Solitude

Cảnh như thị, nhân như thị

Ghi chép linh tinh
Tuesday, June 18, 2019 Author: Trường An

Sau khi lật qua lật lại Đại Nam nhất thống chí, tra lại bản đồ lẫn ghi chép của M. Đức thì phát hiện ra là... có đến 2 hồ Tịnh Tâm. =__=

Vì M. Đức nói về hồ Tịnh Tâm nên nhiều người tưởng cái hồ này có từ đầu đời Minh Mạng. Nồ, theo ghi chép của M. Đức thì cái hồ này nằm trong Hoàng thành - đi tra lại bản đồ ổng vẽ thì... nó nằm ở gần vị trí của vườn Cơ Hạ sau này. M. Đức gọi nó là cung Tịnh Tâm.

Mà Nhất thống chí ghi chép về vườn Cơ Hạ chính là nơi Minh Mạng ở và học tập lúc còn bé. Sau vườn Cơ Hạ được bứng từ vườn Thư Quang về thì được kết nối với... đảo Doanh Châu, chính là hòn đảo trong hồ sau thành, nơi dựng cung Tịnh Tâm. Như vậy cái hồ Tịnh Tâm ở ngoài Kinh thành là 1 bản phóng chiếu bự hơn của cung Tịnh Tâm trong thành. Và cái khu "Bồng Lai tiên cảnh" này vốn đã được dựng rất sớm ngay sau khi Minh Mạng lên ngôi, ngay trên đất nhà xưa. Còn hồ Tịnh Tâm ngoài thành bây giờ hồi đó là hồ Ký Tế, sau này được xây sửa theo xì tai ra-đảo-ở.

Doanh Châu trong truyền thuyết là nơi kết nối cõi trần với cõi tiên, có suối rượu ngọc mà người uống vào sẽ trường sinh.

Vừng, hèn gì mới thò đầu đến vườn Cơ Hạ, đọc mấy chữ "chỗ hoàng tử công chúa học" mà đầu mị bùm bùm chéo chéo mấy chữ "Đại Quan viên". Hóa ra 200 năm trước có người coi nó là "Đại Quan viên" thật. =__=

Theo M. Đức cho biết thì khoảng giữa chợ Được và chợ Dinh (giữa cầu Đông Ba và Gia Hội), bên dòng sông có 1 ngôi chùa "tuyệt đẹp" tên là chùa Đông Ba - trong khi ổng rời khỏi VN vào khoảng 1825. '___' Có viên quan tên Nguyễn Bá Xuyến có 1 bài thơ tên "Cảm tác khi đi qua chùa Đông Hoa nghe tiếng đọc sách" - và ông ấy mất năm 1823. '___' Trước mị tưởng bài thơ này làm ở chùa tên Đông Hoa nào đó ở đâu đó, nhưng hóa ra ở Huế thời điểm đó có chùa tên Đông Hoa thật - trong khi Nhất thống chí không hề ghi chùa nào tên Đông Hoa trong khu vực.

Vậy là ngay trong những năm 1820s ở đây đã xây chùa, sau Thiệu Trị chuyển tên thành chùa Diệu Đế, chứ không phải đợi đến khi Thiệu Trị lên mới có chùa. Năm 1839 Minh Mạng cũng đá Thiệu Hóa quận vương đi chỗ khác, lấy nhà cũ xây chùa, bên cạnh có giếng Thanh Phương =)) (tuyển tập chữ Phương mệt thật chứ đùa).

Cũng có thể là có 1 ngôi chùa ở đây, rồi sau khi Thiệu Trị xây chùa Diệu Đế đã bỏ chùa Đông Hoa đi? Nhưng M.Đức cho biết chùa Đông Ba "tuyệt đẹp, xây dựng rất tốn kém". Mà Huế thì chùa san sát nhau chứ có làm sao đâu. Khả năng cao là quất cái chùa ở đó xong đến khi ông con lên mới nhận "chỗ này tui sinh nè". *theo trí nhớ của mị, quanh đó không có chùa nào nữa hết*

Cái tên Đông Hoa này nó cũng rất "kỳ". Lệ thường nó là tên cổng hoàng cung cơ, nhưng vào thời Minh Mạng cổng vẫn tên là Chính Đông môn. Chỉ có mỗi cây cầu với 1 cái tháp canh (trong 6 tháp phía Đông) có tên Đông Hoa, rồi dân theo thói quen gọi nguyên dòng sông, rồi tên khu vực là Đông Hoa. Khởi đầu tên là từ cái cây cầu.

Vườn Thiệu Phương thì nằm sau cung Khôn Thái - mà dòm suốt đời Minh Mạng có lẽ cung này... đóng cửa, thấy thỉnh thoảng sửa chỗ này chỗ kia nhưng chẳng hề đụng chạm tới cung điện này. Thấy có lần tâu chuyện cơ mật thì vào vườn tâu, Thiệu Trị cũng bảo thường xuyên vào chơi với cha trong cái vườn này, trong khi nó ở trong cấm thành, cho thấy có thể đây là nơi... dành riêng cho vua tự kỷ.

Tiếp, ghi chép của M.Đức "trong các vua sau Gia Long, chỉ có Thiệu Trị là con dòng chính". Ờ thì Tự Đức vốn bị Tây ghét, dưng định nghĩa "dòng chính" này nằm trong mục "Chế độ đa thê" nói về vị thế bà vợ cả cơ. Lẽ nào Từ Dụ không được dư luận coi là "dòng chính"? Trong Nhất thống chí có ghi chép về đền Lệ Thục nằm ở vườn Thanh Phương, xây từ năm Thiệu Trị thứ 1, thờ "Diễm nhân là Đinh thị" - mẹ của Hồng Bảo họ Đinh đó.




Mưa, hoa, đá
Tuesday, June 11, 2019 Author: Trường An

 

Mưa kia nhè nhẹ bay, tâm này như lửa cháy
Đây là lệ của ai nhè nhẹ lướt quanh trên mặt
Tình yêu của đá với mưa như sắc lam của biển
Dù có ngàn lời vạn chữ cũng không biết phải làm cách nào bày tỏ

- Chàng ở nơi đâu
Em nhìn mà chẳng thấy

- Ta là một viên đá nhỏ
Chôn sâu thăm thẳm nơi bùn lầy

- Bóng hình chàng em đã không nhìn rõ
Em vẫn còn đang tìm kiếm vẻ tươi cười của chàng thuở ấy

- Ta là một viên đá nhỏ
Chôn sâu thăm thẳm nơi bùn lầy

- Ngàn năm sau, phồn hoa hạ màn
Em vẫn còn vì chàng mà chờ đợi trong gió mưa

Ta vẫn còn vì nàng mà trông giữ trong bùn lầy




Chú thích 3
Tuesday, June 11, 2019 Author: Trường An

Xin giới thiệu 1 hotboy (hay hotman) nằm trong F4 kinh thành, Nguyễn Đăng Giai. =))

Anh là hotboy hàng thật giá thật, sử kiệm lời mà còn ghi vào "trạng mạo khôi ngô", đẹp đến nỗi cha "thấy có tướng lạ, biết rằng sẽ thành công sớm". Cha là Nguyễn Đăng Tuân, làm Thị giảng cho các hoàng tử, Đăng Giai do đó là bạn học của Minh Mạng.

Nếu như Lê Văn Đức thiện xảo thành thục trong việc xử trí công việc chung, thì Nguyễn Đăng Giai đóng vai trò "công trình sư" liên quan đến hầu hết các công trình thủy lợi, khai thác, xây dựng, nói chung chỗ nào cần mở cảng, trị thủy cần điều nghiên, làm bản đồ dựng công trình hay chỉ... góp miệng bàn thì Đăng Giai có mặt. Anh cũng là người đứng đầu phe chủ trì "phá đê" với những lời nói làm nực lòng người sớm mất 200 năm. Đọc các sớ tấu của anh thì kỹ càng đến từng dòng nước từng nhánh sông. Anh cũng là người đầu tiên đề ra đề nghị đào sông Thiên Đức, Nguyệt Đức làm đường thông lũ cho sông Hồng mà Pháp gần 100 năm sau mới thực hiện khi thấy khó có thể bỏ đê.

Nói chung, tấu sớ trị thủy của Nguyễn Đăng Giai vô cùng đáng sợ, là 1 loại kiến thức "bề tôi danh tiếng thời xưa cũng không hơn được", mà chưa chắc người thời nay dám đi dám nghĩ dám làm ở cái mức độ bao quát này. Từng lời từng lời như sao từ 200 năm sau bay về. Chỉ tiếc thời điểm thì chả thích hợp gì khi Minh Mạng ổn định đất nước xong thì chết, Thiệu Trị cũng chết sớm, biến động liên tục thì ai ngó tới mấy cái công trình lớn anh đề ra.

Tính Nguyễn Đăng Giai thì cũng y chang trong mấy tờ tấu nực-lòng-người rằng cả mấy trăm năm làm sai hết trọi rồi, chả được lòng mấy ai trong triều đến mức thấy chỗ nào khó xơi thì chúng hè nhao đẩy anh đến, với cái kiến thức "người trời" của anh thì thái độ "chơi 1 mình đi". Được cái anh chơi 1 mình cũng coi như ổn thỏa, đánh cướp bắt giặc, thậm chí đánh luôn bọn Thái Bình Thiên quốc tràn sang VN cũng là 1 tay anh lo, địa phương anh quản thì no đủ dù cho xung quanh đói mốc.

Nhưng chơi 1 mình thì kiến nghị của anh từ đê điều cho đến dàn binh tập trận vân vân đều bị bác sau khi Minh Mạng đã chết. Hết người làm chỗ dựa ủng hộ, hầu như nói chuyện gì bị bác chuyện ấy, chỉ còn bị đẩy đi vào những chỗ khó nhằn, cuối cùng mắc lam chướng ở miền núi mà chết. Dù nói đi thì cũng phải nói lại rằng các kế hoạch công trình lớn thì khó thực hiện trong điều kiện thực tế lúc bấy giờ.

(Vầng, F4 kinh thành sàn sàn tuổi nhau, người thì như gió xuân, người thì khôi ngô đẹp đẽ, người thì cứng rắn sang sảng như sắt, người thì trùm ngông làm chỗ dựa cho cả bọn. Đều là thanh niên giỏi đến kinh thế hãi tục, bình định 4 phương. Được đúng 4 người, đủ để... viết teenfic. =)) )




Chống lũ thời hiện đại
Sunday, June 9, 2019 Author: Trường An

Đang viết lách chú thích nhưng có cuốn sách hay quá đem giới thiệu chơi. :3

[1] Trong nghiên cứu Bridging theoretical gaps in geoarchaeology: archaeology, geoarchaeology, and history in the Yellow River valley, China của  Tristram R. Kidder và Haiwang Liu của Đại học Washington, chính tác động của con người hàng ngàn năm khiến dòng chảy của Hoàng Hà trở nên nguy hiểm hơn. “Họ xây đê điều càng cao, dòng Hoàng Hà vốn trước ổn định lại càng ngày càng trở nên nguy hiểm”.

[1] Trong chương Physiography of Flowing Water trong cuốn  Freshwater Ecology (Second Edition), 2010 của Walter K. Dodds, Matt R. Whiles, thiệt hại do lũ lụt hàng năm ở vùng sông Mississpisi có đắp đê tăng đến 140% trong vòng 90 năm. Việc này cũng là nguyên nhân nước Mỹ giảm số lượng đê điều (Hey and Philippi, 1995).

[1] Trong chương Sustainable Land Use Planning in Areas Exposed to Flooding: Some International Experiences của cuốn Floods Volume 2- Risk Management, Anna Ribas Palom – David Saurí Pujol - Jorge Olcina Cantos, “Sự tăng cường bảo vệ tuyệt đối với người sống trong vùng lũ lụt tăng cường sự tập trung dân số và yêu cầu bảo vệ cao hơn, kết quả đương nhiên là những nạn lụt tai họa xảy ra với những nơi công trình thủy lợi chưa được chuẩn bị. Kết quả là những thảm họa khả năng thấp nhưng hậu quả cao xảy ra trong những năm gần đây”. Các thành phố như Paris, Lyon, Amsterdam, Rotterdam, Lisbon, Zaragoza hoặc Barcelona…, đã bắt đầu thay đổi phương thức kiểm soát lũ lụt của mình bằng cách chú trọng lập bản đồ dòng chảy của nước và quy hoạch vùng đất đai được đưa vào sử dụng thích ứng với nước sông, mở rộng dòng sông, tạo khoảng không gian cho dòng nước. Kế hoạch này được thông qua bằng Chiến lược lãnh thổ cho châu Âu năm 1999 và Chỉ thị bờ nước năm 2000, Chỉ thị về Chiến lược đánh giá môi trường năm 2001, Chỉ thị về lũ lụt năm 2007, Chỉ thị về ảnh hưởng môi trường năm 2014.

Toàn văn cuốn sách: https://books.google.com.vn/

---

Đây là những điều các quan nhà Nguyễn như Nguyễn Đăng Giai đề xuất vào gần 200 năm trước - và hầu như toàn bộ là những gì vua quan triều Nguyễn làm 200 năm trước, từ chuyện bỏ đê, mở sông, đào sông cho tới tìm cây trồng thích hợp, quy hoạch vùng đất... Cho đến đầu thế kỷ 21 thì châu Âu mới bắt đầu thực hiện.

Hãy đọc các case của Hà Lan, Mỹ, Tây Ban Nha sẽ thấy những điểm cực kỳ xác đáng: "Duy trì đê điều tốn một khoản phí khổng lồ", "Đê điều không làm dòng lũ bớt đi mà ngược lại dâng cao hơn", "lũ lụt hiếm hơn nhưng cực kỳ khốc liệt", "bảo hộ hoàn toàn từ lũ lụt là điều cực kỳ không thực tế"... Và những điều này các nước châu Âu đến thế kỷ 21 mới nhận ra, bắt đầu thực hiện.

"Nước Mỹ đã dỡ bỏ 30.000 công trình xây dựng chống lũ trước đó ở các khu vực nguy hiểm, phục hồi lại dòng chảy tự nhiên của nước, mặc cho sức ép gia tăng."

"Đê càng cao nước càng mạnh sông càng nguy hiểm" là điều mọi ngâm cứu kế hoạch về đê điều gần đây đều nói cùng 1 giọng. Và nó đã được nói 200 năm trước. TT^TT Đây mới gọi là đi trước thời đại nàyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyy.

(Ờ mà nói được nhưng làm méo được bởi quá nhiều cản trở và các thành phần thần thánh.)

 

Đi trước thời đại đến mức người-hiện-đại còn chưa biết đấy là đâu. Giờ này mà còn thành phần đòi đắp đê ở miền Nam nghe chán cả người. Càng đọc về chiến lược thủy lợi mới của châu Âu càng mồ hôi đổ ròng ròng, nhà tui nói lâu lắm rùi óooooooo. Lại đây nhà tui cho 1 case nghiên cứu nà.

 

"Nước Mỹ dỡ bỏ 30.000 công trình đê điều chống lũ từ năm 1994

Trong nhiều năm, đặc biệt là sau suy thoái kinh tế năm 1930s, lịch sử kiểm soát lũ lụt ở Mỹ là hàng đầu trong những thiệt hại về người và của cho người sống trong vùng lũ. Phòng chống lũ lụt bao trùm hoàn toàn mục tiêu thủy lợi trong khi việc phát triển vùng lũ càng khó khăn hơn. Tuy nhiên, mục tiêu bảo vệ hoàn toàn khỏi dòng lũ cả ở mặt phòng chống qua các công trình thủy lợi tốn kém và hỗ trợ kinh tế cho người bị ảnh hưởng sau lũ hầu như là không thể thực hiện được. Ngoài ra, một phần phí tổn này còn đánh lên dân chúng do phát triển khó khăn hoặc qua khoản tiền công cộng dành cho các công trình thủy lợi.

Năm 1927, một dòng chính của sông Mississipi gây lụt 10 bang và thiệt hại đến hàng triệu đôla, làm nảy sinh Bộ luật Lũ lụt vào năm sau nhấn mạnh lấy đê điều làm giải pháp chống lũ. Các đợt lũ lớn khác trong nước thập kỷ tiếp theo khiến chính quyền liên bang đẩy mạnh việc phòng chống lũ và kiểm soát dòng chảy của nước thông qua đập nước cùng các công trình thủy lợi khác. Thế kỷ 20 là thời kỳ vàng cho chính quyền bận rộn xây đập, đê điều, tường chống nước và các công trình liên quan.

Tuy nhiên, ngay từ năm 1950s, 1 nhóm nhà địa chất học ở Đại học Chicago đã cho thấy rằng, mặc dù có khối lượng công trình thủy lợi khổng lồ, công cuộc phòng chống lũ đã thất bại vì dòng nước lũ ở nhiều dòng sông chỉ dâng lên chứ không giảm bớt. Điều này hiện tại được gọi là "Nghịch lý dòng lũ", bởi những gì được coi như đem đến bảo vệ tuyệt đối hoặc không hề có nguy cơ lại tiềm ẩn hậu quả rằng lũ lụt trở nên hiếm hơn nhưng mức độ hủy diệt vượt xa.

Năm 1993, sông Mississpisi lại có cơn lũ khác làm chết 130 người, gây thiệt hại 20 tỉ USD. Năm 2005 lũ Katrina gây hủy hoại phần lớn miền Nam Louisiana, 1300 người chết, 1 triệu người mất nhà cửa, thiệt hại 100 tỉ USD. 2 sự kiện này khiến luật phòng lũ được xem xét lại, đặc biệt là hệ thống đê điều đã cũ, nhưng quan trọng là hiệu quả việc sử dụng đất đai trong vùng lũ.

Cách thức tiếp cận hiện tại cho rằng việc bảo vệ hoàn toàn khỏi nước lũ là một mục tiêu không thực tế. 4 lý do cho điều này: Một là biến đổi khí hậu làm thay đổi chu kỳ thủy lợi gây cực kỳ khó khăn đến gần như không thể cho việc kiến thiết, tái kiến thiết công trình đê điều. Hai là, dù tiếp tục đóng vai trò quan trọng để kiểm soát lũ, nhà nứơc liên bang sẽ giảm đầu tư các công trình thủy lợi từ những năm 1990s. Có 2 vấn đề cơ bản: luật chống lũ thiếu thốn lụn vụn không hề có cái nhìn bao quát từ liên bang có thể chuyển khó khăn xuống cho người ở dưới. Thứ ba, ảnh hưởng hiện tại của đê điều tăng cao nguy cơ thất bại trong lý thuyết chống lũ bằng công trình thủy lợi. Cuối cùng, có 1 nhận thức đang ngày càng rõ rằng nước lũ cũng là 1 tài nguyên và lũ cung cấp nhiều thứ phục vụ môi trường cần được bảo vệ phát huy.

Mặc dù có nhiều áp lực, chính quyền liên bang đã có thể dời hoặc dỡ bỏ các công trình thủy lợi (hơn 30.000 công trình từ năm 1994) ở những vùng nguy hiểm và phục hồi 1 phần dòng chảy tự nhiên của nước. Mặt khác, lập bản đồ dòng nước cũng trở nên ngày càng chính xác hơn do công nghệ phát triển."

 




Thời băng hà nhỏ
Sunday, June 9, 2019 Author: Trường An

Thời kỳ băng hà nhỏ là giai đoạn khí hậu trái đất lạnh đi từ năm 1300 tới khoảng 1850, đỉnh điểm là từ thế kỷ 16 tới 19. Nói chung là trái đất lạnh đi, mùa đông rét buốt, mưa lụt cùng các loại dịch bệnh, cả thế giới chết đói.

Cho nên đọc sử thời Lý thấy sứ TQ sang bảo mùa đông ở đây ấm lắm mài ơi, chúng tao ngồi quạt veo veo, thì... đây là thời thuộc Thời kỳ ấm Trung Cổ, chắc cỡ tương đương mùa đông ở miền Bắc bây giờ mát hơn 1 tí. Vào thế kỷ 13 khí hậu ấm áp, thế giới ghi nhận sự gia tăng dân số toàn cầu, mưa (tương đối thuận) gió (tương đối) hòa. Cho nên bước vào thế kỷ 14 bắt đầu... sặc gạch với thiên tai.

Tất nhiên thì trái đất muốn nóng lên hay lạnh đi cũng phải từ từ. Nên theo 1 số nghiên cứu bây giờ, thời kỳ thảm họa này bắt đầu bằng dịch bệnh... trong băng chảy ra thời trái đất nóng lên trước đó, gây nên nạn dịch hạch càn quét cả thế giới, chết hàng trăm triệu người. Ở châu Á, sự biến đổi khí hậu này thấy ngay năm 1229, gây nên nạn đói Kanggi khủng khiếp nhất trong lịch sử Nhật Bản "do thời tiết lạnh, ẩm bất thường" suốt chục năm liền. - À, và đây là thời điểm... nhà Lý ở VN bắt đầu sụp đổ.

Năm 1440 trở đi là một loạt nạn đói từ châu Mỹ cho đến Nhật Bản, tiếp tục gây nên nạn đói Kansho, và đây là thời kỳ... Trần cùng Hồ sụp đổ.

Từ năm 1569 tới năm 1620 là nạn đói càn quét toàn châu Âu trên diện rộng, ở Nga đến 2 triệu người chết 1 mùa. Đây cũng là thời kỳ nhà Minh Trung Quốc sụp đổ do loạn lạc từ dân đói, ở Nhật Bản từ năm 1540 đã có nạn đói Tenbun. Và ở VN thì giai đoạn này Lê sơ cùng Mạc cũng thi nhau rơi. Đáng chú ý cuối thời Mạc liên tục ghi chép lụt lội, 1 năm lụt tới 7 lần.

Từ năm 1600 trở đi, thế giới lâm vào tình trạng đói kém nặng nề. Thời Tokugawa ở Nhật chỉ trong 250 năm ghi nhận đến 154 nạn đói, trong đó 21 trận đói to nặng nề, tính ra chỉ được khoảng 50 năm coi như không đói.

Từ năm 1730 trở đi, nạn đói trở nên khủng khiếp ở châu Á. Tại Ấn Độ, mỗi trận đói ghi nhận hàng chục triệu người chết. Nạn đói năm 1780s ở Nhật giết chết gần 1 triệu người (hãy so với dân số đảo quốc này). Ở Trung Quốc từ năm 1810 đến năm 1846 có 4 trận đói lớn làm 45 triệu người chết.

Nói chung là... hãy dòm sang sử Nhật Bản, có lẽ vì đều là quốc gia ven biển nên khí hậu biến động tương đồng. Điều này cũng cho thấy tác động biến đổi khí hậu của trái đất có lẽ sớm hơn ở vùng châu Á ven biển so với châu Âu.

Và thật ra nữa thì... toàn bộ lịch sử là 1 màn biến đổi khí hậu. =)) Nhìn sang lịch sử Nhật Bản, Ấn sẽ thấy có chiện rất hay ho là nhà người ta yên thì nhà mình yên, lúc nào ghi "có nạn đói" là quanh quanh đó mấy năm nhà mình có chiện.

List danh sách nạn đói toàn cầu https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_famines Ở đây không có Trung Quốc chắc do lịch sử quá phức tạp, địa hình quá rộng. Nhưng nếu phân tích nạn đói miền Nam Trung Quốc thì có thể càng rõ điều kiện khí hậu hơn.

Vừng, nói lịch sử là màn biến đổi khí hậu nghĩa là có màn đổ-thừa hơi cao. Ở châu Âu thì nghe đồn là nạn săn phù thủy cùng 999 trò mê tín giết chóc nhau khác là đổ thừa mài làm trời mưa trời nắng trời hạn trời lụt. Ở châu Á thì hễ đói là bất kể sử Tàu, Nhật, Hàn, Việt, Ấn gì cũng ghi "dân kéo đàn đi ăn cướp". Và đói to ở Nhựt thì... ghi nhận chính quyền VN sụp, amen - Tất cả là lỗi của ông giời. Thiệt trăm phần trăm.

Tại sao chính trị VN nhạy cảm với thời tiết như thế thì trước hết là tại... bé, không thể dùng đầu này đắp đầu kia, thằng vùng kia no đạp thằng vùng nọ đói xuống. Thiên tai nhỏ không sao chứ thiên tai lớn là cả nước đói chung. Sau nữa là do chế độ phân quyền, lúc no thì nhìn nhau vừa mắt chứ lúc đói không cướp của nhau là may, lúc đầy đủ thì yên ổn chứ lúc thiếu thốn thì sẽ nảy sinh ra 99999 chuyện, mà có mâu thuẫn ắt đánh nhao thôi. Thằng thắng sẽ bôi thằng thua 1001 tội mà cái tội to nhứt chắc là... ở đó lúc trời mưa (bão) - aka không hợp lòng giời.

Điều này cũng giải thích cho hệ thống đê điều của thời Lý Trần chỉ đắp vào lúc nước dâng để làm lúa, hết mùa thì mở cho nước chảy vào đồng ruộng. Lúc này thỉnh thoảng ghi nhận có nạn lụt nhưng cũng chỉ mất mùa. Năm 1245 mới có ghi nhận đầu tiên "tháng 8, nước to, vỡ đê Thanh Đàm". Nhưng nạn lụt năm này chỉ ghi nhận "rắn, cá chết nhiều". Đến năm 1352 mới có ghi nhận "lúa má bị thiệt hại". Năm 1411, "trôi cả nhà cửa của dân". - Toàn bộ đều là mức thiệt hại ngày càng dâng cao.

Cho nên trên cái nền đê lúc đóng lúc mở thời Trần, nhà Lê đã cho lấy đá, gạch đắp luôn vào thành một hệ thống phòng ngự. Mà theo Nguyễn Đăng Giai thì "từ Sơn Tây đến Nam Định, dân ở ngoại đê hàng trăm xã, khi mưa lũ thì ở bằng sàn, đi bằng thuyền, khi nước rút, ruộng không phải cày cấy gì mà lúa cắm xuống đã mọc lên tươi tốt, không có nhà dân nào phải dời đi, ruộng chẳng phải bỏ hoang bao giờ. Còn ở những vùng nằm trong vòng bao bọc của đê thì '… bên trong thì mong nước như khát mà bên ngoài coi nước như thù, muốn đào ra lấy nước thì sợ vỡ đê, muốn hộ vệ đê điều cho vững thì ruộng lúa chịu bỏ, làm đê vệ nông mà lại ngăn trở việc nông…'". Aka chỗ thì hạn chỗ thì lụt, ruộng thì cằn. Điều này cũng giải thích tại sao vùng Thái Bình, Nam Định lại là vựa lúa Bắc bộ (nhân chứng bảo đến tận năm 1970 thì mỗi mùa nước vẫn dâng, dân gọi là mùa lụt). Ngay ở Bắc bộ đã có 2 "địa hình sông", thực tế chứng minh thằng nào chịu chung sống với thiên nhiên hơn thì thằng ấy khỏe hơn.

Nhưng với tình hình thời tiết thì không phải đến mùa nó mới lụt, lỡ lúa chưa thu xong mà nó lụt thì nàm xao? Năm 1833 nước dâng cao hơn 10m, đê nào cũng ra cục đất hết thì nàm xao? Ờ thì trời kêu ai nấy dạ, cách nào cũng có khuyết điểm. Dưng mờ cái phản ứng thấy nước dâng cao thì xây thành nội bất xuất ngoại bất nhập, đê ngăn mặn không nói mà ngăn hết cả sông ngòi mà không cho 1 cái sông thoát nước tưới tiêu nào thì... quả nhin là dân vùng núi không biết chữ "ruộng nước" nó có nghĩa gì. Tra ra thì người phụ trách làm đê là Lê Niệm, viên tướng trong núi. Ờ thì nước lớn bất thường nên đắp đê, dưng đắp loạn xạ để nước nó càng mạnh, xong rồi không cho nó 1 đường thoát, quả nhin là trình làm nông nghiệp của tướng lĩnh. Rồi hơn 200 năm sau đó mạnh ai nấy xây, mạnh ai nấy đắp. Cái hậu quả thì chỉ mấy chục năm sau đã thấy. Mà nghĩ cũng lạ, làm lúa xong rồi đốt nương, lấy nước sông tưới ruộng là cái thường thức mấy ngàn năm, đê ngăn mặn thì không nói chứ đê nông nghiệp mà lấy đá tảng xây đúng là... kỳ quặc. Ngay cả đê ngăn mặn cũng phải thoát nước rửa mặn mà. Đến đập thủy điện cũng phải thoát nước, đàng này cả vạn km đê mà không có chỗ thoát thì núi cũng lở. Trình xây dựng thiệt là đáng xợ...

Hãy dòm Thái Bình (trước thuộc Nam Định) với 2 hệ thống sông trong đê và sông ngoài đê. Sông bự lấy phù sa, sông trong đê cấp thoát nước, lụt thì lúa thu xong ồi khểnh chân nằm ngủ. Ờ thì cũng có những năm lụt to trôi mất nhà, nhưng vùng ven biển không lụt thì cũng bão, chả lẽ xây đê giời?

Có lẽ từ thời Lê dân đồng bằng Bắc bộ lại bắt đầu quen với tập tục "vùng cao", aka không còn là hệ thống "đê mở" hết mùa thì cho nước vào của Lý Trần, thậm chí ở vùng ven vẫn còn? Cũng giống dân 1 số vùng ven sông của VN bây giờ, năm nào cũng lụt nhưng không hề có cách biến chuyển thay đổi gì thích ứng chuẩn bị trước? Cũng có thể, lụt thời Lý Trần thì... chết tí tôm tí cá thôi, thời tiết ấm mà, cho nên dân trung tâm Bắc bộ thực chất chưa bao giờ là dân-vùng-lũ. Khi phản ứng với nước dâng bất thường của kỷ băng hà thì phản ứng đầu tiên là... cản lại. Kết quả càng làm nó to hơn. Có thể từ cái mức chỉ úng trong sông hồ khiến tôm cá chết, càng xây đê lắm càng oan trái nhiều.

Người sống trong vùng lũ thật, ví dụ như dân sống ven biển hay cuối nguồn sông, kể cả từ Quảng Trị trở vào năm nào cũng vẫn lụt mà chả xao. Ở Hội An có cái nhà cổ ghi mức lụt cao hơn cả đầu người.

Quay lại với chủ đề thời tiết, ờ rằng thì là nhận biết biến đổi thời tiết là chiện vô cùng quan trọng trong lịch sử, giải thích kha khá cho việc tại sao lúc ấy làm thế này được mà lúc kia không được, tại sao cái này nó ở đó mà không ở kia.




LTT
Friday, June 7, 2019 Author: Trường An

Lê Thị Tường và bí ẩn những cái tên.

Thì mà rằng thì là theo tin-đồn lẫn biểu hiện ra ngoài thì Minh Mạng với con gái Lê Chất chả ưa gì nhau - hông ưa từ cả 2 phía chứ hông phải riêng bên này ghét bên kia. Con thì chỉ có 1 đứa kiểu tân hôn xong nghĩa vụ là đá nhao thẳng. Nhưng mờ, khi soi ra thì hình như hông phải, hay ít ra... Minh Mạng hông ghét cô Tường đến vại.

Bắt đầu từ thú-vui-tao-nhã của Song Tử là đi đặt tên gọi mật danh. Khi vào cung, Lê Thị Tường được đổi tên là Hinh. Hinh thì... gần nghĩa với Phương - từ nghĩa hương thơm đến tiếng tốt, danh hay, duy có Hinh là hương lừng, hương xa, hương ngọt, aka rõ ràng mạnh mẽ. Có điều Phương phải đi liền với hoa cỏ, còn Hinh thì mang hầu hết đầy đủ nghĩa của Phương, nhưng không nhất thiết gắn với Hoa. Các nhà thơ thường dùng Hinh đi với cỏ thơm hơn. Phương ít khi viết với Hương, nhưng thường gắn với Hinh, ví dụ "phương hinh". Phương Hinh là một cặp từ bao phổ biến luông.

Thì Minh Mạng "thích" chữ Phương ở cái mức độ nào thì cái gì tốt gì đẹp cũng gắn tất, vậy đem chữ Hinh cho 1 cô thì có ghét cô đó không? Thậm chí còn có thể thấy trong thâm tâm cho rằng cô "Hinh" này có những đặc tính rất giống Phương - có điều, ờ, chả liên quan đến Hoa.

Dưng mờ cha cổ thì méo yêu được, cổ thì chắc suốt ngày cầu giời cho vua chết, cuối cùng án xử xong thì phải xử luôn cổ. Nhưng mà trong chục năm đó, lại có những cái tên khác xuất hiện ở... con gái Minh Mạng.

Ban đầu MM thích dùng tên ngọc đặt cho con gái, nhưng sau thì 1 phần do quyền cao, 1 phần chắc vì... lười, nên bắt đầu dùng toàn mấy chữ đức tính tốt như Trinh Đức Nhàn Tĩnh Lương Hòa vân vân. Đến năm 1827 tự nhiên xuất hiện cái tên mới "Tường Hòa", đứa con gái tiếp theo năm sau "Tường Tĩnh". Trong khi năm 1827 là năm sau loạn Phan Bá Vành, MM đáng ra phải nghiến răng trèo trẹo chửi Lê Chất tơi bời, mà đúng là chửi thiệt. Vậy mà đem tên cúng cơm của con gái ổng đặt cho 2 đứa con liền, trong khi trước đó chưa từng dùng tới. Nếu ghét cay ghét đắng thì đáng ra nhắc đến đã thấy ghét, đâu ra đặt gọi cho vui trong nhà vại.

Cái chữ Tường này lại thấy xuất hiện năm 1834 - Hòa Tường. Hết Tường Hòa rồi đến Hòa Tường. Năm 1834 cũng là năm đang loạn từ Nam chí Bắc, triều đình chắc cũng đang bốc hỏa chửi 2 ông quyền thần đòi tru di tam tộc. Vậy rút ra kết luận: Cứ lúc nào chởi ông bố là đem tên con gái ổng ra đặt tên. Là xao? Là xao?

Và 2 đứa con gái cuối cùng sinh ra sau khi MM chết tên là Trang Tường, Phúc Tường. Có thể là do Thiệu Trị đặt, nhưng cũng nói lên là cả 2 người với cái tên "Tường" này rất không ghét, thậm chí có cảm tình. Nhưng Thiệu Trị lại không có con gái nào đặt tên là Tường, vậy 2 cái tên này có vẻ là MM đặt trước hơn.

Trong các phong vị mà Gia Long đặt thì Hiền tần, Trang tần, Thục tần, Huệ tần, Lệ tần, An tần, Hòa tần đều đã dùng hết, chỉ còn lại Đức tần. Đầu thời MM, Hiền phi chỉ được phong tới Hiền tần, vậy người đứng sau hẳn là mang chữ Đức tần này. Tên Hinh còn có nghĩa là đức độ danh tiếng.

Sau đó khi MM lập cung giai năm 1836, vẫn có phong vị Đức phi, trong khi các vị tần ở dưới không hề có ai mang chữ Đức - sau đó mới chuyển thành Gia phi. Năm 1835 mặc dù xử án 2 ông họ Lê nhưng vẫn là án chờ xét lại, sau đó thu thẩm 3 năm sau thì vợ của Lê Văn Duyệt, Lê Chất, con gái phụ nữ đều tha hết, các án cũng giảm xuống 1 bậc. Vậy có thể nói cung giai năm 1836 vẫn để 1 chỗ lại cho "Đức tần" này, thậm chí còn là Đức phi nhưng bị đổi lại? Nhiều khả năng Lê Thị Tường sau khi bị giam năm 1835 đã chết ngay năm sau, hoặc không dùng chữ Đức phi này được. Lưu ý, chữ Gia cũng có nghĩa là "may mắn, phúc lành" - aka Tường phi.

Vừng, dù chả ăn ở gì với nhao, dù thù sâu hận cao, dù (nghe đồn) cổ chỉ cầu vua lăn ra chết, nhưng nhìn hành động thì hình như rất là không ghét nhau, thậm chí còn là trọng thị nhau. Có ai ghét mà đem tên người ta đi đặt cho 5 đứa con gái theo kiểu "chỉ mong mài được như cô Tường". Ai ghét phế xong vẫn để phong hiệu lại, thậm chí còn có cái phong hiệu cao hơn chờ sẵn, để trống luôn ở đó.

Miên Liêu được ghi nhận "từ nhỏ đã nổi danh hay thơ", đi theo Tự Đức làm thơ được cho khắc làm bản sách cho học đường. Cả nhà này không ai ghét cô Tường, dù Tự Đức vẫn từ chối xóa tội cho Lê Chất.





Copyright © Trường An. All rights reserved.