòng kẻ tấn công mà cả người trong vùng. Trong các paley, nhiều cái đầu đang tụ châu vào nhau, nhiều kế hoạch đang được vạch sẵn. Cũng như toán quân Nam Hà, người trong vùng đang chờ đợi.

Cai cơ Nguyễn Tân Lễ đã gửi tin cáo cấp về cho dinh Bình Khang, tăng cường canh phòng Phan Rí. Chủ tướng không có ý định cứu viện Phố Hài, quân lính thì thầm. So với việc điều quân đến một địa phương nhiều bất trắc để đối đầu với kẻ thần hay quỷ không rõ kia, đóng cửa thành giữ mình vẫn tốt hơn.

Sự căng thẳng càng lúc càng bị những lời đồn thổi đẩy lên cao như cát trong gió. Khi Chiêm Dao Luật đi qua toán quân cạnh cửa, bọn họ thậm chí không để ý đến nàng. Ăn mặc như một thiếu nữ Chiêm Thành, khăn lớn quấn đến ngang mắt, tay dắt theo một con dê trắng thồ sọt trái cây trên lưng, nàng trông tựa như người cung cấp lương thực cho nhà bếp. Nhưng lính đưa đường không dẫn nàng về phía nhà bếp mà tới thẳng bản doanh của tướng quân. Thành Parik vẫn còn giữ nguyên những dãy nhà gạch của cung điện cũ vốn đã quen thuộc với nàng từ lâu. Trong lúc chờ người vào báo, Dao Luật đưa mắt nhìn ngắm những hàng rào phòng thủ mà quân Nam Hà đã lập. Con dê bên cạnh nàng kêu be be vài tiếng như giục giã.

Trao con dê cho người lính canh, Dao Luật đẩy cửa vào trong. Nắng chỉ soi đến phân nửa căn phòng rộng. Ngồi trong bóng râm, trên chiếc chiếu mỏng, Cai cơ Nguyễn Tân Lễ nhìn nàng, không đứng dậy. Viên Cai cơ gật đầu đáp lời chào của nàng, ra hiệu cho nàng ngồi phía đối diện.

Lệ trong quân vụ không cho uống rượu, Nguyễn Tân Lễ đẩy cho nàng bình nước trắng chỉ thoảng mùi trà. Đôi mày rậm vẫn cau như muôn thưở, gương mặt đen sạm vì nắng gió của người tướng Nam Hà như thể bao giờ cũng có vẻ bực bội. Nhưng Dao Luật không lấy thế làm phiền lòng hay sợ hãi. Nàng rót nước ra cả hai chiếc ly, cúi người mỉm cười.

“Lâu không gặp, tướng quân.” Nàng nói, nhận rõ ánh mắt cảnh giác hướng về mình. Nguyễn Tân Lễ phát ra một thanh âm như cười trong cổ.

“Lần này cô Dao Luật đến lại định thuyết dụ ai đây?” Ngả lưng dựa vào tường, Nguyễn Tân Lễ nheo mắt nhìn cô gái mặc trang phục Chiêm Thành. Quả thật, nàng ta là người Chiêm Thành, viên tướng thầm nghĩ.

Đã lâu không gặp – Từ khi Nguyễn Tân Lễ bị chuyển về dinh Thái Khang, giữa trận chiến với Chân Lạp. Sau khi Mai Vạn Long bị biếm truất thành thứ dân, những viên tướng chủ hòa trong quân cũng bị đẩy về Thái Khang. Sau đó, việc tiếp tục lặp lại với toán quân do Nguyễn Hữu Hào chỉ huy. Tất cả chỉ vì cô gái này.

Nàng ta tiếp tục xuất hiện ở đây, hẳn chẳng phải là điều tốt lành.

Nghe câu hỏi, Dao Luật nhè nhẹ cười. Nàng nhìn lên, hướng về phía viên Cai cơ mà mỉm cười.

“Tôi đến thuyết dụ tướng quân.” Nàng nói với gương mặt không đổi sắc. Đôi mắt to đen huyền lại thoáng vẻ ấm áp thân tình. “Nghe thấy tướng quân ở đây, Dao Luật tình nguyện đề nghị được đến trò chuyện với tướng quân. Dù sao chúng ta cũng đã từng có chút ít giao tình ở Đông Phố. Tấm lòng của tướng quân, Dao Luật không bao giờ quên.

“Dao Luật càng không muốn tướng quân bị tổn hại.” Thấy đôi mày rậm của Nguyễn Tân Lễ cau chặt, Dao Luật lắc đầu, trầm giọng nghiêm trang. “Dao Luật không bao giờ quên những gì tướng quân đã nói trong thời gian ở Đông Phố. Dù khác nước khác chủ, Dao Luật vẫn kính trọng tướng quân là người tận tụy trung lương, làm hết chức trách của mình để bảo toàn cho kẻ dưới. Khi nghe đến tướng quân đang ở nơi đầu sóng ngọn gió, Dao Luật lại chỉ e ngại vì tướng quân cương liệt dũng mãnh như thế mà bị tổn hại.”

“Các người muốn gì?” Thở phì ra mũi, Nguyễn Tân Lễ ngắt lời Dao Luật. Khi nghe nàng ta báo danh muốn gặp, vốn đã biết trước sẽ phải nghe những lý lẽ dông dài này, Nguyễn Tân Lễ không buồn để tâm tới, chỉ nóng nảy hỏi ngay vào việc chính.

Dao Luật nhìn Nguyễn Tân Lễ. Trong ánh mắt của nàng lại thấp thoáng loại cảm xúc khó gọi tên ra.

“Kẻ đang lãnh đạo quân đội bên kia gọi là A Ban.” Nàng chầm chậm nói. “Cái tên A Ban thì tướng quân không biết, nhưng Ngô Lãng thì tướng quân có còn nhớ không?”

Nguyễn Tân Lễ chớp mắt. Rồi trái ngược với ý nghĩ của Dao Luật, viên tướng này lắc đầu.

“Đó là ai?” Nhìn vẻ mặt, nghe giọng nói Nguyễn Tân Lễ, quả thật anh ta không biết, hoặc không nhớ, cả hai cái tên này.

“Con nuôi của Hoàng Tiến ở lũy Rạch Năn.” Dao Luật nhẹ nhàng nhắc. Thấy nhận biết chợt sáng lên trong mắt Nguyễn Tân Lễ. Cau có cắn môi một lúc, viên Cai cơ “à” lên một tiếng ngắn.

“Gã ‘thiếu chủ’ đó?” Sau khi đụng độ, thậm chí Nguyễn Tân Lễ cũng không tìm hiểu về tên thanh niên đã xông vào lũy nọ. Có lẽ cái tên y đã từng được nhắc qua, nhưng anh ta cũng không để tâm mà ghi nhớ. Cúi mặt nhìn mấy ngón tay búng vào nhau hồi lâu, Nguyễn Tân Lễ chợt lắc đầu. “Ngô Lãng cái gì? Ngô với Hoàng cũng chỉ đồng âm khác gốc[1], chẳng qua là dựa vào mà đặt. Ngô Lãng cũng vậy mà A Ban cũng vậy, toàn là kẻ mượn danh làm càn.”

“Y vẫn còn sống và đang muốn trả thù tướng quân.” Bỏ qua mấy câu nói của Nguyễn Tân Lễ, Dao Luật nhắc. Nàng nói ngay trước khi Nguyễn Tân Lễ vừa mấp máy môi. “Y đã chiêu tập được từ bọn hải tặc đến người Thượng trong núi, khí thế ngày càng hùng hậu. Hai toán quân của Nam Hà bị diệt gọn ở Phố Hài cho thấy y cũng chẳng dựa vào mấy trò hô mưa gọi gió tầm phào mà làm được. Biết tướng quân ở đây, y càng quyết đánh hơn gấp bội, thề một sống hai chết với tướng quân.”

“Thì cứ đến đi.” Nhướn một bên mày, Nguyễn Tân Lễ thản nhiên nói. “Hay y chỉ mạnh mồm chứ trong lòng sợ hãi ta nên cử cô Dao Luật đến đây giả ma giả quỷ trước?”

“Ta ở đây bao nhiêu năm, có bao nhiêu kẻ thù, cô Dao Luật hẳn có muốn cũng chẳng đếm được đâu.” Nguyễn Tân Lễ cười nhạt, xua tay. “Đi đánh người còn trấn giữ trong đất người, bất cẩn đi lang thang ra ngoài, mỗi kẻ ném cho một nắm cát cũng đủ chôn ta xuống ba thước đất rồi. Ngay ở trong thành này, mỗi đêm không nghe quỷ khóc ma gào thì cũng là người đến làm loạn. Bây giờ có bị đâm chết trên mặt thành, ta cũng chẳng ngạc nhiên hay oán trách gì đâu.

“Chẳng qua, chức nghiệp của ta là như thế. Chúng dân, binh lính, chủ nhân, triều đình, ta có trách nhiệm với tất cả bọn họ. Chủ nhân hay triều đình có thể phụ ta, ta cũng có thể chẳng quan tâm gì lắm tới bọn họ. Nhưng một khi không có ta ở nơi này, ai sẽ bảo vệ binh sĩ thuộc hạ của ta? Một khi không có người trấn giữ nơi đây, ai sẽ phải chịu cảnh đầu rơi máu chảy ngoài chúng dân vô tội? Tất nhiên ta chẳng thể đứng ở đây cả trăm ngàn năm, nhưng nếu bảo vệ họ được một ngày, ta sẽ bảo vệ một ngày; bảo vệ họ được một năm thì ta sẽ đứng nơi đây một năm. Kẻ nào muốn đánh phá thì cứ phải giết ta trước.”

“Đất này nào phải của Nam Hà, thành này nào phải của Nam Hà, tướng quân hy sinh vì cái gì ở đây?” Dao Luật nhíu mày. Nguyễn Tân Lễ liếc nhìn nàng, rồi đẩy rộng cánh cửa bên cạnh nhìn ra sân nắng.

“Trên đất có người.” Viên tướng giản dị nói. “Những người lính này không phải ai cũng muốn đến đây. Họ đi theo đợt đinh, đợt phu, rồi bị đưa đến đây. Con cái nhà giàu được chọn chỗ êm ấm, chỉ lính nghèo mới bị đưa đến nơi sơn cùng thủy tận, tranh chiếm liên miên này. Nếu ta không bảo vệ họ, ai sẽ giữ được mạng sống cho họ đây?”

 

 

Chú thích:

[1] Cùng âm Ng, theo giọng Quảng Đông thì là họ Ngô, theo giọng Triều Châu thì là họ Hoàng.




Hồi 45: Khởi chiến
Wednesday, September 19, 2012 Author: Trường An

Trong đêm, ánh trăng trên cao lạnh buốt.

Qua tầng tầng lá rừng đan dày, bóng tối phảng phất lẫn vào với sương đêm, ánh trăng rơi xuống thành những vũng sáng thanh lạnh trên đất. Ở những trảng đất trống, trăng luênh thành lớp lớp như sóng trong bụi mù. Vùng đất của gió cát trong đêm vẫn nghe rào rào như một cơn mưa.

Thanh âm của gió che giấu tiếng động dưới các lùm cây và chân cồn cát. Bóng tối nhập nhoạng che giấu hình bóng người lặng thinh đi lại như những bóng ma.

Ánh trăng gay gắt tựa nắng đêm từ trên cao lại dường như thu tận về trên ánh thép xanh biếc, chói chang lóa mắt. Khoảnh khắc thanh đao được rút ra khỏi vỏ, những người vốn lặng thinh xung quanh y lại không hẹn mà cùng giật mình. Giữa màn đêm và ánh trăng, thanh đao cong cong như một mảnh trăng rơi xuống, rạch vào khoảng không một vầng sáng chói lòa. Sát khí tỏa lạnh buốt như xuyên thấu qua mắt kẻ nhìn.

Long đao của vua Chế Bồng Nga. Một đao rút ra, lấy vạn mạng người. Thần đao xuất hiện, máu chảy thành sông, thây chất thành non.

Sát khí như muôn vạn linh hồn gào thét trong thinh lặng cực cùng, tỏa thành nỗi oán hận thấu xương lòa mắt kẻ nhìn. Trăng hoang hoải cháy, đốt thành ngọn lửa xanh tựa như mọc trong băng. Trăng loang loáng trên thanh đao cong, chuôi khắc hình rắn thần như đang vươn mình sống dậy. Đao vung lên, thu lấy tất cả ánh trăng, sáng hơn cả ánh trăng, che mờ tinh tú.

Trong bóng tối, hàng ngàn kẻ hướng về phía ánh sáng chói lòa. Trong khoảnh khắc, tất cả như bị thôi miên mà ngây người.

Khoảnh khắc tiếp theo, cơn ớn lạnh trở thành dòng lũ cuộn vỡ trong lồng ngực. Tiếng rì rầm lan đi trong gió, không phải là giọng nói, cũng không hẳn là thanh âm. Như thể tiếng người cùng cử động, các bàn tay cùng nắm lại, chân cùng bước lên một nhịp. Hướng về phía thanh đao chói lòa như nhật nguyệt. Hướng về tiếng gọi không thanh âm của muôn vạn linh hồn ngàn năm.

Bờ biển Panduranga, nơi Nhà Vua đã ngã xuống. Linh hồn sống theo sóng vỗ đời đời.

Có cảm thấy tiếng lao xao quanh mình hay không, y vẫn chỉ đứng yên. Thanh đao trước mắt, nhưng y không nhìn nó. Ánh mắt y hướng lên bầu trời chói ngợp ánh trăng. Đã là tháng cuối cùng của năm, những dòng nước trên xứ sở phương Nam đã lên đến mức cao nhất. Gió bấc nổi, dường như đem theo hương lạnh của phương Bắc phả về.

Dường như, vì vượt qua muôn dặm xa xôi, lọt vào trong xứ sở của cát này, vốn dĩ không còn dư ảnh nào có thể tồn tại.

Y nhìn theo bóng chim cô quạnh giữa khoảng trống của bầu trời mênh mông. Những đàn chim tránh rét cũng từ phương Bắc bay về. Lạc giữa thinh không đêm tối, cả tiếng kêu cũng không còn vọng.

Y nghĩ về cảnh tượng bầu trời đêm ấy, sắc của huyền không xuyên thấu qua màn máu và nỗi đau đến chết lặng cả tâm linh, cả hình hài. Bóng tối đã nghiêng đổ xuống, ngập tràn sinh mệnh y. Hoặc bóng tối đã vỡ tung trong tâm thức y thành cả thế giới. Sinh mệnh được tái sinh giữa bóng đêm vô tận, hoặc đã chết đi trong đau đớn khôn cùng. Đứng ở nơi này, từng khoảnh khắc, từng sát na, cảm thấy trái tim đập từ tốn nhịp điệu đều đặn trầm tĩnh, dưới ánh trăng rừng rực trên cát, y nghe sinh mệnh mình thở trong làn gió cuồn cuộn thổi vào từ biển khơi. Có một điều lạ lùng nào đó trong những làn gió, chúng như thổi xuyên qua y. Nếu nhắm mắt lại, y có thể cảm thấy như mình đã biến thành cánh chim hồng chao giữa trời. Không có gì khác biệt giữa y và cánh chim đang bay qua trăng. Không có gì khác biệt giữa sự sống và cái chết.

Cái chết nảy nở từ tâm thức y. Bây giờ, qua nhiều ngày tháng, y đã cảm nhận rõ ràng điều đó.

Cái chết, y đã sinh ra với nó. Đã mang nó trong sinh mệnh, trong linh hồn, trong tận cùng tâm thức. Điều đã bị che giấu đi bởi rất nhiều bảo bọc và dạy dỗ. Điều đã bị y quên đi trong những cơn say tỉnh giữa đời. Điều mà y đã nhìn thấy trong đôi mắt của kẻ bằng hữu thân thuộc nhất. Điều khiến mạch máu sôi trào và đôi tay run rẩy khôn ngăn.

Cái chết hiển lộ tận cùng trong sự sống bằng hình hài như thế. Chuyển ánh nhìn về phía thanh đao, y thầm nghĩ. Mọi thứ đã được khắc dấu, lưu lại trên dương thế, ẩn giấu trong những hình hài trần tục. Hắn - kẻ bằng hữu của y, cả Nguyễn Phúc Thái, cả Hoắc Phương, cả Oc-nha That, Chiêm Dao Luật, đã từng cầm thanh đao này, nhưng không thể cảm thấy linh hồn của nó. Bởi tất cả bọn họ không gần với cái chết như y.

Tuy vậy, ngay cả bọn họ, những kẻ từng chạm đến thanh đao, đều mang trong mình hạt giống của cái chết. Thanh đao không để vận mệnh đưa chiều, nó tự mình lựa chọn lấy vận mệnh. Vận mệnh của những cái chết xoay tròn. Vòng tròn của những kẻ sinh ra trên hạt giống của diệt vong. Giữa tịch diệt muôn đời của oán hận, ký ức, kiếp sống, và lịch sử. Trên dòng chảy đổ ra biển lớn, xóa tan muôn kiếp sống giữa hai bờ lịch sử im lặng tận cùng.

Thần đao xuất hiện, thiên hạ đại loạn, máu chảy thành sông, thây chất thành non. Bằng vòng tròn những kẻ mang mầm mống của cái chết.

“A Ban…” Phía sau y chợt vang lên tiếng gọi khẽ. Skanda của quân đội Chiêm quốc – vị hoàng thân tên gọi Chế Vinh theo cách của người Kinh, đã im lặng tiến qua trảng đất đến bên y. Anh ta gật đầu. “Tất cả đã xong.”

“Tôi đi trước.” Y không nhìn lại, chỉ lạnh lùng nói. “Tôi đưa toán quân này theo, mọi người cứ ở yên chỗ mai phục.”

Chế Vinh im lặng gật đầu, lùi về sau.

Y vung đao. Gặp ánh trăng trên cao, đao sáng lóa thành một vầng hào quang xanh lòa. Thấy dấu hiệu của y, toán người phía sau y chuyển động. Từ sau bụi cây và đá núi, vài con voi đã mang bành sẵn tiến ra. Y leo lên lưng một con voi, toán người xung quanh tự động sắp xếp thành một đội quân nho nhỏ. Im lặng, tất cả tiến theo dòng sông đi về phía Pajai[1].

Quản đạo Phố Hài của quân Nam Hà hiện tại là một thành lũy đắp bằng đất cạnh cửa tấn rộng nhìn ra biển. Trong đêm, thuyền san sát trong tấn Phố Hài, lửa lập lòe trên tháp canh cao. Đến một khoảng cách vừa đủ, không còn đồi cát che chắn, y ra hiệu cho toán quân phía sau khua chiêng hò hét, thúc voi ngựa chạy tới. Trong lũy, nghe tiếng động của đoàn quân tấn công, lửa đuốc cũng lập tức thắp sáng rực góc trời. Khoảng đất bằng phẳng rộng lớn quanh khu lũy khiến người bên trong sớm nhận biết quân tấn công. Khi đoàn người của y áp sát đến hào bao quanh, gươm giáo lẫn đạn pháo đã dàn hàng hàng lớp lớp trên lũy.

Cho đoàn người đứng lại ở một quãng vừa đủ tránh pháo, y gọi người thúc voi ra trước. Ngồi trên con voi bên cạnh là hai thầy pháp người Chiêm. Để cho y tiến lên dẫn đầu, bọn họ lùi lại phía sau. Trên bành voi, trước các thầy pháp là đàn pháp cắm tua tủa đao thép, lò hương gạch nung nghi ngút khói, cờ đuôi nheo bay phần phật. Mỗi thầy pháp mang theo một cái trống lớn, gõ dồn dập vang động như trống trận.

Hai con voi lừ lừ bước tới với tiếng trống, khói hương và cờ quạt hộ tống. Cảnh tượng lạ lùng khiến quân canh trong lũy ngây người nhìn, không biết phản ứng ra sao.

“Bắn chúng rơi xuống!” Khi thấy hai con voi đã tiến gần, Cai đội Nguyễn Trí Thắng trông coi Quản đạo Phố Hài ra lệnh. Những người lính bên cạnh liền răm rắp tuân lời. Tên nỏ giương cao, đồng loạt bắn về phía hai con voi như vãi trấu.

Phía trước các thầy pháp, tấm lưới lớn dán đầy bùa chú bung mở, che chắn quản tượng lẫn chủ nhân ngồi phía sau. Nhưng con voi thấy bị tấn công liền hơi lùi về sau.

Con voi đi trước vẫn lầm lì bước tới, tai không buồn ve vẩy. Lớp da dày như giáp khiến đao tên không thể phạm, con voi hầu như chẳng xem trận mưa tên vào đâu. Trên lưng voi, không có quản tượng điều khiển, chỉ có một thanh niên chống đao đứng thẳng. Tên vẫn bay rào rào, nhưng chạm vào y liền dội lại, rơi xuống như lao vào tường sắt. Thấy tên bay thẳng mặt, y lấy tay gạt ngang, hất bắn mũi tên đã gãy đôi sang bên.

Tay y trắng xanh, trong ánh trăng và lửa sáng, rõ ràng là xương thịt của con người.

Thấy y đã đến quá gần, một người lính trong lũy liền phóng giáo ra. Ngọn giáo dài xé gió lướt tới, tên thanh niên trên voi đưa tay bắt lấy mũi giáo, đơn giản như kẹp một tờ giấy.

Mũi giáo bằng thép gãy gập, rơi xuống từ bàn tay y.

Phía sau, hai thầy pháp cho đốt hùng hoàng nổ tung như pháo. Lớp khói màu cuồn cuộn tỏa lan bốn phía, cùng tiếng trống đàn pháp tạo ra cảnh tượng quỷ dị phi thường. Tiếng hú lanh lảnh át cả tiếng lao xao của trận chiến, nghe như ma quỷ gọi hồn, kinh tâm động phách.

Tên không chạm, giáo không đâm, y vẫn chống đao đứng trên bành voi. Áo trắng đơn bạc bay trong gió lồng lộng. Khuôn mặt như tượng khắc từ đá ngàn năm. Đôi mắt y trong ánh sáng muôn màu càng sâu tối, đen thăm thẳm lạnh người. Khói cuồn cuộn tỏa. Gió vần vũ đục ngầu. Gạt mũi tên cuối cùng bắn lại, y đưa mắt nhìn về phía viên tướng quản lũy.

Chỉ một cái nhìn, đã khiến Nguyễn Trí Thắng lạnh buốt sống lưng.

“Mở cổng lũy tấn công!” Nuốt khan trong cổ, Cai đội Nguyễn Trí Thắng vội vàng ra lệnh. Tên ma quái kia đã tiến đến quá gần. Ở khoảng cách này, pháo đã không còn bắn được. Chỉ có thể đưa quân tấn công trực diện, đánh rớt y xuống khỏi voi.

Cổng lũy mở, đội quân phía trong ào ạt xô ra. Không dám tiến đến gần kẻ đao thương bất phạm kia, quân tràn đến tấn công voi của hai thầy pháp. Dường như đã chuẩn bị trước, con voi phía sau quay đầu chạy trốn. Quân lính Nam Hà liền tấn công nhóm người phía sau. Toán lính Chiêm Thành cũng vội vàng vứt gươm giáo bỏ chạy.

Nguyễn Trí Thắng thấy chỉ còn một người một voi giữa trận liền thúc voi của mình chạy tới, giơ đao đánh đến. Tên thanh niên nọ đưa đao đỡ, hơi nghiêng người trước sức mạnh của viên tướng Nam Hà. Đánh vài chiêu, Nguyễn Trí Thắng chỉ thấy y luống cuống chống trả. Thoáng chốc mà khoảng đất đã vắng tanh bóng quân tấn công, thấy thế, tên thanh niên liền thúc chuôi đao vào cổ voi, ra hiệu cho nó quay đầu vẹt đám lính bao vây mà chạy.

“Đuổi theo!” Nguyễn Trí Thắng thét toán quân xung quanh, thúc voi chạy theo. Mấy chiêu vừa rồi cho thấy kẻ kia võ công tầm thường. Hẳn lại là đám người dựa vào mấy trò ma thuật mà mê hoặc dân chúng định gây rối. Không bắt chúng lần này, chúng lại kêu gọi người phá phách.

Quân rùng rùng đuổi theo con voi chạy qua khoảng đất trống, ven bờ sông ra cồn cát. Con voi to lớn, chạy cũng nhanh dị thường. Thoáng chốc, cồn cát lớn đã che mất bóng.

Nguyễn Trí Thắng nghiến răng thúc voi chạy nhanh hơn, hốt nhiên phát hiện mình đã lọt vào khoảng trống giữa các đụn cát. Nơi này cát lẫn với đất đá và cây cối, hình dạng gần như các ngọn núi nhỏ. Con voi kia đã dừng chân trên một mỏm đất cao. Tên thanh niên trên lưng voi đứng nhìn xuống đoàn quân vừa lọt vào giữa lũng cát. Làn da dưới trăng trắng bệch bạc như thạch cao, toàn thân y tỏa ra thứ cảm giác lạnh thấu tâm can. Như thể một bóng ma vừa xuất hiện trên dương thế.

Hoặc là, một Ma vương vừa theo ánh chớp xuất thế.

Bầu trời đang quang đãng bất chợt nổi gió ầm ào. Mây cuồn cuộn đổ về, tuy chưa đủ che ánh trăng nhưng cũng đã vần vũ tối trời. Chớp lóa, đánh xuống mỏm đất ngay phía sau lũng cát. Ầm vang một tiếng kinh động.

Ánh sáng lóa trên thanh đao như chớp xé toạc bầu trời.

Y vung đao bắt lấy tia chớp vừa đánh ngang thinh không. Ánh thép xanh mang hàn khí tựa cuồng phong thổi quét qua khoảng đất khiến những kẻ nhìn lên ngây người. Tiếng nổ vang trời khi đất rung lên, cát rào bay mù mịt.

Con voi của Nguyễn Trí Thắng kêu một tiếng rền rĩ, bắt đầu cho tiếng hí hoảng hốt của bầy ngựa, tiếng kêu của con người. Voi ngựa lồng lên, quay đầu chạy loạn. Nguyễn Trí Thắng lẫn người quản tượng không thể kềm giữ con voi đang lồng lộn, đành nhảy xuống đất trước khi bị voi hất tung.

Thanh đao trong tay kẻ trên cao kia chỉ về trước.

Tiếng động bùng vỡ bốn phía cồn cát. Sau cồn đất, đá đồi và những mỏm cây, những bóng người nhô lên như ma quỷ đội mồ. Giáo dùi trên tay họ bay vun vút về phía đội quân đang rối loạn nọ. Trong cát mù không thể mở mắt, bóng tối không tỏ mặt người, voi gầm ngựa hí chạy quanh, toán lính Nam Hà chỉ có thể ôm đầu trốn nấp, tứ tán bỏ chạy. Nhưng bốn phía cồn cát đã bị bao vây lớp lớp. Giáo rìu lấy mạng bất cứ ai lại gần. Gió giục mây vần, biến trận hỗn chiến trong cồn cát thành một hồi tiếng la hét rợn người.

“Tụ về phía này!” Tựa lưng vào một vách đá cao, vung đao bảo hộ thân thể, Cai đội Nguyễn Trí Thắng hét lớn. Mũ trụ có phần che mặt đã khiến viên tướng này có thể mở mắt nhìn qua màn cát xoáy mù. Nghe tiếng chủ tướng, vài người lính còn sống vội vã vừa đánh vừa lui về phía anh ta. Toán người tập hợp thành vòng tròn, vừa giơ khiên giáo đỡ gạt vừa lùi về cửa ra lũng cát.

“Tấn công!” Thấy thấp thoáng lớp người dàn phía trước, Nguyễn Trí Thắng vội ra lệnh.

Câu nói vừa thốt, hàng người phía trước bất chợt giãn ra.

Ánh chớp xanh xuất hiện giữa đất trời mù mịt như ngọn lửa từ địa phủ hiện về.

Nguyễn Trí Thắng trân người nhìn ánh chớp rạch ngang không trung hỗn độn, rạch ngang tiếng hét tắc nghẹn kinh hoàng, rạch ngang sự sống và cái chết. Tay không kịp vung lên, tiếng kêu chưa kịp thốt khỏi cổ, viên Cai đội đã nghe tim mình buốt lạnh. Thanh đao lạnh như băng đá cắm ngập lồng ngực, rút ra cũng nhanh như gió.

Như bị một cơn gió thấu xương xuyên qua thân thể, Nguyễn Trí Thắng ngã về phía sau. Rơi vào lòng cát.

Cát vùi mọi tiếng động của sự sống còn thoi thóp.

Y đứng yên nhìn toán quân còn lại của Nam Hà bị triệt tiêu. Phía bên kia, lửa đã lại cháy sáng trong thành lũy Nam Hà. Chế Vinh cùng Oc-nha That đã đem quân công lũy. Quân trong lũy bắn được vài đợt pháo rồi vội vàng bỏ chạy trước toán voi ngựa hung hãn đến từ trong núi. Không có người chỉ huy, cuộc chống chọi của lũy Phố Hài nhanh chóng bị đập tan.

Khi ánh ban mai đầu tiên rọi xuống, tiếng gươm giáo cuối cùng trong lũy đã ngưng.

Xác người rải khắp vùng đất nơi cửa biển. Toán quân Nam Hà canh thuyền cũng đã tham chiến, nhưng do cập rập rối loạn, không có đầu lĩnh nên nhanh chóng bị đánh bại. Vài chiếc thuyền bị đốt cháy, lửa khói vẫn còn nghi ngút. Cùng với lửa trong lũy, các cột khói cuộn vào nhau, che cả một khoảng trời.

Y bước qua những xác người mà máu vẫn còn tuôn chảy ướt đẫm nền đất, bước qua cả thành lũy và những chiếc thuyền cháy mà đến cửa biển. Y ngẩng đầu nhìn mặt trời đỏ rực nhô lên phía bên kia đại dương. Đại dương mênh mông không một bóng thuyền. Chỉ có đàn chim biển đã lại bay ở phía xa xa, dường cảm thấy bất ổn ở phía bờ nên không lại gần.

Y nghe tiếng chiêng trống, tiếng nói sang sảng phía trong lũy. Hẳn Chế Vinh hoặc Oc-nha That đã tập hợp quân lính ủy lạo chiến thắng. Dù mệt mỏi, tiếng reo hò vẫn vang động ầm ĩ, hòa với chiêng trống đinh tai càng náo nhiệt hơn.

Đây là chiến thắng đầu tiên của quân Chiêm Thành. Chiến thắng đầu tiên sau bao nhiêu năm, bao nhiêu chiến dịch. Giết chết một viên tướng Nam Hà, đoạt lại thành lũy đã bị chiếm cứ.

Chiến thắng đầu tiên trong niềm tuyệt vọng lớn lao lại càng to lớn hơn gấp trăm ngàn lần. Họ đã không còn vua, không còn triều đình lẫn đất nước. Họ chỉ là những toán người ô hợp được tập hợp trong núi. Nhưng họ đã làm được điều mà nhà vua không thể làm.

Sự kiên nhẫn đã có kết quả. Chiêm quốc chỉ có thể chiến thắng khi kêu gọi được tất cả những thành phần trong đó. Những cư dân trong núi, thành viên hoàng tộc, triều đình, dân chúng… và sau chiến thắng này, sẽ còn nhiều hơn thế. Sự tuyệt vọng có thể là một loại vũ khí. Y hiểu điều đó hơn bất cứ ai.

Trong nhiều tháng dài, y cho Chế Vinh đi tập hợp người, xây dựng lực lượng, thu thập tài vật. Nhiều tháng dài yên lặng khiến sự cảnh giác của quân Nam Hà giảm xuống. Việc thu chuyển thuế cống dịp cuối năm khiến liên lạc giữa các đồn quân càng lỏng lẻo.

Nguyễn Phúc Chu đã nhận được kết quả của sự dồn ép mình gây ra. Và đây chỉ là bước khởi đầu.

Thanh đao yên lặng bên tay y. Giờ đây, đã uống no máu đỏ, thanh đao yên lặng. Như y ngẩng đầu nhìn mặt trời hiển dạng rõ dần trên biển, không rõ đang cảm thấy gì. Y không vui mừng, cũng chẳng hồ hởi. Y nhìn mặt trời đang dần sáng, như đang soi tỏ con đường của cuộc đời mình. Một trận chiến nữa lại bắt đầu. Một cuộc giao tranh nữa khởi phát sau bao tháng ngày chờ đợi, chuẩn bị. Y không biết mình có nên hào hứng với điều đó hay chăng.

“A Ban.” Tiếng Oc-nha That gọi sau lưng y. Vẫn còn mặc giáp, đội mũ trận, khuôn mặt vốn trơ lạnh thường ngày của vị Hữu trà viên giờ đây đã đỏ bừng. Ông bước nhanh đến bên y, nhìn ra biển. “Có chuyện gì à?”

“Ngắm bình minh.” Y nhợt nhạt cười. Hẳn Oc-nha That thấy hành động tách riêng ra nơi này của y là lạ lùng. Nhưng vốn đã rõ tính cách y, Oc-nha That cũng không thắc mắc thêm. Ông gật gật đầu.

“Ta chỉ lo quân ở Parik đến tiếp ứng.” Ánh mắt Oc-nha That đảo quét nhanh trên mặt biển vắng tanh. Y nhíu mày.

“Không nhanh như vậy. Vả lại…” Y chợt bỏ lửng câu nói. Oc-nha That liếc mắt qua y, môi hơi mím lại.

“Quản đồn Parik là Nguyễn Tân Lễ.” Ông chầm chậm thốt từng chữ của cái tên nọ, cẩn trọng quan sát thái độ của y. Trong ánh sáng ngày chói chang, đôi mắt y lại tối sầm. Vết sẹo trên trán y giật nhẹ.

Cai cơ Nguyễn Tân Lễ, người đã tạo nên vết sẹo này ghi khắc vào đời y. Cai cơ Nguyễn Tân Lễ đã từng tham gia cuộc chiến ở Rạch Năn. Kẻ đã chính tay hạ sát Tuyết Nhi.

Cái tên người đã lâu không còn về trong trí nhớ bất chợt khiến y rùng mình.

“Quân ở đây đã chạy về Parik, thành lũy ở Parik vốn của triều đình ta, quân ở đó cũng đông gấp mấy lần nơi này.” Thấy y không lên tiếng, Oc-nha That liền nói tiếp. “Thành trì vững chắc, quân lại đông, Nguyễn Tân Lễ cũng có sức mạnh hơn người, ta khó mà tấn công. Chẳng bằng thủ chặt nơi này, đợi chúng đến?”

“Đằng nào cũng phải đánh.” Y lành lạnh ngắt lời Oc-nha That. Phố Hài là một cứ điểm quan trọng nhưng khó mà phòng thủ. Nằm ở cửa biển, bên sông, địa thế vốn đã mở rộng cho kẻ tấn công. Bao nhiêu năm bị dồn về phía Tây, lực lượng thủy quân của Chiêm Thành hầu như không còn. Bây giờ dù có thu nhận bọn hải tặc phụ giúp thì cũng quá cập rập. Nếu không nhanh chóng thu phục được thành lũy trong đất làm chỗ trú, bọn họ sẽ lại sớm bị đánh lùi về núi.

“Anh đã nghĩ ra kế?” Oc-nha That đổi giọng, nhìn y đầy trông chờ. Cho đến lúc này, mọi hành động đều do y hoạch định. Chiến thắng lần này, cùng tiếng tăm nó sẽ tạo ra với vị ‘Chiến thần’ dường như ma quỷ, đều do y tạo dựng. Chỉ có giáo gươm dao rựa để chống cự với đại pháo, chiến thuyền của Nam Hà, nhưng mưu kế của y đã giúp họ chiến thắng – trên mọi mặt trận.

Kẻ thông thuộc với chiến tranh như y là tướng quân cũng như mưu sĩ lợi hại nhất. Mọi cuộc chiến đều được tận dụng trên mọi phương cách. Mọi cuộc chiến đều hướng tới cuộc chiến tiếp theo.

Y rời mắt khỏi vầng dương đã trở thành chói chang, quay đầu nhìn vào trong đất. Lính đang đi lại thu dọn xác chết chất lên xe kéo gỗ, một toán khác đã vào rừng đào hố chôn.

“Tôi đang đợi một người.” Đáng lẽ nàng ta đã phải tới đây rồi, y nghĩ với đôi chút nôn nóng.

Nguyễn Tân Lễ ở thành Phan Rí, ‘cố nhân’ cũ của y. Y cũng có vị cố nhân muốn gặp anh ta.

 

 

 

Chú thích:

[1] Pajai: Phố Hài. Nằm ở thị xã Phan Thiết ngày nay.




Hồi 44: Nam Chưởng
Saturday, September 15, 2012 Author: Trường An

Chập tối, khu chợ bên trấn đã tan gần hết, chỉ còn vài chiếc thuyền đang chuẩn bị nhổ neo rời bến. Đám trẻ ăn xin ngồi ở cổng chùa í ới gọi nhau ra về, cánh cổng lớn đã khép lại một nửa. Ngôi chùa ở phía Đông trấn Quảng Nam được xây dựng liền kề với phố chợ, vừa qua ngày rằm, khói hương vẫn nghi ngút.

Chiếc thuyền nhỏ tấp vào bến sông. Trên thuyền, cô gái đội nón vành rộng che kín mặt ngẩng nhìn ngôi chùa. Nghĩ ngợi một lúc, nàng rời thuyền bước vào chùa, không quên bảo người trong thuyền ngồi đợi.

Ngồi bên bàn đặt cạnh cửa, ông từ giữ chùa ngẩng đầu nhìn lên vị khách cuối ngày vừa vào. Đã cất nón sang bên, tóc cô gái được búi chặt sau gáy, để một dải buông rơi xuống lưng. Nàng ăn vận gần như nam giới, quần dài, tay áo ngắn, giày ống cùng xà cạp đi trong mùa mưa che nửa bắp chân, nhưng khoác áo lụa dài gần chấm đất. Nhìn bộ dạng nàng như người đang đi xa, lại có vẻ quyền quý thanh nhã không giống người thường.

Cô gái quay lưng về phía thủ từ, thắp nhang cắm vào lò hương mà không lạy. Đứng nhìn tượng Phật một lúc, nàng với tay lấy ống xăm đặt trên bàn thờ, cũng không làm lễ mà cẩn trọng lắc nhẹ. Cầm thẻ xăm vừa rơi xuống bàn, cô gái quay ra phía bàn thủ từ, đặt thẻ xuống bàn trước mặt ông lão coi chùa.

“Cho ta xin thẻ xăm này.” Mỉm cười, cô gái nói với lão thủ từ, vẫn bằng giọng điệu của người bề trên tuy giọng nói nhỏ nhẹ dễ nghe. Nàng quấn khăn che nửa mặt, chỉ để lộ đôi mắt long lanh như nước. Bàn tay cầm thẻ xăm trắng mịn như ngọc. Cái vòng vàng trên cổ tay cẩn mấy viên ngọc chói mắt trong ánh đèn vừa thắp.

Gật đầu, ông lão rút sổ tra số thẻ, lấy ra tờ giấy giải quẻ đã được viết sẵn. Cầm tờ giấy chỉ có một bài thơ ngắn, cô gái nhíu mày đọc.

“Dạ sắc sơ phân hiểu,
Thần quang tiệm xuất không.
Ám thôi tân phát bạch,
Tiệm cải cựu nhan hồng.
Bất giác niên hoa xúc,
Do tranh nghiệp quả hùng.

Thân như băng kiến hiện,
Mệnh tự chúc đương phong.
Mạc tác trường niên khách,
Chung quy tảo chiếu công.”[1]

“Cô đây xin quẻ xem việc gì?” Lão thủ từ nhìn qua số thẻ, cũng trầm ngâm nói. Thẻ này là thẻ Hạ hạ, xui rủi nhiều hơn may mắn. Cô gái này trông như người đang chuẩn bị xuất hành, xem bài thơ trên thẻ đã thấy chút lo lắng.

Nhưng nàng chỉ lắc đầu, dường như thoáng cười. Gấp mảnh giấy nhét vào trong áo, nàng lấy mấy đồng xu cúng tiền nhang khói tặng thủ từ rồi rời khỏi chùa. Chưa vội trở về thuyền, nàng vòng ra quán sau chợ mua một vò rượu.

Cúi đầu khoanh tay bên quầy chờ người đem rượu tới, nàng thoáng bắt gặp một bóng người đi ngang qua cửa. Ngẩn người, nàng dợm bước theo nhưng rồi nghĩ lại liền đứng yên. Trả tiền cho chủ quán, nàng ôm vò rượu đi về hướng đồng dâu bên trấn. Khu đất này cao ráo, giữa mùa lũ mà đồng dâu vẫn xanh tốt. Hai bên con đường đất, dế bắt đầu rỉ rả kêu.

Nàng không phải đi xa lắm cho đến khi gặp được người nọ. Hoặc hắn đuổi kịp nàng.

“Như Yên!” Hắn gọi dưới bóng cây cổ thụ lòa xòa xõa bóng bên đường đất. Vẫn ôm vò rượu trong tay, nàng ngoảnh đầu nhìn lại, không định bước tới. Hắn đành đến kéo tay nàng sang bên đường, tránh ánh mắt người qua lại.

“Hoắc Phương đâu?” Đưa mắt nhìn quanh, đó lại là câu đầu tiên nàng hỏi. Kéo chiếc khăn che mặt xuống, Như Yên nhìn qua vai hắn mà cau mày. “Các người lại định bày trò gì?”

“Ta đang định rời đi.” Không trả lời câu hỏi, hắn nói. Như Yên đưa mắt nhìn hắn, rồi nhún vai.

“Ờ.” Tay đã mỏi, nàng đặt vò rượu xuống gốc cây, chọn một chỗ ngồi khô ráo mà chống tay nhìn lên hắn. “Bao giờ đi?”

“Hôm nay.” Thấy phản ứng của nàng, hắn vẫn chỉ bình đạm nói. “Ta đi cùng Dao Luật về phương Nam.”

Như Yên chớp mắt.

“Trả kiếm của Hoắc Phương cho ta, trả Hoắc Phương cho ta, rồi ngươi đi đâu thì đi.” Nàng nhếch môi, chẳng rõ là cười hay mỉa. “Ngươi đi với ai thì đi, họp bè họp đảng với cô ta thì lại chỉ đi gây họa. Bây giờ ba người bọn ngươi xuống phương Nam liên thủ với nhau, lại chỉ sợ chưa giết được ta thôi phải không?”

“Nàng ở đây đừng hành động liều lĩnh. Nếu thấy nguy hiểm thì đừng cố.” Bỏ ngoài tai mấy câu nói của Như Yên, hắn quỳ gối xuống bên nàng, nhìn vào mắt nàng mà nhắc nhở. Thấy nàng cau có định lên tiếng, hắn lắc đầu. “Sự tình còn biến chuyển chưa biết thế nào, đừng hành động nhất thời, giữ được mình thì còn có thể đối phó được sau này.”

Cau mày, Như Yên chăm chú nhìn hắn hồi lâu. Cuối cùng, nàng mím môi, hạ giọng.

“Chiêm Dao Luật nói gì?” Hành động giấu cả Hoắc Phương lẫn kiếm của y khỏi tầm mắt nàng cho thấy hắn chẳng định rút lui dễ dàng khỏi chuyện nơi này. Đột nhiên hắn xuất hiện báo rằng muốn trở về phương Nam cùng Chiêm Dao Luật, hẳn có nguyên do.

“Nam Chưởng[2] sắp có biến.” Im lặng một lúc, hắn quyết định trả lời. “Vua của Nam Chưởng nghe nói đang nguy kịch. Trước đó, ông ấy đã xử trảm đứa con trai duy nhất của mình, ngôi thế tử đang bỏ trống. Nếu bây giờ nhà vua qua đời, Nam Chưởng chắc chắn sẽ có loạn.”

Sorasak sẽ không bỏ qua, hắn định nói rồi lại thôi. Điều ấy hẳn nhiên ai cũng sẽ đoán được. Vương quốc Nam Chưởng của người Ai Lao vốn đã cử người đến Phú Xuân kết giao với Nam Hà, cũng đã bắt tay với Ayutthaya chống lại Miến Điện. Nhưng các mối quan hệ đồng minh trên vùng đất này chỉ là mối lợi tạm thời. Nam Chưởng rơi vào rối loạn, chính là cơ hội cho các thế lực bên ngoài nhảy vào.

Hoàng thái tử cuồng bạo và tham vọng nọ nhất định sẽ không bỏ qua cơ hội để bành trướng thế lực của Ayutthaya đến tận biên giới Taungoo. Bằng không, cũng sẽ có kẻ khác nhảy vào – dùng Nam Chưởng như cửa ngõ thông thẳng tới Ayutthaya. Chiếm giữ hoặc bị chiếm giữ, chỉ có một lựa chọn.

“Triều đình Nam Hà đừng can thiệp.” Hắn chậm chạp nói, thấy nhận biết sáng lên trong mắt Như Yên.

Sự chú ý của Ayutthaya sẽ bị hướng về Nam Chưởng, và chinh phục lãnh thổ giàu có rộng lớn còn chưa bị khuất phục của Nam Chưởng sẽ nhiều kích thích lẫn lợi ích hơn tham dự vào cuộc chiến ở biển Đông. Ayutthaya không can thiệp, Chân Lạp cũng không dám ra mặt giúp đỡ Chiêm Thành – Vả lại, Chân Lạp cũng phải canh chừng đối phó với kẻ láng giềng Nam Chưởng. Chiến trường tại Đông Dương bất chợt phân đôi, đó là lợi thế của Nam Hà lúc này.

“Ngươi về phương Nam làm gì?” Ngẫm nghĩ hồi lâu, Như Yên chợt hỏi. Nàng ngần ngừ. “Ngươi định…”

Nhà vua Nam Chưởng mới chỉ đang nguy cấp. Việc khuấy động lên nội loạn trong một đất nước cần nhiều hơn thế. Việc điều sự chú ý cùng mục đích của nhiều kẻ đến nơi ấy còn cần nhiều hơn nữa.

Việc chưa xảy ra nhưng Chiêm Dao Luật đã vội vã trở về Chân Lạp, cho thấy Đại vương Chân Lạp đang cần một thuyết khách – không gì khác hơn là đảm bảo cho sự ủng hộ của Đại Thành. Hoặc nhà vua Chân Lạp cũng đang muốn hướng tới mảnh đất cực Bắc tranh chấp với Nam Chưởng bấy lâu nay, cần có Đại Thành hậu thuẫn chiếm lại. Nếu Chân Lạp mở đường cho Đại Thành vào Nam Chưởng, chiến trường phương Nam trước mắt sẽ dễ dàng hơn nhiều.

Nhưng đó là việc chưa xảy ra. Thông tin tối mật từ đất nước Nam Chưởng bí ẩn chỉ mới là bản tấu đặt trước sập nhà vua. Nên hắn nhắc nhở nàng cẩn thận. Gió chưa đến lúc xoay chiều.

Hắn không trả lời. Nhìn vào mắt nàng một lúc, hắn chợt cười.

“Bây giờ nàng trả công cho ta cái gì?” Lời hắn vẫn nhẹ nhõm như một câu đùa. Quả thật, hắn không hề có ý nghiêm túc khi hỏi. Định làm gì, đó là chuyện hắn vẫn chưa nghĩ ra, đó là chuyện hắn sẽ suy tính đến khi gặp được Sorasak, biết đích xác tình hình cùng ý định mọi kẻ. Hắn trở về phương Nam chỉ để đón đầu một tình huống có thể làm đổi thay hoàn toàn chiến cuộc của biển Đông, tốt hơn hay xấu hơn còn quá sớm để phân định.

Nghe câu hỏi, Như Yên quắc mắt. Khóe miệng khẽ giật, nàng như định mở miệng mắng, rồi lại mím chặt môi, quay đầu nhìn qua vai hắn. Mặt trời đã lặn, trăng đã ló dạng cuối đường chân trời. Trong bóng tối nhòa nhạt, hắn không nhận rõ thái độ trên khuôn mặt nàng. Nhưng hắn nghĩ, trong một khoảnh khắc thoáng qua, hắn hiểu điều nàng vừa nghĩ.

Việc này rất quan trọng, quá quan trọng, để nàng không thể tùy ý thất thố làm phật lòng hắn. Nàng nổi giận, nhưng cũng không thể mở miệng mắng nhiếc. Thậm chí, với bất cứ điều kiện nào mà hắn đưa ra bây giờ, nàng cũng sẽ thuận theo.

Bất cứ điều kiện nào. Bất cứ ai.

Hắn chờ đợi. Nhưng nàng lại im lặng. Sau cùng, khi cơn gió lạnh thổi lên từ những đồi nương làm bụi bay mù, nàng phất tay áo đứng dậy.

“Về đi.” Không quay đầu, nàng bước qua hắn, nói qua vai. “Muốn làm gì thì làm.”

“Như Yên…” Hắn gọi, nhưng nàng đã đi ngược con đường qua đồng về phía bờ sông. Không nhìn lại, nàng cũng không nghe tiếng chân đuổi theo. Ra đến bờ đậu thuyền, nàng mới nhớ ra vò rượu đã bỏ quên ở gốc cây. Vỗ trán thở ra, Như Yên đành lên thuyền, gọi người chèo về nhà trọ.

“Tiểu thư có chuyện gì…?” Thấy sắc diện nàng có vẻ là lạ, lão Tứ liền hỏi. Lắc đầu, Như Yên ngả lưng dựa thành khoang thuyền, ngẩn người ngắm ánh lửa trong đèn móc ở thành khoang. Con thuyền lắc lư, ánh đèn cũng chênh chao. Ngồi đã mỏi, nàng nghiêng người sang bên, tờ giấy trong áo chợt rơi xuống. Mở giấy ra đọc lại lần nữa, Như Yên chợt mỉm cười. Nàng cuộn tờ giấy định bỏ vào đèn đốt cháy thành tro, nghĩ sao lại gấp nó thẳng thớm, nhét vào tay áo.

Thuyền đi đến nửa đêm mới về nhà trọ ở đầu một phố chợ nhỏ. Ngôi làng chỉ có vài chục mái nhà, nhà trọ dành cho khách nghỉ tạm cũng chỉ là một gian nhà dài, ngựa buộc trong sân. Lúc này, nhà trọ chỉ có đoàn người của nàng thuê trọn. Khi nàng về đến, người trong đoàn hầu như đã đi nghỉ cả, chỉ còn ngọn đèn trong gian nhà chính lập lòe. Đèn trong căn phòng của nàng đã tắt từ lâu, lò sưởi lẫn giường lạnh tanh. Ngại gọi người giữa đêm, Như Yên lúi húi mồi lửa thắp đèn. Than trong lò đã hết, nàng phải sang nhà bếp bên kia sân lấy về. Vốn sợ lạnh, nàng lấy thanh cời hơ lửa lướt trên chăn chiếu một lúc rồi nhét lồng ấp vào giường. Khi xong việc, gà đã gáy canh hai. Không còn mở mắt được thêm, nàng mặc kệ tay chân mặt mũi dính muội than, lăn ra giường mà ngủ.

Giấc ngủ mệt mỏi không mộng mị chẳng dài. Như chỉ vừa mới chợp mắt, nàng đã choàng tỉnh. Ánh sáng xanh nhàn nhạt rọi thẳng vào mắt nàng cùng cơn gió lạnh ẩm hơi nước của bình minh thổi qua. Nghe tiếng cánh cửa tự động đóng, tim giật thót, nàng vội vàng bật dậy, vớ lấy thanh cời dưới giường.

“Coi chừng bỏng.” Tay vẫn đặt trên cửa sổ, hắn tử tế lên tiếng nhắc. Thanh cời đặt bên lò sưởi, có thể rơi vào lò bất cứ lúc nào. Không nhìn mà thuận tay vớ lấy, có thể làm bỏng mình trước khi đánh được ai. Lại gần giường, hắn tước lấy thanh cời lửa, lắc đầu. “Nàng vẫn chẳng biết tự lo cho mình chút nào.”

“Ngươi…” Cơn buồn ngủ đã bay biến hết, thế chỗ bằng sự ngơ ngác mơ mơ hồ hồ, nàng trân trân nhìn hắn lấy cái khăn ở góc phòng lại, bắt đầu lau mặt cho nàng. Tay hắn vừa đặt lên má, nàng giật mình tránh sang bên. “Sao lại ở đây?”

“Ta đem trả vò rượu nàng để quên.” Hắn ra dấu về phía vò rượu trên bàn, tiếp tục kéo nàng lại lau vết than trên mặt. Khăn được nhúng nước nóng ấm, chậu nước bốc hơi nghi ngút, hẳn vừa được hắn đem vào. Hắn đã vào phòng nàng hẳn không chỉ vừa một lúc.

Nàng cắn môi, để mặc hắn lau mặt. Lau sạch vết bẩn trên mặt nàng, hắn cúi xuống nắm tay nàng, lau từng ngón tay lem luốc. Khi hắn lau xong hai bàn tay, tiếng chim đầu tiên đã văng vẳng ngoài hồi.

Vẫn nắm tay nàng không buông, hắn đột nhiên cúi đầu mà bật ra tiếng cười khẽ. Tiếng cười tan, hắn chăm chú nhìn những ngón tay nàng, vẻ mặt bất chợt hóa trầm ngâm.

“Vừa rồi có người hỏi ta còn yêu nàng không. Ta trả lời, ta không biết.” Im lặng kéo dài hồi lâu, hắn chợt nói khẽ. Tiếng nói lẫn giữa âm thanh của đàn chim buổi sớm ríu ran liếp chiếp. Căn phòng đóng kín cửa, mờ mờ tối, vài tia sáng lọt qua mỏng như bụi mờ. Mỏng như tiếng thở dài. “Ngay cả khi ôm nàng, hôn nàng, ta cũng không biết. Nàng hẳn cảm thấy ta bức bách nàng, thật ra ta chỉ muốn chứng thực lại một điều.”

“Từ đầu đến giờ, ta đều không biết thế nào là yêu thương một người. Ngay cả với Tuyết Nhi, ngay cả với lão Đại, lão Cửu, cha mẹ… dường như là thói quen, một loại bản năng. Chăm sóc cho họ, lo lắng cho họ, thậm chí hy sinh vì họ, ta đều có thể làm. Ta thậm chí có thể hy sinh cho người chẳng quen biết. Nhưng như vậy, quen hay không quen, biết hay không biết, yêu hay không yêu với ta chẳng khác gì nhau.” Bất chợt ngừng lời, hắn như không tìm được ý để tiếp tục, liền mỉm cười. “Ngày xưa, nàng kể cho ta chuyện nhà sư và bức tranh mỹ nhân. Ta thật chẳng cần một phép Quán bất tịnh nào, có bắc ghế ngồi trước mặt nàng cũng không cần thiết.”

Mi mắt Như Yên khẽ rung. Rút tay khỏi tay hắn, nàng đứng lên đến bên cửa sổ. Hai cánh cửa vừa được đẩy ra, gió từ sông đã thổi vào lồng lộng, cuốn theo ánh mai xanh buốt. Nàng nhìn lên bầu trời mờ mây trắng, đàn chim vẫn lao xao bay trong mùa thu của phương Nam. Mùa thu, trời sáng muộn, vạn vật vẫn chìm trong sắc xanh của đêm vừa tàn phai.

Đêm vừa tàn phai, không để lại một giấc mộng thoáng qua.

Năm tháng qua đi, chẳng để lại một dấu vết trong bầu trời.

Đây liệu có phải là điều nàng muốn nghe? Vẫn dõi mắt theo một cánh chim bay, nàng tự hỏi. Đây có phải là điều nàng chờ đợi? Rằng nàng đã hiểu rõ, luôn hiểu rõ, phần tăm tối sâu thẳm trong hắn vốn cách xa nàng ngàn dặm. Rằng tình yêu, thứ gọi là tình yêu đến trong đời nàng, chẳng qua chỉ là đoạn giao thoa của những giấc mộng riêng. Rằng thời gian, chính thời gian chứ chẳng phải điều gì khác, phơi bày ra những lầm tưởng và khờ dại như nước rút đi trên đá. Rằng nàng hiểu rõ mọi điều hắn nói và không nói.

Niên hoa ngắn ngủi, nghiệp quả dài lâu. Thân như băng trong nắng, mệnh là đèn trước gió. Ngẩng đầu nhìn hư không, nào thấy một bến bờ.

Tim vẫn còn chung nhịp, nhưng lòng đã cách xa. Mộng vẫn còn vương vấn, nhưng đêm đã tan trong ngày nắng rạng.

Để rồi còn lại là những xót xa thương cảm, những quan hoài không dứt. Niên hoa ngắn ngủi, mộng lại quá dài.

Một giấc mộng vĩnh hằng là giấc mơ không bao giờ thành hiện thực. Nàng nhớ về lời nói thì thầm bên tai ngày ấy, bất chợt rùng mình.

“Nếu Thái tử của Đại Thành yêu cầu, ngươi có đi đánh Nam Chưởng không?” Nàng chợt lên tiếng, vẫn quay lưng về phía hắn. Sau lưng nàng, hắn nhíu mày.

“Sao phải đi đánh họ?” Liên quan gì đến ta, đó mới là điều hắn định nói. Như Yên cúi đầu cười khẽ.

“Người đánh ta, ta đánh người, mảnh đất này là như thế.” Thở ra, nàng quay người vào trong, tay tựa lên bậc cửa. Nắng soi trên gò má nàng nhợt nhạt, đôi mắt lại sâu thăm thẳm. “Mảnh đất này chưa bao giờ không có chiến tranh. Ngày mà vương quốc Angkor hùng mạnh, họ đánh khắp nơi. Chân Lạp suy yếu, Miến Điện, Đại Thành mạnh lên, Nam Chưởng tách rời, bọn họ lại tiếp tục đánh lẫn nhau, thôn tính các tiểu quốc, cướp bóc các lâu đài. Chân Lạp bây giờ đã phải thần phục Đại Thành, chỉ còn Nam Chưởng vẫn chống chọi được với Miến Điện. Nếu bây giờ Nam Chưởng lọt nốt vào tay Đại Thành, ngươi nghĩ sẽ ra sao?

“Kẻ nào thu tóm được nhiều chư hầu, khống chế được nhiều thế lực hơn thì sẽ chống cự được, tránh cho mình bị nuốt chửng. Để chống lại Miến Điện, Đại Thành phải thôn tính Chân Lạp, chinh phục Lan Na, vươn tay tới bất cứ vùng đất nào lân cận, lấy chúng làm vùng đệm, làm đất chống lưng. Kẻ nào đánh mất sự khống chế, kẻ ấy sẽ chết – Cái chết đau đớn khốn cùng nhất. Kẻ thua cuộc sẽ bị chà đạp, chia tách, lợi dụng, giày xéo đến không còn hình dạng. Đại Thành đang ở những ngày hưng thịnh nhất. Không buông Nam Chưởng, Đại Thành sẽ còn lấn tới đâu? Khống chế được cả Nam Chưởng và Chân Lạp, Đại Thành sẽ tiếp tục đến đâu?” Cười nhàn nhạt trong cổ, Như Yên nheo mắt. “Bây giờ có thể hoãn lại, nhưng khó tránh được những cuộc chiến sau này.”

“Ta có thể nghĩ ra được điều ấy, kẻ khác hẳn cũng nghĩ tới.” Đưa mắt nhìn lên ánh sáng hắt trên xà nhà, đầu ngón tay chạm vào nhau, Như Yên nhẹ nhàng đều đều nói. “Nếu Đại Thành đánh đến Nam Chưởng bây giờ, nơi này cũng khó mà ngồi yên. Dù không đưa quân tham chiến ở Nam Chưởng, bọn họ cũng nhất định không thể để yên cho Đại Thành toàn quyền khống chế phương Nam.”

Đã có được Chân Lạp và Nam Chưởng, Đại Thành sẽ tiếp tục bành trướng đến đâu? Đó là điều nàng không cần phải hỏi. Vùng đất mênh mông phía cực Nam đã bị hai thế lực to lớn là Miến Điện và Đại Thành khống chế, Đại Thanh cũng không thể chạm tay tới. Đất nước Đại Thành non trẻ được dựng xây trên chiến trận, máu và đổ nát cần rất nhiều để đứng vững. Dải đất nho nhỏ ở rìa biên Đông tưởng như chỉ cần một cái phất tay sẽ rơi xuống biển khơi.

Hoặc lớn mạnh, hoặc sẽ bị cơn lũ dữ từ trong đất nghiền nát.

Không ai cam tâm làm một chư hầu. Càng không ai cam tâm để mình bị chà đạp, trao vận mệnh vào trong tay kẻ khác. Không như mảnh đất phương Bắc còn có quyền lực của Đại Thanh che chắn, nơi này, bọn họ không là ai, không là gì.

Trên dải đất hẹp bên rìa biển, bao nhiêu đất nước, vương triều đã tồn tại và bị triệt tiêu?

Sau vai nàng, ánh dương đầu ngày vừa ló dạng, phát sáng thành một vầng hào quang rực rỡ. Hắn nhớ đến những gì đã thấy trong tiềm thức của Chiêm Dao Luật. Ánh dương đã đốt cháy quá khứ, hiện tại và mai sau. Thiên địa bất nhân, người chỉ là cát bụi. Quá khứ, hiện tại, tương lai xoay vòng trong cát bụi.

Định mệnh không có khoan dung, cũng chẳng có nhân từ. Hắn đã rời khỏi phương Bắc trong những ngày hoang tàn máu chảy, hiểu rằng chẳng thể quay đầu. Hắn đã phiêu dạt trên đất phương Nam không có một nơi dung chấp. Con người, cùng những điều tưởng là vĩ đại tựa như giang sơn đất nước, thế gian cùng vũ trụ, cuối cùng hóa ra chẳng hơn cái chớp mắt của hư không. Không có lý lẽ, chẳng có đúng sai, thậm chí chẳng có báo ứng luân hồi trên dương thế. Chỉ có điều duy nhất đứng vững: Quy luật của tồn vong. Quy luật của huyền không.

Như Yên cười hắt ra sau một lúc ngẩn người. Nàng bước đến, dừng lại trước hắn. Bằng một cử chỉ đột ngột nhưng dịu dàng, nàng vươn tay ôm lấy hắn. Tóc nàng rơi qua má hắn, lành lạnh mùi sương mai.

“Ngươi cũng vậy.” Nàng thì thầm, trong giọng nói của nàng, hắn đột nhiên nghe ra những âm rung nhè nhẹ. “Cũng phải cố mà sống, biết không?”

Bánh xe của vận mệnh đã quay. Một cuộc chiến nữa lại khởi đầu.

Con người lạc giữa muôn dặm giang sơn. Định mệnh phiêu dạt trong cơn bão thế thời. Niên hoa ngắn ngủi, đời cũng chỉ như gió qua. Một đời người, đáng gì với ngàn năm?

Sống, đó là cách duy nhất để chống chọi với Trời.

 

 

 

Chú thích:

[1] Bài Sơ nhật vô thường kệ của Trần Thái Tông. Dịch nghĩa:

“Màu đêm đã thoáng sắc sớm mai,
Ánh dương xuất hiện giữa không.
Ngầm phai tóc xuân bạc trắng,
Chẳng trả lại sắc hồng nhan diện cũ.
Đâu biết niên hoa ngắn
Còn tranh nghiệp quả hùng.
Thân như băng thoáng hiện,
Mệnh tựa nến trong gió.
Đừng làm khách trường niên,
Sớm về mà thu công.”

[2] Nam Chưởng hay còn gọi là Vạn Tượng, Lan Xang: Lãnh thổ chủ yếu thuộc về Lào ngày nay và một phần Tây Bắc Việt Nam, Bắc Cambodia. Năm 1478, quân của Lê Thánh Tông tấn công Lào, chiếm Luang Phrabang, chiếm giữ Lào khoảng 1 năm. Từ năm 1558, quân Miến Điện khi tấn công Ayutthaya liền đánh vào Lan Xang. Lan Xang liền liên kết với Ayutthaya, chuyển kinh đô về Viang Chan. Năm 1569, quân Lan Xang đẩy lui Miến Điện, nhưng nhà vua Lan Xang qua đời khi tấn công sang Chân Lạp. Lan Xang trở thành chư hầu của Miến Điện.

Năm 1637, vua Surinyavongsa lên ngôi, nối lại quan hệ với Ayutthaya và chúa Nguyễn ở Huế, đẩy lùi Miến Điện. Lan Xang hòa bình được hơn 50 năm, cho đến khi vua Surinyavongga qua đời. Tranh chấp ngai vàng của con cháu nhà vua với sự giúp sức của Ayutthaya và Đại Việt (dưới quyền Trịnh Căn) đã khiến Lan Xang phân chia thành 3 vương quốc nhỏ Luang Phrabang, Champasak và Viang Chan.

Từ đây, Lào bước vào thời kỳ đen tối khi Xiêm La liên tục tấn công giành lại quyền lực của mình trên các tiểu quốc này. Sau năm 1795, Viang Chan trở thành chư hầu của Việt Nam. Nhà vua Viang Chan lấy lại quyền lực dưới sự trợ giúp của Việt Nam, bắt đầu đánh Xiêm La chiếm lại Champasak và miền Đông Bắc Xiêm La vào năm 1823. Nhưng Luang Phrabang đứng về phía Xiêm La, quân Việt Nam rút lui vào năm 1826, Viang Chan bị Xiêm La đánh bại, đốt thành bình địa vào năm 1827, trở thành một tỉnh của Xiêm La. Năm 1848, Việt Nam lấy lại ảnh hưởng ở Luang Phrabang, phần còn lại của Lào vẫn nằm trong quyền lực của Xiêm La.

Sau năm 1890, Pháp bắt đầu những cuộc xung đột và thương lượng với Thái Lan về vùng đất ở Đông Dương, đánh lui quân Thái Lan khỏi những vùng đất thuộc về Lào ngày nay. Quân đội Anh đã chiếm được Ấn Độ và Miến Điện liền đưa Thái Lan trở thành vùng đệm với Pháp, không can thiệp đến Đông Dương. Sau năm 1909, Pháp trở thành đồng minh với Anh, cũng quyết định không dấn sâu thêm vào lãnh thổ của Thái, chấp nhận dừng chân ở biên giới Lào-Cambodia ngày nay. Quân Thái bị đẩy lui khỏi Đông Dương, lãnh thổ của nước Lào ngày nay đã được giành lại bởi người Pháp.




Hồi 43: Tâm
Tuesday, September 11, 2012 Author: Trường An

“Ta chưa thọ giới, có thể được sao?” Suy nghĩ hồi lâu, Hiểu Lam thận trọng lên tiếng. Hẳn nhiên, nàng hiểu rõ Dao Luật không thể tự dưng tốt bụng đến mức giúp nàng ‘tìm kiếm’ Hoắc Phương vô điều kiện. Nhìn ánh mắt Dao Luật, Hiểu Lam cũng đã hiểu tám, chín phần điều nàng ta đang suy tính.

Nhưng nàng chỉ còn duy nhất cách này để thử. Có đánh đổi một nửa linh hồn, nàng vẫn cảm thấy xứng đáng.

“Có thể.” Dao Luật gật đầu. “Cô biết hầu đồng chứ? Hồn có thể nhập vào bất cứ ai có thần khí thân thuộc với linh hồn ấy nhất, không cần phải là kẻ thọ pháp. Mỗi loại linh khí thu hút kiểu quỷ thần khác nhau. Ác tìm ác, thiện tìm thiện, đồng khí tương cầu. Chu cô nương không phải kẻ tham tàn độc ác, sợ gì quỷ thần hãm hại?”

“Ta không có linh hồn thuần khiết như Chu cô nương, gọi quỷ hồn thì được, cầu thần rất khó khăn.” Nhún vai, Dao Luật cười mờ nhạt. “Vừa rồi ta định xâm nhập vào thiên cơ, chưa thành công thì bị cô phá ngang. Nếu lần này có Chu cô nương giúp sức, ta tìm được câu trả lời của ta, cô tìm được người của cô, chúng ta đều có lợi.”

“Như vậy…” Hiểu Lam ngập ngừng. Nhưng giọng nói cho thấy nàng đã xuôi theo, gần như định gật đầu đồng ý.

Nhưng đúng lúc nàng vừa định gật đầu đồng ý, một tiếng cười đã khe khẽ vang từ trong bụi cây rậm bên sông. Nghe tiếng cười, Dao Luật giật mình ngoái lại. Hiểu Lam giơ đao lên, Dao Luật liền đưa tay ngăn.

“Vẫn còn ở đây?” Dao Luật nhướn mày, hướng về phía bụi cây mà hỏi. Người bên ấy bước khỏi bóng lá rậm rạp, đi về phía hai cô gái. Dưới ánh trăng, áo xanh gần chuyển sắc đen. Dao Luật khe khẽ thở ra. “Đúng là chẳng bao giờ tin cô ta được.”

“Tử… Mạc công tử?” Hiểu Lam cũng kinh ngạc thốt. Nàng đưa mắt nhìn Dao Luật rồi lại nhìn về phía hắn. “Công tử đến đây bao giờ?”

“Lâu rồi.” Hắn mỉm cười với Hiểu Lam, quay lại nhìn Dao Luật, lắc đầu với nàng ta. “Cô lại dụ người khác làm tà thuật.”

“Chúng tôi đang bàn việc.” Dao Luật nhíu mày, thái độ tức thì thay đổi. Hắn ở đây đã bao lâu mà nàng không hề nhận thấy? Đã ẩn thân, hắn lại nhất quyết xuất hiện ngăn cản Hiểu Lam, hẳn định ngăn cản cả nàng.

Hắn hiện đã nối lại quan hệ với Như Yên, sẽ không để nàng làm nên chuyện bất lợi với nàng ta.

“Dao Luật cô nương sao không nói rõ, hồn phách yếu ớt nếu nhập đồng tùy tiện sau này phương hại đến mức nào? Nhẹ thì thất hồn lạc trí, hay ngơ ngẩn, giảm trí lực. Nặng thì mở cửa hồn cho quỷ thần tha hồ thao túng, dở điên dở dại.” Vẫn ôn hòa, hắn nhìn Dao Luật, nói mà sắc mặt không động. Mấy năm này liên lạc thường xuyên với các nhà sư phương Nam để điều kinh luyện khí, hắn cũng rõ được mấy phần các bùa pháp Nam tông. Những kẻ mất trí điên dại vì luyện bùa sai cách vẫn thường được đưa tới cho các lục cả chữa trị. Chưa kể đến hắn linh cảm thấy thứ bùa phép mà Dao Luật đang thuyết dụ Hiểu Lam tham gia không hề đơn giản. Hiểu Lam dù sao vẫn chỉ là một cô gái đơn thuần, khó đấu lại nổi với nàng ta.

Nghe câu nói của hắn, Dao Luật mím môi. Liếc mắt nhìn qua Hiểu Lam, hắn cười.

“Chu cô nương có còn muốn tham gia không?” Hắn hỏi, nhìn đôi mắt trong lạnh như nước hồ của Hiểu Lam khẽ chớp. Rồi nàng chậm chạp gật đầu. Hắn liền phác tay. “Để tôi thay Chu cô nương.”

“Anh?” Dao Luật thoáng vẻ ngạc nhiên. Hắn đưa tay làm một dấu trên đỉnh đầu.

“Tôi đã được thọ giới trên núi Bokor, cả các pháp sư tài ba nhất cũng chẳng mấy ai có quyền lợi ấy đâu.” Cho dù đến tận bây giờ hắn vẫn chưa hiểu việc ‘thọ giới’ ấy nghĩa là gì, nhưng nghe Dao Luật nói chuyện vừa nãy thì nàng ta hẳn cần có một người như hắn. Thấy vẻ mặt Dao Luật, hắn liền kể vắn tắt chuyện hắn bị Mộc Long đưa lên núi Bokor, vô tình mà trở thành người thụ giới. Nghe xong, Dao Luật trầm ngâm nhìn hắn, hồi lâu sau liền gật đầu.

“Ta thử xem.” Dao Luật nói rồi quay lưng đi về phía hố thiêng, ra hiệu cho cả Hiểu Lam đi theo.

Cả ba cùng xuống, hố đã có vẻ hơi chật. Dao Luật xếp ba người ngồi ở ba cạnh của mandala trên đất, đặt một viên đá thạch anh lớn ở cạnh còn lại. Sắp xếp xong, Dao Luật đưa tay cho hắn ngồi ở phía đối diện, cầm tay hắn đặt vào giữa mandala.

“Làm việc này cần phải khai mở các luân xa chakra, người có khí lực yếu thì luân xa bị tấn công sẽ khó đóng lại, trở thành cửa ngõ cho âm khí xâm nhập.” Dù có Hiểu Lam bên cạnh, Dao Luật vẫn thẳng thắn nói. Tay nàng đã đặt lên mu bàn tay hắn. “Mạc công tử đã được thụ giới, tức là khai mở luân xa số một trên đỉnh đầu, đồng thời được ban cho sức mạnh kiểm soát tâm linh, tà khí không thể xâm nhập. Nếu là người học pháp, công tử đã có thể liên lạc với thần linh, tiếc là không phải nên các luân xa khác của công tử vẫn đóng. Bây giờ tôi khai mở luân xa số sáu, bảy của công tử. Việc này công tử có thể tự luyện tập để làm là tốt nhất, nhưng ở đây tôi sẽ mở hộ cho công tử.”

Vừa nói, Dao Luật vừa ra hiệu cho hắn cúi đầu gần lại. Nàng đặt tay lên trán hắn, rì rầm một bài kinh không nghe rõ.

Những ngón tay lành lạnh phút chốc trở nên nóng rực như than ấn lên trán hắn. Không tránh né, hắn chỉ nhắm mắt giữ nguyên tư thế. Bất chợt, Dao Luật kêu một tiếng khe khẽ trong cổ, rụt tay về.

“Luân xa của công tử vốn đã mở rồi?” Dao Luật cau mày, nửa ngạc nhiên nửa dò hỏi. Hắn chạm tay lên trán, nhún vai.

“Chắc thế.” Lúc chữa trị khối khí ứ đọng, các nhà sư cũng đã từng nói đến việc ‘khai mở các luân xa’ của hắn. Nhưng trong mắt Dao Luật, hắn còn nhận thấy ý lời khó mà nói ra. Nàng mím môi vài lượt, thận trọng hỏi.

“Trong công tử có lực nào đó phản kháng lại…” Nàng như cũng không nhận biết đó là gì. Hắn chớp mắt nhìn lại, còn ngơ ngác hơn. Mộc Long vốn đã nói hắn ‘mạnh vía xui xẻo’, còn cả khối khí bấy lâu nay vẫn lưu chuyển trong người, cách tu tập theo Du già Mật tông… bây giờ nghĩ lại, hắn còn thầm lấy làm ngạc nhiên vì sao vẫn chưa bị tẩu hỏa nhập ma, huống hồ là nhận biết có thứ gì trong mình.

Dao Luật cắn môi. Nhưng có vẻ càng khó khăn càng kích thích, nàng kiên quyết đặt tay lên mandala, gật đầu.

“Nếu vậy thì ta cứ thử xem.” Dao Luật nói, đưa mắt cho Hiểu Lam. Hiểu Lam biết ấn chú giải pháp, nếu thấy hung hiểm hẳn sẽ có cách phá giải.

Các luân xa của hắn vốn đã được khai mở toàn bộ, khí lực dồi dào cuồn cuộn, năng lực không hề thua kém các pháp sư cao cường nhất. Dao Luật không cần phải dùng phép hộ lực, bắt đầu niệm chú nhập Brahman.

Đã vào lúc nửa đêm, trăng vằng vặc sáng lạnh một màu. Khí lạnh của đêm Hạ nguyên tràn ứ như nước dâng. Nước đang dâng trên đầu nguồn các dòng sông, đổ về biển cả. Dưới những ngón tay, hắn dường có thể cảm thấy sự lưu chuyển rì rầm của các dòng chảy trong lòng đất. Theo thói quen, hắn vận hành cách quán tưởng của Thiền tông, tiếng đọc chú của Dao Luật văng vẳng xa dần, mơ hồ như tiếng gió từ đầu núi vọng lại.

Dưới lòng bàn tay hắn, hơi đất ẩm lạnh nóng dần lên, tiếng rì rầm ngày càng rõ ràng, thao thiết, lao xao. Trong bóng tối sau đôi mắt nhắm, hắn thấy mình như lún sâu xuống lòng đất thẳm, chìm ngày càng sâu. Dường như không còn cả hơi thở, không còn cả sinh mệnh. Bóng tối nhập vào tâm trí hắn ào ào như dòng lũ, cuốn phăng đi những giác quan cuối cùng. Tiếng đọc của Dao Luật, bóng tối nặng mùi đất ẩm trong hầm, cái lạnh của đêm cùng hơi thở trong lồng ngực, tất cả đều biến mất.

Khi tất cả đều biến mất, hắn thấy mình chỉ còn là cụm khí bay giữa trần gian.

Trần gian không đất không trời, không biển không mây, chỉ là bóng tối thăm thẳm sâu, trôi về cực cùng vô tận. Bóng tối cực cùng vô tận bên kia đầu không gian, nơi những đốm lửa muôn màu lần lượt trôi về. Những đốm lửa xoay tròn trong một điệu vũ vô tri, trôi về tận cùng bóng tối. Những đốm lửa xoay tròn thành các vòng xoáy đều đặn, đan vào nhau, tàn phá nhau, hợp cùng nhau, tan biến cùng nhau.

‘Hắn’ không phải là những đốm lửa, nên ‘hắn’ chỉ lững lờ giữa khoảng không. Trong không trung có cả những ngọn gió, chúng thổi xuyên thấu qua ‘hắn’, đem theo những nhận biết, những ý nghĩ phiêu lạc mà ‘hắn’ nửa nắm được nửa không. Đi theo một ngọn gió có vẻ quen thuộc nhất, ‘hắn’ lần về điểm đen mà các đốm lửa đang trôi tới kia.

Bóng tối càng gần điểm đen ấy càng đặc quánh, sức hút mãnh liệt như cái hố cuồn cuộn gió. Sẩy một bước chân, ‘hắn’ rơi hẳn vào trường lực của điểm đen ấy, bị hút vào trong. Chút ít ý thức còn lại cũng mất hẳn.

Trong bóng tối, bóng tối cực cùng, bóng tối thẳm sâu, hun hút, vô tận vô biên, hắn trở thành bóng tối.

Bóng tối, ở tầng sâu hơn nữa, như một mầm cây đang khai nở. Ở cực cùng bóng tối, hạt nhân bắt đầu những vòng xoay nóng rực như lửa thiêu. Như lửa nhen lên rồi thiêu rụi, bóng tối bùng vỡ thành muôn mảnh vô sắc. Ở giữa lửa đen, nguồn ý thức bung ra, mang theo muôn mảng trạng vô hình.

Dao Luật hít vào một hơi khí lạnh. Hắn đã nhập Brahman dễ hơn nàng nghĩ. Quá dễ dàng, đến mức hắn chỉ như một cánh cửa có thể xuyên qua. Gật đầu với Hiểu Lam, Dao Luật chỉnh lại tư thế, bắt đầu tịnh tâm. Tay nàng vẫn đặt lên tay hắn, Dao Luật giữ một nửa trạng thái thanh tỉnh, dùng nửa mê man của mình xâm nhập vào giấc mộng của hắn.

Đón nàng chỉ là bóng tối. Vạn pháp do tâm tạo, nội tâm của một người phản ảnh tâm thức người ấy, nàng đã quen với muôn vàn hình ảnh khác lạ trong tâm tưởng người. Nhưng ở trong giấc mộng sâu kín nhất của hắn chỉ có bóng tối. Hun hút, đen ngòm, sâu hoắm như dưới mỗi bước chân đều là bờ vực. Khiến nàng ngần ngại không dám thâm nhập sâu thêm.

‘Có nghe ta nói không?’ Nàng gọi vào bóng tối. Không có tiếng hồi đáp, chỉ có làn không khí chênh chao ra hiệu trả lời.

Dao Luật thận trọng tiến sâu thêm. Nàng chợt hẫng vào bóng tối cuộn xoáy như vực nước, bị cuốn phăng đi. Trước lúc kịp hoảng hốt, nàng nhận ra mình đã ở giữa một không gian vô tận. Bóng tối trải ra vô tận, chập chờn những đốm lửa sáng nhảy múa, xoay tròn, nhân lên, truyền ra xa. Bóng tối cùng những vòng lửa kết nối đến vô cùng. Có những tàn lửa rơi, tắt lịm như mưa sa.

Nàng vô thức di chuyển về hướng bóng tối chuyển động. Nhưng nàng không lại gần được nó, càng đi càng xa. Những đốm lửa vẫn xoay tròn quanh nàng, không gian như đặc quánh quanh nàng, chuyển động quanh nàng.

Nàng định hỏi lần nữa, nhưng nhận ra ở đây không có âm thanh. ‘Nàng’ cũng không có sự hiện diện về thực thể. Nàng đành tập trung nốt khí lực cuối cùng, dùng tâm lan tỏa ý nghĩ của mình trong không gian nọ.

Nàng vừa nghĩ đến Hoắc Phương, đốm lửa bên cạnh chợt sáng lên, trải rộng như mặt gương, hình ảnh loang loáng tựa phản chiếu trên nước. Hình ảnh rõ dần lên như một đáy nước đen sâu, loáng thoáng vài tia sáng nhỏ. Cỏ cây chen dày che trên mặt, khiến lòng nước đục ngầu.

Nàng nghĩ đến Như Yên, đốm lửa bên cạnh liền tắt, đốm lửa khác lại cháy ở phía xa xa. Nàng cố gắng dịch chuyển đến, chỉ thấy căn phòng tối, màn đã buông. Hai chiếc hài vứt bừa dưới đất, Như Yên vẫn mặc nguyên áo mà ngủ.

Nhưng chủ ý của nàng vốn không phải là tìm hiểu về bọn họ. Dồn hết sức lực, nàng thử đi về phía bóng tối chuyển động kia lần nữa. Không khí ở đây cô đặc lại, những chuyển động càng nhanh hơn. Giữa những đốm lửa chớp tắt, nàng thấy một vùng tối sâu hút. Linh tính sợ hãi khiến nàng dừng bước.

Thiên cơ? Ý nghĩ ấy vừa nảy ra, không gian xung quanh nàng liền rùng rùng dịch chuyển. Những mảnh sáng tối thoát ra từ điểm đen nọ lượn vòng quanh nàng rồi bay lên không. Những đốm lửa tan nhòa vào nhau, biến thành một vòng tròn lớn. Điểm đen nọ nổ bùng một tiếng, sáng lên chói lòa rồi nhanh chóng dịu xuống, biến thành một hình ảnh như mặt trăng ngày rằm. Giữa điểm sáng trắng, những cái bóng mờ nhạt không ngừng di chuyển, tựa hồ như có ý thức. Nàng thấy mình như bị một tròng mắt trắng dã trừng trừng nhìn xuyên qua.

Vòng tròn của lửa tụ lại quanh điểm sáng xếp thành hình dạng một bánh xe Luân Viên. Nơi này biến chuyển theo tâm thức của nàng, nàng nghĩ thầm khi không gian không ngừng chuyển động. Thành dáng hình hoàn chỉnh, các đốm lửa lại tiếp tục quay tròn. Bánh xe luân hồi vạn pháp tỏa ra tám hướng được đốt bằng lửa chói lòa giữa bóng tối.

Nàng vẫn chăm chăm hướng sự chú ý về ‘vầng trăng’ nằm chính giữa luân xa. Những bóng đen mờ trên bề mặt ánh sáng luân chuyển như thể chính vầng sáng ấy cũng đang quay tròn. Từ quầng sáng ấy, những tia sáng mảnh như sợi chỉ vẫn không ngừng thoát ra, đan cài như tơ trên những bánh xe luân hồi. Một sợi đứt đoạn được nối tiếp bằng sợi ánh sáng khác. Sợi sáng đan ngày càng dày, vòng bánh xe ngày càng sáng chói lọi, cuối cùng trở thành một vầng sáng rực rỡ tựa thái dương.

Tất cả chói bừng lên chỉ trong một sát na, nuốt chửng lấy nàng.

Trong ngàn sợi tơ luân hồi, ánh dương hừng hực chói chang, nàng như thấy ngàn hình ảnh lướt qua tâm trí. Những con sóng vỗ trên mặt nước, đập vào muôn tảng đá. Đất vỡ mình thành cát, đất vỡ mình thành biển. Rồi chỉ trong thoáng chốc, ngọn lửa bừng cháy trên trời cao, nuốt chửng không trung.

Ngọn lửa bùng lên, phân rõ ba tầng trời. Hóa thành thái dương vĩnh cửu.

Khoảng thời gian sau đó được đo bằng cái chớp mắt. Chớp mắt, núi thành gò, nương dâu hóa biển. Chớp mắt, rừng hóa đồng hoang, cung điện hóa tường lở đất vùi. Ngọn lửa cháy bừng, đón lấy gió từ biển khơi, đất từ núi cao, nước từ sông rộng, đốt thành hư không. Hóa thành tàn tro bay giữa hư không. Tro tàn bay như muôn đóa hoa giữa muôn cõi hồng trần.

Gió của biển khơi. Đất từ núi cao. Nước từ sông rộng. Lửa của Thần.

Máu đã đổ. Máu sẽ đổ. Nhuộm đỏ mảnh đất cúng Thần. Lửa bùng cháy trên lời nguyền vĩnh cửu. Thần linh bị lãng quên. Thời gian bị lãng quên. Con người bị lãng quên. Mảnh đất bị lãng quên. Lời nguyền bị lãng quên. Lãng quên bị lãng quên. Tất cả hóa hình thành Lửa. Chôn vùi trong cát.

Biển vùi chôn. Đất lấp dấu. Nước xóa nhòa.

Tathagatha[i]. Không từ đâu đến. Không đi về đâu.

Tất cả rơi vào trong lãng quên. Vào vô tận hoại diệt. Hoại diệt là bản chất của chư hành. Bánh xe luân hồi xoay mãi ngàn năm.

Trong một cái chớp mắt, thế giới hóa thành khoảng trống đầy tràn bóng tối. Nàng nhận ra mình đã lại trở về bên điểm đen huyền bí nọ. Dường như tất cả chỉ là ảo giác của bản thân nàng, hố đen vẫn lặng im, những đốm lửa vẫn lập lòe cháy sáng trong vũ điệu quay tròn. Bánh xe luân hồi vừa rực cháy trước mắt nàng đã không còn một dấu.

Ngần ngừ một thoáng, nàng định lại gần hố đen kia. Nhưng lần này, một lực đẩy rất mạnh hất nàng ra xa. Nàng thấy mình bị ném ra ngoài cả những đốm lửa sáng, không kịp chống cự.

Thứ cuối cùng mà nàng nhìn thấy, là một khoảng trống bao la.

Bao la hơn cả bao la, vô tận hơn cả vô tận. Nằm bên ngoài không gian mà nàng vừa bước vào là một không gian khác. Một hố đen khác, to lớn hơn, xa vời hơn, nằm ở phía bên kia.

Nàng dường nghe thấy tiếng cười. Thứ âm thanh không ma mị, không quái gở, nhưng lại khiến chân tóc nàng dựng đứng trong nỗi sợ hãi đến tưởng phát điên. Chỉ trong một khoảnh khắc thứ thanh âm ấy cất lên, nàng thấy mình gần như phát điên.

“Dao Luật! Cô Dao Luật!” Hiểu Lam vội vàng ôm lấy Dao Luật đỡ lên, kêu hoảng hốt. Dao Luật đột nhiên ngã xuống mandala, ôm lấy đầu mà hú một tiếng dài. Thở dồn dập một lúc, Dao Luật mới ngẩng lên nhìn Hiểu Lam, yếu ớt lắc đầu.

“Không sao.” Dao Luật chống tay ngồi lên. Đặt tay lên trán hắn, nàng lầm rầm đọc một bài chú giải pháp. Mi mắt hắn nhẹ rung động, nàng đã rút tay về.

Hắn mở mắt, thấy Dao Luật đã ngồi xếp bằng, nhắm mắt tĩnh tâm. Ở bên cạnh, Hiểu Lam trông nhợt nhạt như thể hoảng sợ điều gì, hết nhìn hắn lại đưa mắt về phía Dao Luật.

“Chu cô nương.” Dao Luật nhẹ giọng gọi mà không mở mắt, giọng nàng có vẻ mệt mỏi. “Vừa rồi, ta đã ‘thấy’ Hoắc Phương. Y ở dưới đáy nước.”

“Mạc công tử hẳn cũng thấy.” Hiểu Lam vừa hé môi, Dao Luật đã nói. Trước ánh mắt trừng trừng của Hiểu Lam, hắn chỉ đành gật đầu.

“Không…” Hiểu Lam gần như ngã ra sau, không thể thốt ra một tiếng. Nước mắt bắt đầu đoanh tròng, nàng vội đứng dậy, phóng ra khỏi hố. Hắn vừa dợm đứng dậy đuổi theo Hiểu Lam, Dao Luật đã mở mắt, giật giọng gọi.

“Cô ta không cần anh đâu.” Hắn chạy theo nàng ta bây giờ chỉ khiến mọi việc rắc rối thêm. Không đảm bảo rằng người của Như Yên không bám theo Hiểu Lam, nếu thấy hắn thì lại làm ra to chuyện. Tính khí tiểu yêu tinh nọ thế nào, nàng cũng biết rõ. Tựa lưng vào thành hố, Dao Luật thở hắt, ra hiệu cho hắn ngồi xuống. “Công tử, cho tôi hỏi vài điều.”

Ngoảnh lại nhìn Dao Luật, hắn cau mày nhưng vẫn ngồi xuống. Hiểu Lam có thuộc hạ quanh đây, hắn cũng không cần phải quá lo lắng cho nàng ta.

“Vừa rồi hẳn anh cũng thấy những gì tôi thấy?” Hắn vừa ngồi, Dao Luật liền hỏi. Mọi thứ xảy ra trong tâm thức của hắn, hẳn nhiên hắn hiểu rõ. Nàng không chờ hắn trả lời đã nói tiếp ngay. “Mấy năm vừa rồi, anh làm gì?”

“Các luân xa đóng mở tùy ý, chân khí dồi dào, thân thể hầu như có thể điều khiển theo ý mình rồi.” Đăm đăm nhìn hắn, ánh mắt Dao Luật lại có vẻ cảnh giác hơn là vui mừng. “Nhưng tha lực bên trong anh là gì vậy?”

“Người tu hành nếu có tha lực hỗ trợ thì tinh tiến rất nhanh. Nhưng đã nói đến tha lực thì hầu hết là lực hỗ trợ bên ngoài, chỉ anh có một khối năng lượng kềm nén bên trong, luân xa mở nhưng thật ra lại đóng. Anh có thể thu phát nó tùy ý, phải không?” Dao Luật dò xét quan sát hắn, thấy hắn nhè nhẹ gật đầu liền nhíu mày. “Anh đã học thêm Mật pháp?”

“Có lẽ.” Hắn nhìn lên trần hố, không mấy chú ý tới câu hỏi của Dao Luật mà nghĩ đến điều khác. Hắn nhớ đến lúc khí lực mình hư thoát gần hết mấy năm về trước, theo như Dao Luật nói bây giờ là do các luân xa của hắn đã bị mở ra tùy tiện, khôn bề kiềm chế. Nhưng lúc ấy, các lục cả già cũng chỉ ngần ngừ chứ không định dạy hắn cách đóng mở luân xa, thậm chí còn chẳng cảnh cáo hắn điều đó. Có thể họ cho rằng khối khí nọ đã có thể tạm thay việc đóng luân xa, không lường đến chuyện nội công của hắn vốn lưu chuyển bất định trong kinh mạch, xáo trộn không thể kiểm soát.

Cũng có thể, là họ ngần ngại. Các luân xa tối quan trọng của hắn đã được khai mở khi thọ giới ở núi Bokor. Hắn dù sao cũng là kẻ ngoại đạo, và các luân xa mở ra không cần tu tập là việc hại nhiều hơn lợi. Thêm khối năng lượng dị biệt tồn tại trong thân thể, giúp hắn ‘tinh tiến rất nhanh’ theo một cách chẳng giống ai. Các pháp sư tu hành cả đời có khi cũng chưa thể mở hết luân xa, hắn lại không tu tập được một ngày. Mộc Long lẫn Lý lão dù sao vẫn là hải tặc, những nhà tu hành hẳn nhiên e sợ một kẻ mang năng lực dị thường như hắn đi làm Chằn tinh lượn quanh dọa người.

Mấy năm làm bạn với sóng biển, hắn tìm được cách điều khiển khối khí nọ, hướng nó theo phương pháp tập Vô Âm, vô tình mà thấy khí lực của mình điều tiết dần. Có thể do thời gian làm tâm tính chín chắn hơn, hắn ít còn cảm thấy sự thôi thúc đẩy mình vào hiểm lộ thưở xưa. Hoặc cũng có thể như Huyền Khê nói ngày trước, khí công của Tuyết Hoa tạo ra tâm trạng bồn chồn bất ổn thường trực, không để hắn có thể ngồi yên một chỗ. Hoặc cả hai cộng lại.

Vô thức, hắn thở dài.

Dao Luật lại hiểu tiếng thở dài của hắn thành ý khác. Đôi mắt sâu xa không thấy đáy, nàng cân nhắc lắc đầu.

“Anh còn bảo vừa làm hòa với Như Yên?” Cuối cùng, Dao Luật vẫn quyết định hỏi. “Anh có còn yêu cô ta được nữa sao?”

 

 

Chú thích:

[1] Tathagatha: Như lai như khứ. Vạn vật từ Chân như đến nên gọi là như lai, đi về Chân như nên gọi là như khứ. Đây cũng là tên Phật tự gọi mình.





Copyright © Trường An. All rights reserved.